Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 14

22/04/201317:29(Xem: 8463)
Phần 14

NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2001

TOÀN TẬP

TÂM NHƯ TRÍ THỦ

--- o0o ---

TẬP 3

HIỆP CHÚ

CHƯƠNG BA

PHÁP BẤT ĐỊNH

I. TỔNG TIÊU:

A. CHÁNH VĂN:

Thưa các Đại đức, đây là hai pháp bất định xuất từ Giới kinh, nửa tháng tụng một lần.

B. LƯỢC GIẢI:

+ Gọi làbất định pháp, vì trong ba thiên tội, hoặc ba la di, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, khi cử tội, chưa thể dứt khoát xác định nó thuộc thiên nào. Sở dĩ có tính cách bất định như vậy là vì ở đây Tăng căn cứ vào báo cáo của một Ưu bà di trụ tín. Nhưng vì là cư sĩ, Ưu bà di ấy không biết rõ tội danh, mà chỉ thấy Tỳ kheo có hành vi được coi là phi pháp, nên báo cáo cho Tăng biết để xử trị. Đây là trường hợp duy nhất mà một Phật tử tại gia có quyền cử tội một Tỳ kheo. Nhưng không phải rằng bất cứ Phật tử tại gia nào cũng có thể nêu tội Tỳ kheo và Tăng căn cứ theo đó mà xử trị. Theo Luật quy định, đây phải là một trụ tín Ưu bà di, nghĩa là một nữ cư sĩ đã thành bốn chứng tịnh, cũng gọi là bốn bất hoại tín. Một vị đã thành tựu bốn chứng tịnh này đương nhiên đã chứng Sơ quả là thấp nhất. Và cao nhất ở đây là A na hàm. Vì nếu chứng quả A la hán đương nhiên là người xuất gia, tức Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni. Với sự thành tựu bốn chứng tịnh, vị ấy dù mất sinh mạng cũng không bao giờ nói sai sự thực. Vả lại, do tín tâm bất động đối với Phật, với Pháp, với Tăng và với Thánh giới, cho nên, khi một trụ tín Ưu bà di nêu tội một Tỳ kheo trước Tăng, thì hành vi này tất nhiên không do sự tị hiềm, thiên vị, và các Tỳ kheo đều biết rõ điều đó; như vậy, sự việc mới không dẫn đến tranh luận và chia rẽ giữa các Tỳ kheo trong khi luận tội.

Dù có lời báo cáo của Ưu bà di trụ tín, nhưng khi luận tội, để kết luận tội danh và tội chủng, Tăng phải căn cứ trên sự tự nhận của Tỳ kheo bị nêu tội. Trong Luật quy định, không bao giờ Tăng được phép buộc tội một Tỳ kheo mà không có sự tự nhận của vị ấy. Trong trường hợp này, đối với Tăng, sự báo cáo của vị Ưu bà di trụ tín là đáng tin cậy, nhưng nếu vị Tỳ kheo bị nêu tội từ chối không xác nhận tội phạm của mình, Tăng phải có biện pháp xử lý. Các bộ Tăng kỳ 7, Thập tụng 4, Căn bản tỳ nại da 16, đều quy định rõ rằng, nếu Tỳ kheo bị nêu tội không chịu tự xác nhận, Tăng cần tác pháp mích tội tướng là điều thứ 5 trong bảy pháp diệt tránh sẽ được nói trong Chương bảy pháp diệt tránh ở sau.

Riêng Tứ phần5 nói hơi khác các bộ kể trên. Theo đây, nếu Tỳ kheo bị nêu tội từ chối không chịu nhận, Tăng xử trị theo lời của Ưu bà di báo cáo ấy. Nhưng sự kiện này có lẽ do văn tối nghĩa, hoặc dịch giả dịch sai lạc nguyên bản.

Nói tóm lại, sở dĩ bất định, là vì người cử tội không biết rõ tội danh, tội chủng, chứ không phải bất định trong sự xử trị.

II. GIỚI TƯỚNG:

ĐIỀU I.Bình xứ tọa.

A. CHÁNH VĂN:

Tỳ kheo nào, cùng một người nữ một mình ngồi tại chỗ khuất, chỗ kín, chỗ có thể hành dâm, nói lời phi pháp. Có vị Ưu bà di trụ tín nói một trong ba pháp, hoặc ba la di, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, và Tỳ kheo ngồi ấy tự xác nhận: “Tôi phạm tội ấy”, vậy cần xử trị một trong ba pháp, hoặc ba la di, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, đúng như lời của vị Ưu bà di trụ tín. Cần phải như pháp xử trị Tỳ kheo. Đây gọi là pháp bất định.

