Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô tự thị chân kinh

09/04/201311:56(Xem: 4029)
Vô tự thị chân kinh

VÔ TỰ THỊ CHÂN KINH

Diệu Trân

--- o0o ---

Thi hào Nguyễn Du là một Phật tử mộ đạo, rất siêng năng tụng đọc kinh điển, nhưng cụ đã từng thú nhận là đọc kinh Kim Cương cả ngàn lần mà vẫn không nắm bắt được ý kinh; cho tới khi được nghe bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng cụ mới liễu ngộ rằng “Chân kinh vốn không lời”. Cụ đã viết bốn câu thơ bằng chữ Hán để diễn tả tâm trạng của mình: Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh

Cập đáo phần kinh Thạch đài hạ

Chung tri: vô tự thị chân kinh

Chữ Hán, tôi lõm bõm chưa qua nổi cuốn Tam Tự Kinh, nhưng ráng phỏng dịch như sau:

Ngàn lần tụng đọc Kim Cương

Vẫn như mờ ảo khói sương tơ trời

Trước đài gương, bỗng tỏ ngời

Là: Chân kinh vốn không lời mà thôi!

Người bạn đạo của tôi tỏ ý nghi ngờ. Bạn nói, tối nào cũng tụng kinh, tụng rõ ràng, mạch lạc từng tiếng mà nhiều khi còn phải đi tìm sách của các bậc cao minh, giảng giải cho thêm mới tạm hiểu. Nay, nói chân kinh vốn không lời thì biết nương vào đâu mà hiểu đạo? Tôi cũng ….nghi lắm! nhưng vừa khởi niệm nghi bỗng giật mình. Khi nghe điều gì, ta phải tìm hiểu điều đó thế nào rồi mới luận đúng hay sai chứ. Ngay cả sau khi tìm hiểu rồi, cái kết luận cũng chỉ mới căn cứ trên tầm hiểu biết chủ quan thôi, chưa chắc đã là cái kết luận có giá trị. Chúng tôi cùng đồng ý chọn con đường ngắn nhất, là tìm xem cụ Nguyễn Du nghe được bài kệ nào của Lục Tổ Huệ Năng mà tìm ra chân lý ấy. Kệ của Lục Tổ như vầy:

Nhân liễu thử tâm nhân tự độ

Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

Minh kính diệc phi đài

Bồ đề bổn vô thụ.

Tìm được bài kệ, đọc lên, bạn nhìn tôi, chờ đợi. Tôi lại vò đầu bứt tai, tận dụng cái vốn …. Tam Tự Kinh mà dịch như sau:

Người tự tại khi tâm sáng tỏ

Thì Linh Sơn ngay ở tâm này

Gương kia sáng chẳng vì đài

Bồ Đề vốn chẳng là cây bao giờ.

Có lẽ tôi dịch lơ mơ quá nên bạn phản đối ngay:

- Bồ Đề mà không là cây thì là gì?

A, câu này thì tôi trả lời được, tại bạn chưa ôn bài đó thôi. Khi Lục Tổ nói “Bồ đề bổn vô thụ” là ý nhắc về bản chất huyễn hóa của vạn hữu, chỉ do duyên hợp mà thành. Nhìn cây Bồ đề xanh tươi cành lá, đó là sau khi hạt đã nẩy mầm, chồi lên mặt đất, tiếp nhận mưa, nắng, gió v…v… tăng trưởng với thời gian mà ta thấy “cái gọi là cây Bồ đề.” Nhưng nếu tách rời hạt nhỏ li ti kia với đất, cát, mưa, nắng …..sẽ chẳng bao giờ có cái gọi là cây Bồ đề cả. Vậy thì, bản chất chân thực của mỗi sự vật là gì? Nó sẽ chẳng là gì, nếu không do nhiều duyên hợp mà thành. Ngay như tấm thân tứ đại của chúng ta đây, cái mà, đối với chúng ta là quan trọng lắm lắm, cũng chỉ là huyễn giả. Thân ta có, là do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Tách rời đất (chất cứng như xương, móng….), nước (chất lỏng như máu, mồ hôi …..), gió (chất hơi như hơi thở), lửa (chất nóng như nhiệt độ), sẽ chẳng còn gì để gọi là thân ta nữa. Bạn lại hỏi tôi một câu thật bất ngờ, nhưng rất hay:

- Cái gì nhận ra sự huyễn giả đó?

