Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bổn phận làm người hiền nhân.

09/04/201314:16(Xem: 6333)
Bổn phận làm người hiền nhân.

BỔN PHẬN LÀM NGƯỜI HIỀN NHÂN

Thích Nhựt Long

Lời tựa

Những nhà văn chương đạo đức, những bậc thầy đời là một kiến thức xây dựng cho đời một lối sống ổn định hạnh phúc chung.

Bao giờ hạnh phúc có liên quan với nhau hạnh phúc đó tồn tại. Những hạnh phúc ích kỷ cá nhân, hưởng thụ trên mồ hôi nước mắt của người khác chỉ gây căm hờn không tồn tại.

Bổn phận làm người nên bậc hiền nhân: là xử thế có một luật quân bình sự tương quan đối đãi nhau, lấy bụng ta ra bụng người mà nảy sanh ra quân bình, cũng gọi là luật xử thế, chớ không ai đặt ra nó, lẽ phải duy nhất của bổn phận làm người hiền nhân, chỉ có một lẽ phải là luật chớ không thể nào hai phải được.

Không thể nào nói cái phải của người này là cái quấy của người kia, cái phải của thời này là cái quấy của thời khác được. Nếu có việc hai phải là phương tiện, người ta gọi là quyền biến không phải cơ bản, hẳn đó là phương tiện cá nhân chưa phải quần chúng mà cái quân bình cho nhau mới là được đặt vấn đề để thực hành.

Người ta nói phần đông là phải phần ít là quấy. Không! Không nhất định như vậy được, mà phải quấy là do người biết nhận định phải tìm nguyên lý nó là một không hai phải bao giờ.

Một người cha nuôi con đúng tuổi cho ăn học là phải, nhưng một người khác đem con cho ở đợ để lấy tiền cũng là phải. Vì người mạnh khỏe có tiền dư khả năng cho con ăn học là phải, không cho con ăn học là quấy. Còn người nầy nghèo túng đói đau không tiền thuốc men nên đem con đợ là phải; nhưng cố nhịn chịu hoặc vay mượn chờ mạnh rồi trả không đợ con là phải hơn. Như vậy người nghèo đợ con là tạm quyền thôi không sao phải được.

Những điều mà cái phải phương Tây không như cái phải phương Đông, trái lại cái quấy ở phương Đông là cái phải ở phương Tây.

Người phương Tây gặp nhau chào bằng cách bắt tay, lại còn phân biệt bắt tay người vợ của bạn trước rồi mới bắt tay người chồng sau, như vậy là cái phải ở phương Tây.

Còn người phương Đông chào nhau bằng cách chắp tay xá, và xá người đàn ông trước, như vậy là cái phải ở phương Đông.

Trên đây là hai cái phải ? Hay là ở đâu theo đó, tuỳ xứ tuỳ người trong đó ta phải cân nhắc và đặt câu hỏi ? Hai cách, cách nào lịch sự ? Phải hơn kém chứ!

Luôn luôn là một phải, tôi muốn nói quân bình là luật xử thế ở trên quả địa cầu này vẫn là một phải không bao giờ chênh lệch.

Làm cho xong trách nhiệm vị trí trong bổn phận làm người là bậc Hiền-Nhân đáng kính rồi mới bước lên bậc Thánh; hay là tu-thiền vì theo Lục-Tổ dạy: “Xúc cảnh bất động thị đại-thừa thiền“ có nghĩa là chạm cảnh tâm không động là Đại-Thừa Thiền. Ngày nay dạy Đạo Thiền cho người Phật tử mà không quan tâm đến bậc Hiền, người xử thế không xong, và cũng không dạy, mà chỉ dạy Thiền không thì không bao giờ kết quả.

Xưa vua Trần Nhân Tôn ngồi trên ngôi vị vua mà tu ngộ Thiền là vì biết làm tròn trách nhiệm thương dân thương nước mà tu chứng.

Ngày nay người ở vị trí nào làm tròn trách nhiệm rồi mới có thể tu Thiền. Soạn giả tuy cố gắng cống hiến cho Đạo và Đời nhưng còn mong bậc cao minh chỉ giáo cho.