B. LƯỢC GIẢI:

1. THÍCH NGHĨA:

+ Nếu Tỳ kheo… có vị, trụ tín Ưu bà di:theo sự giải thích của Luật nhiếp 5, đoạn văn này bao gồm 4 yếu tố cơ sở của pháp bất định: 1. Sự, Tỳ kheo một mình ngồi chung với một nữ. 2. Xứ, ngồi tại chỗ khuất, chỗ kín. 3. Tình, có thể hành dâm. 4. Chứng, có sự chứng kiến của vị Ưu bà di trụ tín. Đây là giải thích y trên Luật Căn bản, nhưng chánh văn trong bộ này không nói đến yếu tố nói lời phi pháp như trong Tứ phần. Vậy, theo Luật Tứ phần, có thể có 5 yếu tố:

+ Nói một trong ba pháp:nêu rõ ý nghĩa bất định. Đây không phải là vị trụ tín Ưu bà di ấy có thể nêu rõ tội danh và tội chủng, mà vị ấy chỉ báo cáo sự việc xảy ra và Tăng căn cứ trên đó để xác định hành vi của Tỳ kheo ngồi ấy là hành vi thuộc ba la di, hay thâu lan giá của ba la di, hoặc đó là hành vi thuộc tăng già bà thi sa v.v…

+Và Tỳ kheo ngồi ấy tự xác nhận… đúng như lời của vị Ưu bà di trụ tín: sự luận tội của Tăng dựa trên hai cơ sở: lời báo cáo của Ưu bà di trụ tín và lời xác nhận của Tỳ kheo bị nêu tội. Nếu cả hai phù hợp, bấy giờ Tăng mới có thể kết luận tội danh và tội chủng.

+ Cần phải như pháp xử trị:Lời báo cáo của vị Ưu bà di trụ tín chỉ là sự cử tội, chứ không thể là lời kết tội, xử trị như pháp là phải căn cứ trên sự tự xác nhận của Tỳ kheo bị nêu tội.

Tứ phần 5 giải thích biện pháp xử trị như sau: Nếu Tỳ kheo ấy tự xác nhận có đến chỗ đó, có ngồi hoặc nằm tại chỗ đó, và có làm sự việc đó; thì căn cứ theo lời xác nhận này mà xử trị với tội tướng phù hợp. Nếu Tỳ kheo chỉ xác nhận có đi, có ngồi hoặc có nằm nhưng không có làm sự việc đó, trong khi theo lời báo cáo của Ưu bà di trụ tín thì Tỳ kheo ấy có làm sự việc đó; vậy, căn cứ theo lời của Ưu bà di trụ tín mà xử trị… Đoạn văn giải thích này cần bổ túc bằng các bộ Tăng kỳ 7, Thập tụng 5 và Căn bản tỳ nại da 16 như đã dẫn trên. Nghĩa là, Tăng cần tác pháp mích tội tướng, cho đến khi nào lời xác nhận của Tỳ kheo ấy phù hợp với lời báo cáo của vị Ưu bà di trụ tín, bấy giờ mới kết luận tội danh để xử trị.

2. PHẠM TƯỚNG:

Do tính cách bất định, nên các yếu tố vi phạm tùy theo từng điều khoản của 4 ba la di, hoặc 13 tăng già bà thi sa, hoặc 90 ba dật đề. Thiên này không có phạm tướng riêng biệt, mà chỉ có 4 hoặc 5 yếu tố cơ sở để nêu tội như đã nêu trên mà thôi.

3. DUYÊN KHỞI:

Tứ phần 5: Phật tại Xá Vệ. Ca Lưu Đà Di ngồi chung với Trai Ưu bà di trong chỗ khuất. Bà Tỳ Xá Khư, một nữ cư sĩ đã thành tựu bốn chứng tịnh, có việc đến nhà Trai Ưu bà di. Từ xa, nghe trong nhà có tiếng nói của Ca Lưu Đà Di, ngỡ là đang thuyết pháp, nên đến dựa vào vách để nghe, nhưng chỉ nghe những lời phi pháp. Bà đem sự việc này trình với Phật, với thiện ý là Phật cấm các Tỳ kheo có hành vi như vậy, để tránh những đàm tiếu của các tục gia đối với các Tỳ kheo. Phật do đó kết giới này.

