Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Cái trí trống không

18/07/201103:41(Xem: 3760)
17. Cái trí trống không

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

17

Cái trí trống không

N

ăm 1974 K đã yêu cầu tôi viết quyển thứ hai của tiểu sử anh. Tôi cũng muốn viết lắm nhưng chần chừ rất lâu trước khi bắt đầu nó, vì biết rằng viết nó sẽ khó khăn hơn quyển đầu tiên mà có một câu chuyện lôi cuốn, nếu không muốn nói rằng quá say mê khi viết. Không có nhiều việc đã xảy ra phía bên ngoài trong bốn mươi năm qua, mặc dù anh đã sống một sống bên trong rất ly kỳ. Chỉ mãi đến năm năm sau tôi mới cảm thấy sẵn sàng để viết quyển sách và một trong những bước đầu tiên là thực hiện một nỗ lực khác để khai mở sự huyền bí về: anh là ai và là gì. Đọc quyển Notebookđã không giúp tôi làm sáng tỏ sự hoang mang của tôi.

Vì vậy, tháng sáu năm 1979 khi K đến Brockwood, tôi đi xuống đó và có hai nói chuyện lâu cùng anh. Mary Zimbalist, có mặt ở đó, ghi ra giấy. Lúc đó tôi không tự ghi ra và không thích ý tưởng sử dụng một máy thâu băng mà có lẽ ngăn cản sự tự nhiên. Nói chuyện đầu tiên xảy ra trong căn phòng ngủ rộng của K, nhìn về hướng nam qua bãi cỏ và những cánh đồng xa xa, trong khi anh ngồi trên giường, lưng thẳng và hai chân bắt chéo trong một áo choàng tắm dài màu xanh lạt. Có một hương thơm thoang thoảng của gỗ bạch đàn trong phòng mà tôi luôn luôn kết hợp cùng anh. Thậm chí trong tờ giấy viết của anh cũng có hương thơm của nó. Sáng đó anh rất tỉnh táo và có vẻ háo hức để thực hiện sự khám phá mới mẻ nào đó.

Tôi bắt đầu bằng cách hỏi anh liệu anh có thể giải thích điều gì đã khiến anh là anh là gì. Anh đặt ngược câu hỏi này bằng cách hỏi tôi sự giải thích nào mà tôi nghĩ là có thể được. Tôi trả lời, dĩ nhiên giải thích hợp lý nhất là lý thuyết của Besant-Leadbeater về Chúa Maitreya đang tiếp quản một thân thể được chuẩn bị đặc biệt cho sự cư ngụ của Ngài, cái tôi mà đã tiến hóa qua một loạt những đầu thai cho đến khi nó được sinh ra trong một thân thể Bà la môn, mà tinh khiết hơn bất kỳ thân thể nào khác, bởi vì đã không ăn thịt trong vô số những thế hệ. Giải thích này cũng trả lời cho ‘cái tiến trình’ – thân thể đang ‘được làm cho ăn khớp’ như nó đã là, hoàn trả lại mỗi lúc một nhạy cảm hơn để cung cấp chỗ ở cho một thực thể thiêng liêng sở hữu, tới mức độ tột đỉnh là hòa hợp ý thức của Chúa Maitreya cùng ý thức của Krishnamurti. Nói cách khác, mọi điều Mrs Besant và Leadbeater đã tiên đoán đã đều đúng. K đồng ý rằng lý thuyết này là có thể đúng nhất nhưng anh không nghĩ nó là như thế. Một giải thích có thể được khác mà tôi đưa ra là rằng có một nguồn dự trữ vô hạn của tốt lành trong thế giới mà có thể được mở ra bởi những họa sĩ, những thiên tài, những vị thánh vĩ đại. K loại bỏ điều này ngay lập tức. Một lý thuyết còn lại nữa mà tôi có thể gợi ý là rằng chính Krishnamurti đã tiến hóa qua nhiều cuộc đời để trở thành điều gì anh đã là, mặc dù điều này tôi nhận thấy là khó chấp nhận bởi vì cậu trai nhỏ mà tôi từng biết có đầu óc hoàn toàn trống không, trẻ con, hầu như khờ dại, thực sự chẳng quan tâm đến gì cả ngoại trừ golf và xe gắn máy. Tôi không thể hiểu làm thế nào cậu trai này đã có thể phát triển bộ não để trình bày từng chi tiết lời giảng tinh tế của Krishnamurti.

Bây giờ tôi trích dẫn từ những ghi lại của Mary Zimbalist:

ML: Những lời giảng không đơn giản. Làm thế nào nó lại thốt ra từ cậu bé trống không đó?

