Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phụ lục 2

04/04/201317:59(Xem: 7993)
Phụ lục 2
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 1

Phụ Lục 2

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


DẬT VĂN TỪ HUỆ THÔNG VÀ PHẠM VIỆP

Kể từ ngày Tokiwa Daijo phát hiện ra Bác di hạ luận của Huệ Thông có những văn cú tương đương với Lý hoặc luận và kết luận tác giả của Lý hoặc luận không ai khác hơn là Huệ Thông, những nhà nghiên cứu về sau, đặc biệt Pelliot và Fujui Kojun, đã phê phán mạnh mẽ quan điểm vừa nêu của Tokiwa. Tuy nhiên, nếu Huệ Thông không phải là tác giả của Lý hoặc luận, và Bác di hạ luận của ông lại có những văn cú nhất trí với Lý hoặc luận, thì rõ ràng Huệ Thông phải rút những văn cú nhất trí ấy chắc chắn từ Lý hoặc luận, chứ không đâu khác.

Đây là một bút pháp phổ biến không chỉ vào thời Huệ Thông mà còn về trước nữa. Cụ thể là Khương Tăng Hội viết An ban thủ ý kinh tự. Chỉ một đoạn ngắn: “Dư sinh mạt tung, thỉ năng phụ tân, khảo tỷ trở lạc, tam sư điêu táng, ngưỡng chiêm vân nhật, bi vô chất thọ, quyện ngôn cố chi, san nhiên xuất thế”, ta đã tìm thấy gần một nửa là rút từ các sách khác, tức tám câu bốn chữ, thì 3 câu rút từ Lễ ký và Kinh thi [59]. Đó là “năng phụ tân” của Lễ ký chính nghĩa 5 tờ 9a11 và “quyện ngôn cố chi, san nhiên xuất thế” từ bài thơ Đại đông của Mao thi chính nghĩa 13/1 tờ 4b3.

Vấn đề do thế là cần trích lại hết những văn cú nhất trí vừa nói trong Bác Di hạ luận, để làm nguồn tư liệu hiện biết về Mâu Tử vào thế kỷ thứ V, ngoài Minh Phật luận của Tôn Bính và Hậu Hán thư của Phạm Việp (398-445). Công tác này trước đây chưa được một nhà nghiên cứu nào quan tâm. Bản Bác di hạ luận chúng tôi dùng cũng nằm trong Hoằng Minh tập 7 ĐTK 2102 tờ 45b26-47a8.


BÁC DI HẠ LUẬN

1. Tờ 45c26-27: Thiên Trúc, thiên địa chi trung, Phật giáo sở xuất giả dã.

2. Tờ 45c29-46a2: Thí do trì biều, dục giảm giang hải, trắc chưỡng dĩ tệ nhật nguyệt, bất năng tổn giang hải chi tuyền, yếm nhật nguyệt chi minh dã.

3. Tờ 46a17-20: Tích Công Minh Nghi vi ngưu đàn Thanh giốc chi tháo, phục thực như cố, phi ngưu bất văn, bất hiệp kỳ nhĩ dã. Chuyển vi văn manh cô độc chi thanh, ư thị phấn nhĩ trạo vỹ, điệp tiệp nhi thính chi. Kim ngô tử sở văn giả, cái văn manh chi âm dã.

4. Tờ 46b7-10: Thí nhược khinh vũ tại cao, ngộ phong tắc phi tế thạch tại cốc, phùng lưu tắc chuyển, Duy Thái sơn bất vi phiên phong sở động bàn thạch bất vi tật lưu sở hồi. Thị dĩ mai lý kiến sương nhi lạc điệp, tùng bá tuế hàn chi bất điêu, tín hĩ.

5. Tờ 46b12-13: Nhược phù Nhan Hồi kiến Đông dã Tất chi ngự trắc kỳ tương bại. Tử Cống quan Trâu Lỗ chi phong, thẩm kỳ tất vong.

6. Tờ 46b23-24: Ngạn viết: Chỉ nam vi bắc, tự vị bất hoặc, chỉ tây vi đông, tự vị bất mông.


LÝ HOẶC LUẬN

Điều 1 tờ 1c25-26: Sở dĩ sinh Thiên Trúc giả, thiên địa chi trung, sử kỳ trung hòa dả.

Điều 28 tờ 5c29-6a1: Do ác biều cô dục giảm giang hải, điệp canh lỗi dục tổn Côn lôn, trắc nhất chưỡng dĩ ế nhật quang.