Đại khái các bộ khác cũng tường thuật duyên khởi là do bà Tỳ Xá Khư bạch Phật về việc Ca Lưu Đà Di. Những chi tiết khác nhau không đáng kể, do đó đây không dẫn hết.

ĐIỀU 2. Lộ xứ tọa.

A. CHÁNH VĂN:

Tỳ kheo nào, cùng một người nữ ngồi tại chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, nói lời thô tục. Có vị Ưu bà di trụ tín nói một trong hai pháp, hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, và Tỳ kheo ngồi ấy tự xác nhận: “Tôi phạm tội ấy”; vậy cần xử trị một trong hai pháp tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề, đúng như lời của vị Ưu bà di trụ tín. Cần phải như pháp xử trị Tỳ kheo ấy. Đây gọi là pháp bất định.

B. LƯỢC GIẢI:

Nội dung điều học này, và duyên khởi của nó, cũng giống như điều 1 trên. Điểm khác biệt ở đây là, Tỳ kheo không ngồi tại chỗ kín, chỗ khuất, chỗ có thể hành dâm, mà ngồi ở chỗ trống. Vì tại chỗ đó không thể hành dâm được, nên không thể phạm ba la di, do đó chỉ có sự bất định giữa một trong hai pháp: hoặc tăng già bà thi sa, hoặc ba dật đề. Biện pháp xử trị cũng giống như điều 1.

III. KẾT THUYẾT:

A. CHÁNH VĂN:

Các Đại đức, tôi đã tụng xong hai pháp bất định.

Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không?

Các Đại đức trong đây thanh tịnh, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

B. LƯỢC GIẢI:

Không như hai thiên trên, trong phần kết thuyết có nêu tổng quát các nguyên tắc xử trị phạt căn bản. Chương này không có phạm tướng riêng biệt, nên chỉ kết và hỏi thanh tịnh.