K: Em chấp nhận một huyền bí. Cậu bé có tấm lòng nhân hậu, trống không, thích những môn điền kinh. Điều gì quan trọng trong cái này là cái trí trống không. Làm thế nào cái trí trống không có thể tiếp cận được cái này? Liệu cái trí trống không là cần thiết cho cái này biểu lộ? Cái này mà biểu lộ tuôn trào từ cái nguồn dự trữ của vũ trụ giống như thiên tài tuôn trào từ nó trong những lãnh vực khác? Tinh thần tôn giáo không liên quan đến thiên tài. Làm thế nào cái trí trống không này lại không bị nhét đầy bởi Theosophy vân vân? Sự trống không được trù liệu cho sự hiển lộ? Cậu bé này chắc chắn phải lạ thường ngay từ khởi đầu. Điều gì khiến cậu bé như thế? Thân thể được chuẩn bị trong nhiều cuộc đời hay năng lượng này chọn lựa thân thể trống không? Tại sao cậu bé đã không trở thành một kinh tởm do tất cả nịnh nọt đó? Tại sao cậu bé không trở nên yếm thế, cay đắng? Điều gì ngăn cản cậu bé không như thế? Trống không này được bảo vệ. Bởi cái gì?

ML: Đó là điều gì chúng ta đang cố gắng tìm ra.

K: Xuyên suốt sống nó đã được bảo vệ, được canh giữ. Khi anh lên máy bay anh biết không việc gì sẽ xảy ra. Nhưng anh không biết bất kỳ việc gì sẽ gây ra nguy hiểm. Anh thích bay trên không trung trong một chiếc máy bay lượn (Cơ hội này đã được trao cho anh tại Gstadd) nhưng anh cảm thấy, ‘Anh không được.’ Luôn luôn anh đã cảm thấy được bảo vệ. Hay cảm giác anh được bảo vệ có được bởi vì Amma (Mrs Bessant) luôn luôn thấy rằng anh được – luôn luôn thấy rằng anh có hai người khai tâm phải canh chừng anh. Anh không nghĩ nó là như thế.

ML: Không phải, bởi vì việc khác – ‘cái tiến trình’ – lần đầu tiên xảy đến khi anh đi khỏi tất cả họ – hoàn toàn ở một mình cùng Nitya.

K: Đúng, sự trống không chưa bao giờ mất đi. Tại phòng khám nha sĩ suốt bốn tiếng đồng hồ không một tư tưởng nào len vào cái trí của anh. Chỉ khi đang nói chuyện hoặc viết lách thì ‘cái này’ bắt đầu hoạt động. Tôi kinh ngạc. Sự trống không vẫn còn ở đó. Từ tuổi đó đến bây giờ – tám mươi hay như thế – giữ một cái trí mà trống không. Cái gì làm nó? Ngay lúc này em có thể cảm thấy nó trong phòng. Lúc này nó đang xảy ra trong căn phòng này bởi vì chúng ta đang tiếp xúc cái gì đó rất, rất nghiêm túc và nó đến đang tuôn trào. Cái trí của ông cụ này từ niên thiếu cho đến bây giờ liên tục trống không. Anh không muốn tạo ra một huyền bí: tại sao nó không thể xảy đến cho mọi người?

ML: Khi anh thực hiện những nói chuyện cái trí của anh trống không à?

K: Ồ, đúng, chính xác. Nhưng anh không quan tâm đến điều đó mà quan tâm đến tại sao nó vẫn trống không. Bởi vì nó trống không nên nó không có những vấn đề.

ML: Nó là độc nhất?

K: Không. Nếu một vật là độc nhất vậy thì những vật khác không thể thâm nhập nó. Anh muốn tránh bất kỳ sự huyền bí nào. Anh thấy rằng cái trí của cậu bé đến lúc này vẫn y hệt. Lúc này cái khác lạ ở đây. Em không cảm thấy nó à? Nó giống như sự rung động rộn ràng.

ML: Cốt lõi lời giảng của anh là mọi người có thể có nó. (Em có thể đã cảm thấy sự rung động rộn ràng nhưng không chắc chắn nó không là sự tưởng tượng.)

K: Đúng, nếu nó là độc nhất, nó không có giá trị gì cả. Nhưng cái này không giống như thế. Liệu có phải nó được giữ trống không cho cái này sẽ nói, ‘Mặc dù tôi trống không, bạn – X – cũng có thể có nó?

ML: Anh có ý rằng nó trống không vì mục đích để có thể nói rằng điều này có thể xảy đến cho mọi người?

K: Điều đó đúng. Điều đó đúng. Nhưng cái đó giữ cho cái trí trống không? Làm thế nào nó vẫn còn trống không trong tất cả những năm này? Điều đó thật lạ thường. Trước kia anh chưa bao giờ suy nghĩ về nó. Nó sẽ không là cách đó nếu nó không tách lìa. Tại sao anh ấy không quyến luyến? Cái đó chắc chắn đã phải nói, ‘Phải có trống không nếu không Anh – nó – không thể vận hành.’ Việc này đang chấp nhận tất cả mọi hình thức của những sự việc huyền bí. Vì vậy cái đólà gì mà giữ nó trống không cho mục đích nói tất cả những điều này? Nó đã tìm được một cậu bé mà có thể giữ trống không nhất? Chắc chắn cậu bé này đã không có bất kỳ sự sợ hãi của chống lại Leadbeater, đi ngược lại Theosophy, phản đối uy quyền. Amma, Leadbeater – họ có uy quyền ghê lắm. Cái đó chắc chắn phải đang vận hành. Cái đó phải có thể xảy đến cho tất cả những con người. Nếu không, nó sẽ có ích lợi gì đâu?