Câu hỏi quyện vào tiếng reo vui của ấm nước vừa sôi. Tôi lặng lẽ nhìn bạn trịnh trọng mở tủ, bưng ra bộ tách có đủ cả chén tống, chén quân. Tôi biết bạn có bộ tách quý này do cụ thân sinh để lại, nhưng chưa từng được bạn mang ra đãi. Hôm nay sao đặc biệt thế? Dù cố tình làm ra vẻ thản nhiên nhưng bạn biết, tôi đang theo dõi bạn từng cử chỉ. Mở hộp trà thơm, nhón một dúm trà nhỏ bỏ vào chén tống. Nước sôi rót vào vừa ngập trà, bạn cầm lên, tráng nhẹ rồi đổ bỏ nước nhất. Lần rót nước nhì, bạn cũng cầm lên, tráng nhẹ rồi đặt tách xuống khay. Trong khi chờ trà ngấm, bạn dùng nước nóng tráng hai cái chén quân; xong, bạn đặt một chén trước tôi, chén kia trước bạn. Rồi, rất từ tốn, bạn chắt nước đã ngấm trà từ chén tống ra chén quân, tức là cái chén nhỏ như hạt mít !

Tôi cố nín cười, nhưng tới đây thì hết chịu nổi. Ngờ đâu, bạn cũng giả nghiêm suốt thời gian biểu diễn. Chúng tôi cùng cười thoải mái. Bạn thú nhận:

- Chỉ loáng thoáng thấy bố lui cui pha trà như vầy nhưng không thực sự chú ý; Thôi, thì cứ tưởng tượng như chúng ta đang ngồi trong trà thất, uống trà, chờ hoa nở.

Tôi chỉ vào cái chén nhỏ xíu:

- Uống bao nhiêu chén này mới đã khát?

Bạn trả lời đầy ý nhị:

- Tâm khát chừng nào, chén đầy chừng nấy.

Hôm nay bạn nói chuyện như một thi sĩ. Đúng là muôn sự do tâm, nhưng tâm khởi lên từ mọi loại cảm thọ buồn, vui, thương, ghét, thiện, ác ..v..v.. dựa trên những đối tượng luôn biến hoại đổi thay của căn và trần, là những đối tượng không có bản chất thật. Vậy tâm nào mới chính là tâm? Những tâm ấy thay đổi luôn luôn, theo từng trạng huống. Và nếu chúng không phải thực là tâm thì CÁI GÌ đang nhận ra những diễn biến luân lưu thành hoại đó? CÁI GÌ nhìn rõ mặt mũi từ tâm buồn sang tâm vui, từ tâm thương sang tâm ghét, từ tâm thiện sang tâm ác??? “Cái gì đó” chính là CÁI NHẬN BIẾT MỌI HIỆN TƯỢNG MÀ KHÔNG QUA MỘT LĂNG KÍNH PHÂN BIỆT NÀO. Cái nhận biết này, bởi không từ một niệm nào mà ra nên nó không sinh cũng chẳng diệt theo hiện tượng. Nó như tấm gương trong suốt, phản ảnh trung thực những gì tới nó, trung thực tới mức như hai mà một, nhưng lại không hề bị đồng hóa với vật mà nó phản ảnh. Khi ghi nhận điều tốt, nó chẳng trở nên tốt, khi đối diện điều xấu, nó cũng chẳng trở thành xấu. Nó hiện hữu tự nhiên như giòng nước ngầm, ai đào tới sẽ gặp; không ai đào, nước vẫn chảy, như chưa từng đầu ghềnh, chưa từng cuối bãi. Cái nhận biết này là Tâm Chân Thật thường hằng vô thỉ vô chung; đó chính là Tâm Phật, là Phật Tánh. Khai được nguồn tâm này là hiển lộ Chân Như, là giải thoát khỏi ràng buộc vô minh, là bừng sáng Trí Tuệ; khi ấy, thiền tông diễn tả bằng hình ảnh “Thõng tay vào chợ”; nghĩa là, ngay giữa chốn xôn xao nhất cũng chẳng làm tâm kia lay động. Đạt được tới đây, hành giả đã là “người vô sự”, an nhiên tự tại, đối cảnh chẳng sanh tâm thì ngàn trang kinh cũng đồng với tâm trong suốt, làm gì còn văn tự, còn lý giải ngược xuôi nữa.