Điều 26 tờ 5c7-10: Công Minh Nghi vi ngưu đàn Thanh giốc chi tháo, phục thực như cố, phi ngưu bất văn, bất hiệp kỳ nhĩ hĩ. Chuyển vi văn manh chi thanh, cô độc chi minh, tức trạo vỹ phấn nhĩ, điệp tiệp nhi thính thơ lý tử nhĩ.

Điều 35 tờ 6c11-14: Khinh vũ tại cao, ngộ phong tắc phi, tế thạch tại khê, đắc lưu tắc chuyển. Duy Thái sơn bất vi phiêu phong động, bàn thạch bất vi tật lưu di. Mai lý ngộ sương nhi lạc diệp, duy tùng bá chi nan điêu hĩ.

Điều 34 tờ 6c4-6: Nhan Uyên thừa tứ chi nhật, kiến Đông dã Tất chi ngự, tri kỳ tương bại.

Tử Cống quan Trâu Lỗ chi hội, chiếu kỳ sở dĩ táng.

Điều 36 tờ 6c20-21: Mâu Tử viết: Chỉ nam vi bắc, tự vị bất hoặc, chỉ tây vi đông, tự vị bất mông.

7. Tờ 46b25-26: Bộc văn Lão thị hữu, ngũ vị chi giới, nhi vô tuyệt cốc chi huấn hĩ.

8. Tờ 46b26-27: Thị dĩ thiền nga bất thực, quân tử thùy trọng, oa mãng huyệt tàng thánh nhân hà quí.

9. Tờ 46b28-c2: Cố Thuấn hữu Thương Ngô chi phần, Vũ hữu Cối Kê chi lăng, Châu công hữu cải táng chi thiên, Trọng Ni hữu lưỡng doanh chi mộng, Tăng Sâm hữu khải túc chi từ, Nhan Hồi hữu bất hạnh chi thán.

10. Tờ 462-5: Tích giả hữu nhân vị kiến kỳ lân, vấn thường kiến giả viết: “Lân hà loại hồi” Đáp vân:“Lân như lân dã!” Vấn giả viết: “Nhược thường kiến lân tắc bất vấn dã, nhi vân lân như lân, hà da?” Đáp vân: “Lân quẩn thân, ngưu vỹ, lộc đề, mã bối”. Vấn giả nải hiểu nhiên nhi ngộ.

Điều 30 tờ 6a15-16: Ngô quan Lão thị thượng hạ chi thiên, văn kỳ cấm ngũ vị chi giới, vị đổ kỳ tuyệt ngũ cốc chi ngữ.

Điều 36 tờ 6c22-23: Thiền chi bất thực, quân tử bất quí, oa mãng huyệt tàng thánh nhân bất trọng.

Điều 37 tờ 7a4-10: Thuấn hữu Thương Ngô chi sơn, Vũ hữu Cối Kê chi lăng (...),Châu công hữu cải táng chi thiên, Trọng Ni hữu lưỡng doanh chi mộng (...) Tăng Sâm hữu khải túc chi từ, Nhan Uyên hữu bất hạnh đoản mạng chi ký...

Điều 18 tờ 4b19-22: “Tích nhân vị kiến lân, vấn thường kiến giả lân hà loại hồ? Kiến giả viết: “Lân như lân dã”. Vấn giả viết: “Nhược ngô thường kiến lân, tắc bất vấn tử hĩ, nhi vân lân như lân, ninh khả giải tai”. Kiến giả viết: “Lân quẩn thân, ngưu vỹ, lộc đề, mãbối”. Vấn giả hoắc giải

Vậy có mười đoạn văn cú nhất trí giữa Bác di hạ luận và Lý hoặc luận, tối thiểu khi ta căn cứ vào truyền bản Lý hoặc luận của Hoằng Minh tập. Bởi vì có khả năng có những câu khác nữa, nhưng vì truyền bản Lý hoặc luận của Hoằng Minh tập ngày nay không có, nên ta không thể nhận dạng được. Dẫu thế, qua 10 trích dẫn trên, rõ ràng Huệ Thông chịu ảnh hưởng của Mâu Tử khá đậm nét. Đặc biệt quan điểm coi Thiên Trúc, quê hương đức Phật, là trung tâm của trời đất.