Nói chuyện ngắt ngang ở đây; K phải chuẩn bị vì đến giờ ăn trưa trong phòng ăn của trường. Sau bữa ăn trưa chúng tôi tiếp tục nói chuyện lại, trong nhà bếp của West Wing:

K: Chúng ta vẫn chưa khám phá tại sao cậu bé này được giữ trống không từ đó cho đến lúc này. Sự trống không là một vắng mặt của trạng thái ích kỷ – cái tôi – ngôi nhà của tôi, sự quyến luyến? Nhưng làm thế nào sự trống không cùng không-cái tôi của nó lại xảy ra? Điều đó sẽ rất đơn giản nếu chúng ta nói rằng Chúa Maitreya đã chuẩn bị thân thể này và giữ nó trống không. Đó sẽ là sự giải thích đơn giản nhất nhưng đơn giản nhất là ngờ vực nhất. Một giải thích khác là rằng cái tôi của K có lẽ đã hiệp thông cùng Chúa Maitreya và Phật và nói, ‘Tôi rút lui, cái đócòn quan trọng nhiều hơn cái tôi thú tính của tôi.’ Nó không cảm thấy trong sạch, đúng đắn. Chúa Maitreya đã thấy thân thể này cùng cái tôi ít nhất, đã muốn hóa thân qua nó và thế là nó được giữ không ô uế. Amma đã nói khuôn mặt rất quan trọng bởi vì nó đại diện cho cái đó. Nó được chuẩn bị cho cái đó. Điều này có nghĩa mọi người không thể có nó. K là một kỳ dịthuộc sinh học. Một cách dễ dàng để giải thích cho qua. Vì vậy sự thật là gì? Anh không biết. Thực sự anh không biết. Sự thật của tất cả điều này là gì? Nó không phải là một tự-đánh lừa, sự hoang tưởng tự phụ, một trạng thái được thúc giục, một ao ước được sáng chế – anh không biết ao ước cho điều gì. Một điều kỳ lạ khác trong tất cả cái này là rằng K đã luôn luôn được lôi cuốn đến Phật? Đó là một ảnh hưởng? Anh không nghĩ như thế. Nguồn dự trữ đó là Phật? Chúa Maitreya? Sự thật là gì? Nó là cái gì đó mà chúng ta không bao giờ có thể tìm ra à?

Mary Zimbalist:Anh có khi nào cảm thấy được sử dụng, cảm thấy cái gì đó đang thâm nhập vào anh?

K: Anh sẽ không nói như thế. Nó vào phòng khi chúng ta đang nghiêm túc nói chuyện.

ML: Làm thế nào mà nó liên quan đến sự đau đớn?

K: Sự đau đớn đến khi anh yên lặng, không đang nói. Nó đến chầm chậm cho đến khi thân thể nói, ‘Từng đó đủ rồi.’ Sau khi đến một cực độ làm thân thể bị ngất xỉu; cơn đau đớn mất dần hay có sự can thiệp nào đó và nó biến mất.

ML: Liệu chúng ta có thể loại trừ cái gì đó từ phía bên ngoài?

K: Anh không. Nhưng sự thật là gì? Có một yếu tố trong tất cả điều này mà không do con người tạo ra, tư tưởng tạo ra, không tự-thúc giục. Anh không giống như thế. Đây là cái gì đó mà chúng ta không thể khám phá, không được tiếp xúc, không thể xuyên thấu? Anh đang thắc mắc. Anh thường xuyên cảm thấy nó không là công việc của anh, rằng chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra. Khi chúng ta nói nó hiện diện bởi vì cái trí trống không, anh cũng không nghĩ nó là như thế. Chúng ta đã đến một bế tắc. Anh đã nói chuyện với em, với em ấy (Mary), với Subba Rao (người đã biết K từ những ngày niên thiếu). Anh ấy đã nói: ‘Bạn đã là như bạn là từ khởi đầu.’ Anh tự hỏi: ‘Điều này đúng hay sao?’ Nếu nó đúng, không có hy vọng nào cho những người khác. Tất cả nó là cái gì đó mà chúng ta không thể tiếp cận? Chúng ta đang cố gắng tiếp cận cái đó bằng những cái trí của chúng ta. Hãy cố gắng tìm ra cái đó là gì khi cái trí của bạn hoàn toàn yên lặng. Muốn tìm ra sự thật của vấn đề, em phải có cái trí của em trống không. Không phải cái trí của anh mà là trong trống không. Nhưng có một yếu tố mà chúng ta đang bỏ lỡ. Chúng ta đã đến được một mấu chốt nơi những bộ não của chúng ta, những công cụ tìm hiểu của chúng ta, không còn ý nghĩa gì cả.