Chặng đường tu tập này, người đủ căn cơ, trí tuệ, nếu quyết tâm có thể ngộ. Ngược lại, người trí kém, cần rất nhiều kiên trì, cố gắng, mới mong tâm kia không bị chôn vùi dưới lớp vô minh. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng tôi biết thế, nên hằng nhắc nhở, sách tấn nhau chớ biếng lười.

Những chén trà hạt mít thong thả vơi dần qua câu chuyện “Đế Thích tán hoa” thường được kể để minh chứng “Vô tự thị chân kinh”; mà muốn liễu ngộ “chân kinh vốn không lời” hành giả phải đạt tới bản tâm chân thật. Ngài Tu Bồ Đề là một, trong những đại đệ tử của Phật, một hôm lặng lẽ ngồi thiền dưới chân núi. Mây rất xanh, nắng rất ấm, suối róc rách ven đồi, chim líu lo ca hát, ngài cứ an tịnh kiết già. Dáng ngồi thật thẳng trên phiến đá bằng, như nét chấm phá của bức tranh “Tung Hoành” tuyệt kỷ. Ngài ngồi lâu, rất lâu, không biết bao lâu, thì bỗng hoa trời rơi xuống như mưa. Phút chốc, cả không gian thơm ngát hương hoa như ôm trọn nhà sư khắc khổ, ngồi thiền đẹp như tranh vẽ. Ngài Tu Bồ Đề xả thiền và khẽ hỏi:

- Ai tán hoa đó?

Trên thinh không có tiếng đáp:

- Tôi là Đế Thích đây.

- Vì lẽ gì Đế Thích tán hoa?

- Vì ngài thuyết pháp hay quá!

- Ta ngồi lặng yên, có thuyết gì đâu?

- Ngài không thuyết, tôi không nghe, đó là pháp vi diệu. 

Thì ra, biết nghe bằng “Tánh-Nghe”, mới nghe được “Lời-Không-Lời”, và thể hiện được Sự-Im-Lặng-Hùng-Tráng của Chân Kinh.