--- o0o ---


Source:www.phatviet.net

Vi tính: Nguyên Trang, Nhị Tường - Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2017(Xem: 21221)
Sư Trưởng pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông, nay thuộc thủ đô Hà Nội. Thân phụ là một công chức người Pháp, cụ ông Etienne Catallan. Thân mẫu là một y sĩ người Việt, cụ bà Nguyễn Thị Đắc. Vì thế Sư Trưởng còn có tên thế tục tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
20/05/2017(Xem: 6714)
Gần như một quy luật tất yếu khi nói đến Hòa Thượng Lê Khánh Hòa ( 1877 - 1947 ) ( Tổ Khánh Hòa - Ngài) phải đề cập đến phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX . Cả một cuộc đời dấn thân trên lộ trình tiến tu giải thoát, luôn nặng gánh ưu tư cho tiền đồ Phật giáo trước mối suy vong song hành cùng vận mệnh dân tộc dưới gót giày xâm lược của giặc Pháp. Là một tăng sĩ với trọng trách "sứ giã Như Lai", Tổ Khánh Hòa đã sớm nhận thức rõ trách nhiệm cao cả ấy và vận dụng đạo đức, năng lực bản thân tữ mình thắp lên ngọn đuốc tiên phong, vén màn đêm dày đặc, bước đi từng bước nhọc nhằn, khó khăn ban đầu để tạo nên một luồng gió chấn hưng mang vô vàn lợi lạc cho Phật giáo mà cho đến tận hôm nay sử sách vẫn còn ghi đậm những dòng chữ vàng son óng ánh chưa hề phai nhạt.
22/04/2017(Xem: 9116)
CT HTB số 205 cho thứ 7 ngày 22/4/2017 Chủ đề: Nhân ngày lễ Phật Đản ôn lại Tổ sư Thiền của Phật giáo Việt Nam. Thành viên thực hiện: Lâm Như Tạng, Lê Tâm.
19/04/2017(Xem: 6128)
Đã 42 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi. (1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng hoặc còn suy tôn ông Diệm thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn
15/04/2017(Xem: 8134)
Thiền Sư Pháp Loa với công trình văn hóa đời Trần
01/04/2017(Xem: 14607)
Trọn một ngày làm nhà tu hành – ăn như sư, ngủ cạnh sư, thiền và đọc kinh cùng sư, lao động cùng sư. Có những lúc đã cảm thấy phát điên về sự chậm rãi trong hoạt động, sự khắc khổ trong cuộc sống. Nhưng cũng ngộ ra nhiều điều! Và 24 giờ đó quả là kinh nghiệm đặc biệt trong đời làm báo. Vào những tháng đông đầu năm 1998, khi đang làm việc cho đài phát thanh NHK của Nhật Bản, tôi đề xuất chủ đề tôn giáo với mục đích giới thiệu đầy đủ hơn về các đạo tồn tại ở Nhật cho thính giả Việt Nam, bên cạnh Thần đạo đã được nói đến quá nhiều. Nhưng việc đi thực tế trong lĩnh vực này không đơn giản. May được một đồng nghiệp người Nhật tích cực tìm kiếm và phát hiện một ngôi chùa có thu nhận người nước ngoài. Mọi công việc thu xếp qua điện thoại và… email do người bạn Nhật đảm trách, và đúng ngày hẹn tôi khoác balô lên đường.
24/03/2017(Xem: 8561)
Theo Dương Lịch, 23 tháng Ba là ngày giỗ của Huynh Trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu. Tôi chợt nhớ đến bài thơ viết để tiễn biệt anh và cũng để nhắc nhở các anh chị em Gia Đình Phật Tử khắp nơi biết ngày anh ra đi. Bài thơ khá dài và kết luận bằng câu “Và đừng xa nhau nữa”.
18/03/2017(Xem: 7372)
Di cốt của vị thiền sư đã khai sáng ra dòng thiền Lâm Tế - Liễu Quán ở đàng Trong - dòng thiền thứ hai sau thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được nhập vào một ngôi tháp cổ kính ở xứ Huế. Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) là người đã khai sáng ra chi phái Thiền mới (Thiền phái Liễu Quán), mang đậm phong cách của Văn hóa phật giáo Việt Nam còn truyền lại đến ngày nay. Sau khi viên tịch, di cốt của thiền sư được nhập vào bảo tháp thuộc vùng rừng thông của làng An Cựu xưa (Thừa Thiên Huế). Đây là một ngôi tháp đẹp, cổ kính và uy nghiêm. Nhiều du khách lần đầu đến Huế, nếu không biết thì có thể nhầm đây là lăng tẩm của một vua chúa nào đó của triều Nguyễn bởi quy mô xây dựng, kiến trúc và địa thế phong thủy của bảo tháp.
06/03/2017(Xem: 7126)
Nhân lễ húy nhật lần thứ 18 Sư Bà Thích Đàm Lựu, vị Thầy sáng lập chùa Đức Viên vào năm 1980 tại thành phố San Jose, Hoa Kỳ; chùa Đức Viên đã tổ chức khóa niệm Phật báo ân trong hai tuần, từ ngày 18 tháng 02 đến ngày 04 tháng 3 năm 2017. Buổi lễ tưởng niệm chính thức được tổ chức vào sáng ngày 04 tháng 3 năm 2017. Đặc biệt, vào tối ngày 03 tháng 3 năm 2017, chùa đã tổ chức đêm đốt nến tưởng niệm Sư Bà, vị Thầy kính yêu của Ni chúng. Đêm huyền diệu với tiếng tụng kinh cầu nguyện, những lời tâm sự bên những ngọn nến lung linh, những giọt nước mắt chảy dài trên má chư Ni và Phật tử. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm, thành kính, tràn đầy cảm xúc, lòng kính thương vô biên Sư Bà tọa chủ!
04/03/2017(Xem: 10060)
Xuất gia là một đại nguyện. Giữ được Tâm trong không thối chuyển là một đại duyên. Tại Việt Nam hôm nay, nếu lấy tròn số sẽ có 45.000 tu sĩ Phật giáo với dân số 100.000.000 người thì trung bình cứ 2.200 người mới có một người đi tu theo đạo Phật. Tại Hoa Kỳ hôm nay, ước lượng có 1.200 tu sĩ Phật giáo trên tổng số 2.000.000 người Việt thì trung bình cứ 1.600 người có một tu sĩ Phật giáo. Con số tự nó không đánh giá chân xác được tình trạng tôn giáo và chiều sâu hành đạo của các tu sĩ thuộc tôn giáo đó. Nhưng ít nhiều phản ánh được những nét tổng thể của mối quan hệ giữa quần chúng và tổ chức tôn giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]