ML: Liệu người nào khác có lẽ có thể tìm được? Và liệu nó là đúng đắn để tìm hiểu?

K: Em có lẽ có thể tìm ra bởi vì em đang viết về nó. Anh không thể. Nếu em và Maria[1]ngồi xuống và nói, ‘Chúng ta hãy tìm hiểu’, anh cam đoan rằng các em có thể tìm ra. Hãy tự tìm hiểu nó một mình. Anh thấy điều gì đó; điều gì anh đã nói là đúng thực – anh không bao giờ có thể tìm ra. Nước không bao giờ có thể tìm ra nước là gì. Điều đó hoàn toàn đúng đắn. Nếu em tìm ra anh sẽ chứng thực nó.

ML: Anh sẽ biết liệu nó là đúng đắn?

K: Em có thể cảm thấy nó trong căn phòng? Nó đang mỗi lúc một mãnh liệt thêm. Bộ đầu của anh đang bắt đầu. Nếu em đặt câu hỏi và nói: ‘Tôi không biết’, em có lẽ tìm ra nó. Nếu anh đang viết nó anh sẽ phát biểu tất cả điều này. Anh sẽ bắt đầu bằng cậu bé hoàn toàn trống không.

ML: Anh có lưu tâm khi nó nói rằng anh muốn nó được giải thích?

K: Anh không lưu tâm. Nói điều gì em thích. Anh chắc chắn nếu những người khác chú ý đến điều này họ có thể tìm ra nó. Anh tuyệt đối bảo đảm về nó. Tuyệt đối, tuyệt đối. Cũng vậy, anhbảo đảm anh không thể tìm ra nó.

ML: Điều gì nếu người ta có thể hiểu nó nhưng không thể diễn tả nó ra những từ ngữ?

K: Em có thể. Em có thể tìm ra một cách. Khoảnh khắc em khám phá điều gì đó em có thể tìm ra những từ ngữ diễn tả nó. Giống như một bài thơ. Nếu em thực tâm tìm hiểu, vận dụng bộ não của em trong nó, người nào đó có thể tìm ra. Nhưng khoảnh khắc em tìm ra nó, nó sẽ là đúng đắn. Không huyền bí.

ML: Liệu Huyền bí sẽ bận tâm nếu được tìm ra?

K: Không, Huyền bí sẽ không còn nữa.

Mary Zimbalist:Nhưng Huyền bí là cái gì đó thiêng liêng.

K: Thiêng liêng sẽ ở lại.

Đến đây nói chuyện ngừng lại vì bộ đầu của K đã trở nên quá nặng nề đến độ anh phải đến giường và nằm xuống. Không chỉ khi anh yên tĩnh thì sự đau đớn này mới xảy ra nhưng còn cả khi anh đang nói về những vấn đề như chúng tôi đang bàn luận. Tôi quay lại London bị kinh hãi bởi trách nhiệm anh đã giao cho chúng tôi: anh ‘tuyệt đối bảo đảm’ rằng chúng tôi có thể tìm ra sự thật về anh nếu chúng tôi cố gắng, nhưng tôi vẫn còn miễn cưỡng khi tin rằng anh không thể giúp đỡ nhiều thêm nữa cho việc khám phá sự thật, vì vậy ba tuần sau tôi lại nói chuyện với anh tại Brockwood trước khi anh rời đó đi Gstaad. Sau bữa trưa lại ở trong nhà bếp của West Wing, và Mary lại có mặt để ghi chép và tôi trích dẫn dưới đây:

ML:Lời giảng của anh rất khó hiểu.

K:Rất khó hiểu.

ML:Nếu anh đọc nó anh sẽ hiểu nó chứ?

K:Ồ, có chứ, có chứ.

ML:Ai nói những lời giảng? Anh? Huyền bí?

K:Một câu hỏi hay. Ai nói những lời giảng?

ML: Bởi vì biết anh như là K, con người, em rất khó khăn khi nghĩ anh nói những lời giảng.

K:Em có ý không cần học hành, em hoặc người nào đó đã nói chúng?

ML:Cái gì đó hiển lộ trong anh mà có vẻ không là bộ phận thuộc bộ não riêng của anh.

K:Những lời giảng lạ thường à?

ML:Đúng. Khác hẳn. Mới mẻ.