Diệu Trân

Tháng Ba 2005


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 4455)
Với người vô tâm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ và mù tịt thì cuối đề tựa trên sẽ là một dấu chấm hoàn mãn. Ngược lại, với những ai có tâm huyết, luôn trăn trở không ngừng nghỉ thì sau đó sẽ là dấu chấm than!
09/04/2013(Xem: 3948)
Như suối nguồn vô tận, đề tài nói về công ơn cha mẹ không thể cạn ý khô lời, nhất là ở lãnh vực Văn học-Nghệ thuật. Chỉ riêng khía cạnh thơ ca thôi cũng đủ làm chúng ta choáng ngợp, cảm thấy bé nhỏ dưới bầu trời vô tận của mênh mông tình mẹ.Với đạo lý nhà Phật, điều đó thêm trở nên thiêng liêng và ý nghĩa hơn.
09/04/2013(Xem: 4328)
Người bạn đạo rủ tôi lên chùa trên núi nghe pháp vì có người cho quá giang. Thật là duyên lành vì đấy là ngôi chùa tôi mong một lần được viếng mà chưa có phương tiện.
09/04/2013(Xem: 3979)
Những ngôi chùa Việt Nam xuất hiện từ bao giờ? Cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát. Tất nhiên khi đạo Phật truyền báở đâu thì nhiều chùa chiền xuất hiện tại đó. Song sự thật không còn một ngôi chùa nào cổ đến thế kỷ II- III sau Công nguyên. Chùa là kiến trúc Phật Giáo phục vụ cho nghi lễ và tu hành.
09/04/2013(Xem: 3580)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara. Trong không gian ấm áp đó, một vị sa-môn như đang cố gắng tiến về bến sông. Nhìn thân hình quá gầy ốm, tiều tụy của ông, ai cũng có thể biết rằng ông là một nhà tu khổ hạnh như rất nhiều nhà tu khổ hạnh khác, dùng hình thức ép xác để mong tìm sự giải thoát cho tâm linh.
09/04/2013(Xem: 3477)
Tổng vụ Văn hóa công bố Quyết nghị 8 điểm sau Ðại hội Văn hóa Phật giáo tổ chức tại San Diego, Hoa Kỳ, dự kiến thiết lập một Giải thưởng Văn hóa Phật giáo Việt Nam, một Quỹ Văn hóa giúp đỡ văn thi nghệ sĩ, học giả, và tổ chức Ngày Văn hóa Việt Nam hằng năm, cũng như tiến hành phiên dịch và ấn hành Ðại Tạng Kinh
09/04/2013(Xem: 4344)
Thời Đông Tấn (316-420) năm 340 quan phụ chính Dũ Băng đã từng thay mặt Thành Đế hạ chiếu ra lệnh các Sa môn phải chí kính đối với vương giả, song gặp phải sự phản đối kịch liệt của thượng thư lệnh Hà Sung và các đại thần khác, thế nên sự vụ ấy bị đình chỉ lại, không đi tới đâu. Hơn sáu mươi năm sau, năm 402 trào vua An Đế, Hoàn Huyền tự phong Thái Úy, chuyên đoán triều chính, hạ lệnh sa thải những phần tử "xấu" trong hàng ngũ tăng ni, tức thanh lọc tăng ni.
09/04/2013(Xem: 5567)
Trên Trang nhà Đạo Phật ngày nay, vào tháng 1 năm 2007, Thầy Nhuận Ân có viết một bài giới thiệu về nhục thân Hòa thượng Phổ Sái tại chùa Khánh Vân, thủ đô Bangkok, Thái lan. Từ bài viết đó, tìm hiểu thêm, chúng tôi được biết tại Thái lan, ngoài nhục thân của Hòa thượng Phổ Sái tại chùa Khánh Vân còn có một nhục thân nữa.
09/04/2013(Xem: 3912)
Triển lãm, thuyết trình, đại hội, thường khi giới thiệu cho chúng ta những hình ảnh văn hóa trong quá khứ, hiện tại hay tương lai. Ðây hẳn nhiên là thành tựu mà Ðại hội Văn hóa Phật giáo do Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa, trực thuộc Văn phòng II Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chủ trì và ra công tổ chức hôm nay tại San Diego.
09/04/2013(Xem: 9069)
Những bài viết trong tập sách này chỉ là một cố gắng nhỏ bé nhằm trình bày những đóng góp của Phật giáo vào nền văn hóa nhân loại. Hiện nay ở các nước Âu châu, Úc châu và Mỹ châu người ta đã bước qua giai đoạn tìm hiểu tư tưởng và sinh hoạt Phật giáo. Rất nhiều người đã tham dự vào các chương trình tu tập cùng thưởng thức các nét đẹp của nền văn hoá Phật giáo qua các sinh hoạt thiền quán, hoa đạo, trà đạo, vườn cảnh cùng các sinh hoạt khác mà các dân tộc Á châu mang đến các xã hội Tây Phương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]