Điểm lôi cuốn là qua những trích dẫn, mà không cần ghi tên người như trên, chứng tỏ Huệ Thông đã đọc Lý hoặc luận khá lâu trước khi viết Bác Di hạ luận. Lâu đủ thời gian cho văn phong và tư tưởng của Mâu Tử ngấm sâu vào thịt xương của Huệ Thông để đến khi Thông viết Bác Di hạ luận, văn phong và tư tưởng đó trở thành một bộ phận của văn phong và tư tưởng của Thông. Sự tình này cho phép ta giả thiết Huệ Thông đã đọc Lý hoặc luận trước khi Lục Trừng đưa Lý hoặc luận vào Pháp luận của mình, nghĩa là trước những năm 465.

Thực tế, trước những năm 465 này, Phạm Việp (398-445) khi viết về nước Thiên Trúc trong Hậu Hán thư 118 tờ 10a9-12, đã kể lại giấc mộng Người vàng của Hán Minh đế và bảo là do “thế truyền” (đời truyền lại). Điều mà Việp gọi là thế truyền này, chắc chắn đã đến từ Lý hoặc luận, bởi vì hai mươi năm sau, lúc viết Pháp luận, Lục Trừng (429-4) đã xác nhận Mâu Tử là người đầu tiên chép về truyền thuyết giấc mộng ấy. Cho nên để làm tài liệu tham khảo, chúng tôi cũng cho trích ra đây cùng với trích văn từ Hậu Hán thư của Pháp Lâm trong Phá tà luận quyển thượng ĐTK 2109 tờ 479a1-6, mà chúng tôi đã cho dẫn trước:

“Thế truyền Minh đế mộng kiến kim nhân trưởng đại, đỉnh hữu quang minh, dĩ vấn quần thần. Hoặc viết: Tây phương hữu thần danh viết Phật. Kỳ hình trường trượng lục xích nhi hoàng kim sắc. Đế ư thị khiển sứ Thiên Trúc, vấn Phật đạo Pháp, toại ư Trung Quốc đồ họa hình tượng yên”.

(Đời truyền Minh đế mơ thấy người vàng to lớn đỉnh đầu có ánh sáng, đem hỏi quần thần. Có người nói: “Tây phương có thần tên gọi là Phật, thân cao trượng sáu thước, mà có sắc hoàng kim”. Vua do thế sai sứ đi Thiên Trúc, hỏi đạo Pháp của Phật. Bèn ở Trung Quốc vẽ ra hình tượng.)

Những dật văn từ Huệ Thông và Phạm Việp, chúng tôi cho in riêng ra, vì chúng đã không được trích đích danh Mâu Tử. Tuy thế, do có khả năng chúng đã được rút ra từ Mâu Tử, nên chúng tôi xin ghi lại để làm tài liệu tham khảo.