K:Chúng ta hãy rõ ràng. Nếu anh cố ý ngồi xuống để viết nó, anh nghi ngờ liệu anh có thể viết được nó hay không. Anh sẽ kể cho em điều gì đó mà xảy ra: ngày hôm qua anh đã nói, ‘Suy nghĩ về điều gì đó khác hẳn suy nghĩ.’ Anh đã nói, ‘Anh hoàn toàn không hiểu nó, hãy cho phép anh tìm hiểu nó,’ và khi anh đã tìm hiểu anh đã thấy cái gì đó rõ ràng. Có một ý thức của trống không và sau đó cái gì đó đến. Nhưng nếu anh ngồi xuống để viết nó anh có lẽ không thể. Schopenhauer, Lenin, Bertrand Russel vân vân tất cả đều đã đọc rất nhiều. Đây là hiện tượng của người này mà không được giáo dục, mà không học hành. Làm thế nào anh ấy có được tất cả điều này? Nếu nó chỉ là K – anh ấy hiền lành, không được giáo dục – vì vậy nó từ đâu đến? Người này đã không nghĩ ra lời giảng.

ML:Anh ấy đã không thâm nhập nó do tư tưởng?

K:Nó giống như – cái gì – từ ngữ trong kinh thánh là gì nhỉ? – thiên khải. Luôn luôn nó xảy ra khi anh đang nói.

ML:Khán giả có tạo tác cái gì đó liên quan với sự thiên khải?

K:Không. Chúng ta hãy bắt đầu lại. Câu hỏi sâu sắc hơn sẽ là: cậu bé được tìm ra, sự quy định không thể trói buộc – cũng không Theosophy, không nịnh nọt, không Thầy Thế giới, tài sản, số tiền to lớn – không thứ gì trong số đó đã tác động vào anh ấy. Tại sao? Ai đã che chở cho anh ấy?

ML:Rất khó khăn cho em nếu không nhân cách hóa một quyền năng – sự bảo vệ bởi người nào đó. Một quyền năng để bảo vệ là một ý tưởng quá mênh mông cho những bộ não bị giới hạn của chúng ta nhưng có lẽ nó giống như một cột thu lôi. Sét, điện, tìm một cột thu lôi – cách trực tiếp nhất để dẫn đến đất. Quyền năng này, mà em nghĩ thực sự là tình yêu, tìm được một cột thu lôi trong cái trí trống không.

K:Nó phải là một thân thể đặc biệt. Làm thế nào thân thể đó xoay sở và vẫn còn không bị hư hỏng? Đã quá dễ dàng để làm hư hỏng nó. Điều đó có nghĩa rằng quyền năng đang bảo vệ nó.

ML:Và đào tạo nó – mở toang nó bằng ‘cái tiến trình’?

K:Việc đó đến sau.

ML:Nó bắt đầu ngay khi thân thể đủ sức mạnh.

K:Đúng, nhưng nếu em chấp nhận tất cả điều này, nó là một kỳ dị, trong ý nghĩa thân thiện. Kỳ dịđược giữ gìn cho lời giảng, kỳ dịhoàn toàn không quan trọng. Bất kỳ ai cũng có thể thâu nhận lời giảng, thấy sự thật của nó. Nếu bạn biến kỳ dịthành quan trọng nó loại trừ mọi thứ khác.

Mary Zimbalist:Kỳ dị cần thiết để đưa ra lời giảng nhưng những không-kỳ dị có thể thâu nhận nó?

K:Đúng rồi, đúng rồi. Vì vậy chúng ta đang hỏi, nó được duy trì như một kỳ dị bằng cách nào? Một từ ngữ gây kinh khiếp.

ML:Hãy nói, một quyền năng đang chờ đợi . . .

K:Amma và Leadbeater khẳng định rằng một Bồ tát sẽ hóa thân và họ phải tìm ra một thân thể – truyền thống của thiên thần giáng thế. Phật trải qua tất cả việc đó, trải qua đau khổ, vân vân, sau đó quẳng nó đi và trở nên được khai sáng. Điều gì ngài đã giảng giải là mới mẻ nhưng ngài đã trải qua tất cả việc đó. Nhưng đây là một kỳ dịmà đã không trải qua bất kỳ việc đó. Cũng vậy chúa Jesus có lẽ đã không trải qua. Quyền năng chắc đã canh chừng thân thể này từ khoảnh khắc nó được sinh ra, Tại sao? Nó xảy ra như thế nào? Một cậu bé xuất thân từ một gia đình không có gì đặc biệt. Làm thế nào cậu bé đó tình cờ hiện diện ở đó? Đó là do bởi quyền năng muốn hóa thân nên mới sáng tạo cậu bé hay đó là do bởi quyền năng đã thấy một gia đình Bà la môn giáo, một đứa bé thứ tám, và nói, ‘Đó là cậu trai’? Cái đó đang ở trong phòng. Nếu bạn hỏi nó nó là gì, nó sẽ không trả lời. Nó sẽ nói, ‘Bạn quá nhỏ nhoi.’ Anh nghĩ ngày hôm trước chúng ta đã nói rằng có một nguồn dự trữ của tốt lành mà phải hiển hiện. Nhưng nếu vậy chúng ta lại trở về điểm chúng ta đã bắt đầu. Em sẽ giải thích điều này như thế nào mà không nói về một kỳ dị thuộc sinh học? Nhưng tất cả điều này là thiêng liêng, và anh không hiểu bằng cách nào em sẽ chuyển tải không những thiêng liêng mà còn cả mọi sự việc khác nữa mà chúng ta đã nói. Tại sao cậu bé này không bị hư hỏng là điều quá lạ thường. Họ đã thực hiện mọi việc để kiểm soát cậu ấy. Tại sao cậu ấy lại được thực hiện trải nghiệm ở Ojai? Đó có phải do bởi thân thể không được hòa hợp đầy đủ.