CHÚ THÍCH

[48] Dật văn của Lý hoặc luận có cả thảy 15 tác giả và 16 nguồn, đó là: 1. Thế thuyết tân ngữ, 2. Tử sao của Dữu Trọng Dung, 3. Ngọc chúc bảo điển của Đỗ Đài Khanh, 4. Phá tà luận của Pháp Lâm, 5. Biện chính luận của Pháp Lâm, 6. Tập cổ kim Phật đạo luận hành và Quảng Hoằng Minh tập của Đạo Tuyên, 7. Văn tuyển chú của Lý Thiện, 8. Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết của Trạm Nhiên. 9. Lịch đại pháp bảo ký. 10. Bắc sơn lục của Thần Thanh, 11, Thái bình ngự lãm của Lý Phưởng, 12, Quảng vận của Trần Bành Niên, 13. Bắc sơn lục tùy hàm của Đức Khuê, 14. Tam giáo bình tâm luận của Lưu Mật, 15. Chiết nghi luận của Tử Thành và 16. Biện ngụy lục của Tường Mại.
[49] Chu Thúc Ca, Mâu Tử tòng tân, Bắc Bình: II - II Xã tòng thư1.
[50] Dư Gia Tích, Mâu Tử Lý hoặc luận kiểm thảo, trong Dư Gia Tích luận học cận trước I, Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1963 tr. 109-132.
[51] Giáp bản: Thông nhân.
[52] Gb: Năng phi
[53] Gb: Chỉ
[54] Gb: Không
[55] Gb: Chi
[56] Gb: kỳ
[57] Gb: Chư châu.
[58] Chiết nghi luận có nhiều đoạn văn cú thống nhất với Mâu Tử Lý hoặc luận. Nhưng đoạn vừa trích có lẽ vì quá dài nên Tử Thành lại dẫn tên Mâu Tử. Điểm lôi cuốn là ở quyển 5 tờ 816c22-25, Tử Thành lại cho dẫn Mâu Tử và viết: “Mâu Tử nói: Thanh tịnh pháp hạnh kinh nói: Người nước Chấn Đán khó dạy, nên trước sai ba thánh đến giáo hóa, Bồ tát Đại Ca Diếp gọi là Lão Tử, Bồ tát Tịnh Quang Đồng Tử gọi là Trọng Ni, Bồ tát Nho Đồng gọi là Nhan Hồi”. Rồi chua ở dưới: “Văn xuất từ Phá tà luận (...) quyển thượng”. Kiểm Phá tà luận quyển thượng ĐTK 2109 tờ 478c7 và 9-11 có ghi: “Tử thơ Mâu Tử 2 quyển thạnh luận Phật pháp (...) Thanh tịnh pháp hạnh kinh nói: Phật sai ba đệ tử đến Chấn Đán giáo hóa. Bồ tát Nho Đồng, kia gọi Khổng Khâu, Bồ tát Quang Tịnh kia gọi Nhan Hồi, Ma Ha Ca Diếp kia gọi Lão Tử”. Thì rõ ràng Mâu Tử không dính líu gì đến chuyện kinh Thanh tịnh pháp hạnh cả về việc ba đệ tử Phật thành Khổng Tử, Nhan Hồi và Lão Tử. Tuy nhiên, vì Bác di hạ luận của Huệ Thông trong Hoằng Minh tập 7 ĐTK 2102 tờ 45c9-10 có nhắc đến ba đệ tử ấy với câu: “Cho nên kinh nói: Ma Ha Ca Diếp, kia gọi Lão Tử, Quang Tịnh Đồng Tử, kia tên Trọng Ni”. và Bác di hạ luận lại có nhiều đoạn văn cú đồng nhất với Mâu Tử, như Tokiwa Daijo đã nhận ra, cụ thể là những đoạn ở tờ 46a17-20, 46b7-10, 46b11- 12 và 46b23-c6, nên có khả năng Mâu Tử ít nhiều dính líu chăng?
[59] Lê Mạnh Thát, Khương Tăng Hội toàn tập I. Saigon: Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1975.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 9187)
-Phim màu Đại Hàn (Sony Pictures Classics), dài 103 phút; -Xếp loại R (có cảnh khỏa thân, làm tình…); -Nói tiếng Đại Hàn với phụ đề Anh ngữ; -Đạo diễn : Kim Ki Duk. -Kỹ thuật và quay phim (Cinematographer/ Cameraman): Baek Dong Hyeon. Phim được dàn dựng và quay tại Hồ Pusan là một hồ nhân tạo có trên 200 năm, phía Bắc tỉnh Kyungsang.
09/04/2013(Xem: 5455)
Nghi thức dâng hương là tập quán mà hầu như mọi người dân Á châu bất kể lứa tuổi nào và sống ở nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức mọi người Á Châu đều tin rằng nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau.
09/04/2013(Xem: 3264)
Làm sống lại những tiến bộ của người xưa, mỗi Phật tử sẽ trở thành gạch nối giữa quá khứ và hiện tại... Đỗ Thuần Khiêm
08/04/2013(Xem: 13074)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 18916)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
05/04/2013(Xem: 5699)
Đạo Phật có sứ mệnh đem ánh sáng của Trí Tuệ và Tình Thương đến với muôn loài chúng sanh. Ánh sáng của tinh tú, của mặt trời. mặt trăng giúp cho con người thoát khỏi cảnh tối tăm mờ mẫm ...
04/04/2013(Xem: 11634)
Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua những thăng trầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.
01/04/2013(Xem: 7763)
“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”. Hành giả cần phải: Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi ...
29/03/2013(Xem: 3218)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,..v..v…. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,..v..v…. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được Đinh Tiên Hoàng Đế phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư vào năm Thái Bình thứ 2 (971) và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam. Cho đến các Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh,..v..v….. là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
13/03/2013(Xem: 3367)
Tại sao người ta cứ phải nhắc đến cái nghèo khổ (bần cố nông) như một “giá trị”, “di sản” đáng tội nghiệp, nhằm phản ánh “chân lý”, “đạo đức xã hội” của lãnh tụ, trong khi những lời hô hào phải thoát nghèo, phải chống tham nhũng vẫn tỏ ra ít hiệu lực trước thực tế cuộc sống?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]