Mary Zimbalist:Anh không bao giờ cố gắng tránh sự đau đớn.

K:Dĩ nhiên không. Em thấy nó đã bắt đầu – cơn đau đớn – cách đây khoảng nửa tiếng đồng hồ. Giả sử em viết tất cả điều này trên giấy; một con người thông minh, một con người suy nghĩ, giống như Joe (chồng tôi), sẽ nói gì về nó? Họ sẽ nói nó không là gì cả? Nó xảy đến cho mọi thiên tài? Nếu em nói, ‘Hãy phê bình việc này,’ phản ứng của họ sẽ là gì? Họ sẽ nói rằng tất cả đều được sắp đặt lại với nhau? Hay rằng nó là một huyền bí? Chúng ta đang cố gắng tiếp xúc một huyền bí? Khoảnh khắc em hiểu rõ nó, nó không còn là một huyền bí. Nhưng thiêng liêng không là một huyền bí. Vì vậy chúng ta đang cố gắng xóa sạch sự huyền bí dẫn đến cái nguồn này. Họ sẽ nói gì? Rằng em đang sáng chế một huyền bí khi không có gì cả? Rằng anh ấy được sinh ra theo cách đó à? Thiêng liêng ở đó và bởi vì nó là thiêng liêng nên nó bao la. Việc gì xảy ra khi anh chết? Việc gì xảy ra ở đây? Tất cả đều đang phụ thuộc vào một con người? Hay có những con người sẽ tiếp tục?

ML:Đã có một thay đổi so với điều gì anh đã nói cách đây mười năm ở Epping Forest rằng tất cả có thể không còn sau khi anh chết.

K:Anh không chắc có một thay đổi. Có những quyển sách nhưng chúng không đủ. Nếu họ (những người chung quanh anh) thực sự có nó, họ sẽ là những kỳ dị giống như K. Kỳ dịđang nói, ‘Liệu có những người mà đã uống nước và sẽ tiếp tục?’ Anh sẽ đi đến người nào đó mà đã biết anh ấy và qua họ có được một cảm thấy về anh ấy như thế nào. Anh sẽ đi nhiều dặm để nói chuyện với người nào đó mà đã ở cùng anh ấy: ‘Anh đã uống nước, nó như thế nào?’

Đến đây là chấm dứt của nói chuyện, bởi vì lại nữa K phải đến nằm xuống do cơn đau đớn trong bộ đầu và cổ của anh. Tôi bị bỏ lại cùng cảm giác rằng K ưa thích được ở ngoài cuộc chỉ một lần. Tôi nhớ lại điều gì anh đã nói vào ngày 28 tháng mười hai năm 1925, sau sự hiển lộ đầu tiên, như chúng ta đã tin tưởng, của Chúa đang nói qua anh tại Adyar. Mẹ tôi đã bảo với anh rằng lúc đó khuôn mặt của anh đã thay đổi cũng như những từ ngữ của anh và đã tỏa sáng bằng một ánh sáng rực rỡ khi anh đột ngột thay đổi cách xưng hô từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất. ‘Con ước rằng con có thể trông thấy nó,’ anh đáp lại đầy nuối tiếc. Và anh cũng có cùng câu trả lời khi bà kể cho anh tại trại Ommen, năm 1927, khuôn mặt của anh đã thay đổi như thế nào.

Tôi quay lại London cùng một cảm giác thương yêu anh vô cùng. ‘Nước không bao giờ có thể tìm được nước là gì,’ anh đã nói trong suốt nói chuyện trước của chúng tôi. Anh sẽ không bao giờ được ở ngoài cuộc; anh sẽ không bao giờ biết anh là gì; anh sẽ không bao giờ thấy được khuôn mặt của anh đã trở nên đẹp đẽ biết chừng nào trong những khoảnh khắc của xuất thần hay thiên khải. Tôi có thểgiúp anh tìm ra? Anh đã bảo với chúng tôi việc đó có thể được, bảo chúng tôi cố gắng tìm ra, trái lại ở Ojai năm 1972 anh đã nói với một nhóm ủy viên của America rằng không ai có thể hiểu rõ – rằng nó là cái gì đó quá mênh mang không thể diễn tả ra từ ngữ được.’ Lúc này anh đang nói, ‘Khoảnh khắc em khám phá cái gì đó em phải có những từ ngữ cho nó.’ Tôi có thể tìm ra? Anh đã luôn luôn cảm thấy ý thức của được bảo vệ, và sự khẳng định lặp đi lặp lại của anh về cái trí trống không, là những chứng cớ để tiếp tục. Liệu tôi có thể tìm ra? Sự thách thức quá ly kỳ, quá lôi cuốn.

Tôi lại có thể nói chuyện với K tại Brockwood vào mùa thu, sau những họp mặt Saanen và Brockwood và sau một hội thảo của những người khoa học, cũng được tổ chức tại Brockwood. Tôi muốn cố gắng khám phá liệu ‘sự thiên khải’ mà anh đã nói đến từ phía bên trong hay phía bên ngoài của anh. Anh bắt đầu bằng cách nói rằng lần đầu tiên khi anh bắt đầu nói anh đã sử dụng ngôn ngữ của Theosophy nhưng từ năm 1922 (năm anh trải nghiệm tại Ojai) anh đã tìm ra ngôn ngữ riêng của anh. Tiếp theo anh giải thích lại về cái trí trống không và nói, ‘Khi cái trí trống không, nó chỉ biết nó trống không sau đó.’ Bây giờ một lần nữa tôi trích dẫn từ những ghi lại của Mary Zimbalist:

ML:Khi nào nó không còn trống không?

K:Khi nó cần sử dụng tư tưởng, để truyền đạt. Ngược lại nó trống không. Trong suốt hội thảo – trong khi tôi đang nói chuyện nó lại hiện diện.

ML:Anh có thấy cái gì không?

K:Không, nó hiện diện. Anh không thấy cái gì cả và diễn giải. Nó hiện diện mà không cần anh nghĩ về nó. Khi nó hiện diện, nó trở thành hợp lý, có lý lẽ. Nếu anh suy nghĩ ra nó cẩn thận, viết nó ra, lặp lại nó, không gì xảy ra.

ML:Nó hiện diện từ nơi nào đó phía bên ngoài của anh?

K:Với những họa sĩ và những người thi sĩ điều đó khác hẳn bởi vì họ chuẩn bị cho nó. Sự nhận biết về lời giảng cách mạng của anh ấy (của K) chắc chắn phải đã đến từ từ, chậm chậm. Nó không đang thay đổi song song với ngôn ngữ. (Lúc này anh lặp lại anh đã được mời đi máy bay lượn tại Gstaad như thế nào). Anh sẽ bay giống như tên bắn – nó sẽ vui lắm. Nhưng anh nhận ra rằng anh không nên làm nó. Anh không được làm bất kỳ việc gì không phù hợp cho thân thể. Anh cảm thấy nó, bởi vì việc gì K phải thực hiện trong thế giới. Anh không được bị bệnh bởi vì anh không thể nói chuyện, vì vậy anh phải cẩn thận càng nhiều bao nhiêu càng tốt. Thân thể ở đây để nói chuyện, nó đã được nuôi dưỡng trong hướng đó và mục đích của nó là nói chuyện. Bất kỳ việc gì khác đều không phù hợp, vì vậy thân thể phải được bảo vệ. Khía cạnh khác của việc này là rằng anh cảm thấy có một loại bảo vệ khác mà không là bảo vệ của anh. Có một hình thức tách rời của bảo vệ như thể trong chừng mực nào đó tương lai được sắp đặt. Một loại khác của bảo vệ, không chỉ của thân thể. Cậu bé được sinh ra bởi tính chất kỳ lạ đó – cậu bé phải được bảo vệ để qua khỏi được tất cả việc gì cậu làm. Trong chừng mực nào đó thân thể được bảo vệ để tiếp tục tồn tại. Yếu tố nào đó đang canh chừng nó. Cái gì đó đang bảo vệ nó. Sẽ quá suy đoán khi nói cái gì. Chúa Maitreya tồn tại ở dạng quá vật chất, không đủ mộc mạc. Nhưng anh không thể nhìn phía sau bức màn. Anh không thể làm việc đó. Anh đã thử với Pupul (Jayakar) và vô số những học giả người Ấn độ mà thúc bách anh. Anh đã nói rằng nó không là Chúa Maitreya, Đấng Bồ tát. Sự bảo vệ của các vị đó quá cụ thể, quá tính toán khi thực hiện. Nhưng anh đã luôn luôn cảm thấy được bảo vệ.

Tôi có khuynh hướng tin tưởng rằng K đang được sử dụng, và đã được sử dụng từ năm 1922, bởi cái gì đó từ phía bên ngoài. Điều này không có nghĩa rằng anh là một người trung gian. Một người trung gian bị tách rời khỏi ‘người quá giang’ là anh ấy hay chị ấy, ngược lại K và bất kỳ cái gì mà biểu lộ qua anh lại là một bộ phận hòa hợp nhất. Ý thức của anh thẩm thấu cùng cái vật khác lạ này như một bọt biển ngấm nước. Tuy nhiên, cũng có những thời điểm khi nước gần như bị khô kiệt, bỏ lại anh rất giống hệt như lúc trước anh đã là khi lần đầu tiên tôi gặp anh – lơ đãng, hiền hòa, có thể sai lầm, nhút nhát, có đầu óc đơn sơ, dễ phục tùng, nhân hậu, ham thích cười đùa khi nghe những chuyện vui ngớ ngẩn, tuy nhiên lại đặc biệt vì tuyệt đối không có tánh tự phụ và tự-khẳng định. Nhưng sau đó tôi dựa vào quyển Notebookvà tìm được một trạng thái ý thức mà dường như tuyệt đối là riêng của K và nguồn suối tuôn trào lời giảng của anh, và quá khó khăn khi chấp nhận lý thuyết rằng anh đang được sử dụng.

Trước khi hết năm, K sẽ trải qua một trải nghiệm tinh thần, trong khi anh ở Ấn độ. K đọc một chuyện kể về nó cho Mary, mà đã không theo cùng anh đến Ấn độ mùa đông đó, nói về anh trong ngôi thứ ba:

K đi từ Brockwood đến Ấn độ vào ngày 1 tháng mười một năm 1979. Sau một vài ngày ở Madras anh ấy đi thẳng đến Rishi Valley. Suốt một thời gian dài anh ấy luôn luôn thức giấc vào giữa đêm cùng thiền định kỳ lạ đó mà đã theo sát anh ấy trong rất nhiều năm. Đây đã là một việc bình thường trong sống của anh ấy. Nó không là một theo đuổi cố ý, biết được của thiền định hay một ham muốn vô thức để đạt được cái gì đó. Chắc chắn nó không được mời mọc và không được tìm kiếm. Anh ấy đã rất sáng suốt và khéo léo canh chừng tư tưởng đang thực hiện một kỷ niệm của những thiền định này. Và vậy là mỗi thiền định có một chất lượng của cái gì đó mới mẻ và trong sáng trong chính nó. Có một ý thức của thúc đẩy tích lũy, không được mời mọc và không được tìm kiếm. Thỉnh thoảng nó mãnh liệt đến độ có sự đau đớn trong bộ đầu, thỉnh thoảng có trạng thái trống không mênh mang cùng năng lượng vô hạn. Thỉnh thoảng anh ấy thức giấc cùng hân hoan và vui vẻ không kể xiết. Những thiền định kỳ lạ này, mà tự nhiên không có ý định trước, đã tăng trưởng cùng sự mãnh liệt. Chỉ vào những ngày anh ấy đi hay về muộn vào chiều tối chúng mới ngừng lại, hay khi anh ấy phải thức dậy sớm để đi.

Theo cùng lúc đến Rishi Valley vào giữa tháng mười một năm 1979, động lực đã gia tăng và một đêm trong sự yên tĩnh lạ thường của phần đất đó của thế giới cùng sự yên lặng không bị quấy rầy bởi những tiếng cú kêu, anh thức giấc và phát giác cái gì đó hoàn toàn khác hẳn và mới mẻ. Chuyển động đã đạt đến tận nguồn của tất cả năng lượng.

Sự kiện này không thể nào bị lầm lẫn, hay thậm chí suy nghĩ, như thượng đế hay đấng tối thượng, đấng Brahman, mà là những chiếu rọi của cái trí con người do bởi sự sợ hãi và khao khát, sự ham muốn kiên định để có sự an toàn tuyệt đối. Nó không là cái nào trong bất kỳ những sự việc đó. Khao khát không thể đến được nó, những từ ngữ không thể dò tìm nó, sợi dây của tư tưởng cũng không thể quấn quanh nó. Người ta có lẽ hỏi bởi sự bảo đảm gì mà anh phát biểu rằng nó là tận nguồn của tất cả năng lượng? Người ta chỉ có thể bằng sự khiêm tốn hoàn toàn trả lời rằng nó là như vậy.

Mọi thời gian K ở Ấn độ cho đến cuối tháng giêng năm 1980, mỗi đêm anh ấy sẽ thức giấc cùng ý thức của cái tuyệt đối này. Nó không là một trạng thái, một sự việc mà cố định, bất động, tĩnh. Toàn vũ trụ trong nó, không đo lường được đối với con người. Khi anh ấy quay lại Ojai vào tháng mười hai năm 1980, sau khi thân thể đã nghỉ ngơi trong chừng mực nào đó, có sự nhận biết rằng không có gì vượt khỏi cái này. Đây là cái tối thượng, cái khởi đầu và cái kết thúc và cái tuyệt đối. Chỉ có một ý thức của mênh mang lạ thường và vẻ đẹp khôn cùng.



[1] K luôn luôn gọi Mary là ‘Maria’, được phát âm là Mareea, để phân biệt chị ấy và tôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567