Bần tăng THÍCH NHỰT LONG

BỔN PHẬN LÀM NGƯỜI HIỀN NHÂN

Lấy tinh thần lợi tha vô ngã thành thật xây dựng cho nhau dựa theo nguyên tắc từ-bi, bình đẳng, từ xưa đến nay đã có nhiều thời làm và cũng có lắm lúc bị bỏ lãng đi; thời nào có thực hành theo đó thì thời đó có nhiều hạnh phúc cho nhân quần xã hội, trái lại thời nào mà bỏ đạo đức từ bi, bình đẳng thì thời đó mất sự quân bình, nhân dân bị xáo trộn điêu đứng khổ sở đầy khốc hại.

Từ bi là ban vui cứu khổ, chính con người cùng con người ban vui cứu khổ cho nhau chứ không phải thần thánh nào ban vui cứu khổ được, chỉ có Phật dạy cho ta làm.

Như vậy đạo từ bi xây dựng cho nhau có quy tắc gọi là luật xử thế.

Xử thế có phương pháp gọi là luật. Hòa nhã chia sớt nhau gọi là xử, chung nhau sống gọi là thế. Luật này bắt tay cùng nhau chia phần xây dựng chung. Không phải tự tay ai làm ra luật này, mà chung nhau sống quân bình gọi là luật xử thế. Bắt tay nhau chia phần mà lo cho đời thành ra mọi người đều có bổn phận và làm nên bậc hiền nhân.

Bổn phận hay là bổn phần, phần có phần chính, phần phụ; mỗi người khi đứng vào vị trí nào phải làm tròn phần chánh (bổn phận), ngoài ra còn một ít phần phụ (chi phần).

Từ xưa đến nay, người ta chỉ xoay qua xoay lại hai đường lối là : Nhân trị hay pháp trị, cũng gọi là nhu và cương. Lấy nhu mà trị dễ cảm hóa thiên về tình cảm; cương trị là căng thẳng theo pháp luật hình luật trị răn dạy thiên về lý trí.

Vẫn theo hai lề lối trên xoay qua xoay lại, không khi nào thăng bằng được, nếu có được thì chỉ tạm thời thôi, về khi dùng nhu thì lần đến chúng khinh nhờn mất trật tự; trái lại dùng cương để trị lâu ngày dân chúng sanh ra thán oán.

Hiền nhân xử thế không phải cương không phải nhu mà dung hòa cả cương và nhu. Từ bi và trí tuệ phối lại quân bình mới tồn tại. Dung hòa quân bình là duy nhất nên gọi lý có một mà thôi.

Hiền nhân xử thế là một cán cân công bằng, chia cho người từ giai đoạn thay phiên nhau mà làm; làm cho tròn là nên tốt và hạnh phúc, không làm tròn thì hư xấu là khổ không sao hơn được.

Ở đây chỉ dẫn tích rồi phê bình lợi và hại, người không làm tròn hại như thế nào? Người làm tròn lợi như thế nào? Và người xưa làm như vậy đúng không, đúng ở chỗ nào ? Không đúng ở chỗ nào? Còn về phần chi tiết của bổn phận chỉ nói sơ thôi, vì vậy cho nên không có chương mục, chỉ đại khái có 20 bổn phận:

1 - Bổn phận thầy đối với trò

2 - Học trò đối với thầy

3 - Cha đối với con

4 - Con đối với cha

5 - Mẹ đối với con

6 - Con đối với mẹ

7 - Mẹ chồng nàng dâu

8 - Chồng đối với vợ

9 - Vợ đối với chồng

10 - Bổn phận người lãnh đạo

11 - Bổn phận người làm dân

12 - Anh đối với em

13 - Em đối với anh

14 - Đối với bằng hữu

15 - Với bà con chòm xóm

16 - Chủ đối với người làm công

17 - Người làm công đối với chủ

18 - Nam nữ đối với nhau

19 - Đối với cầm thú

20 - Những điều phải có để làm người hiền.

1. BỔN PHẬN THẦY ĐỐI VỚI TRÒ

Sửa điều dở cho ai chớ nghiêm khắc quá.

Dạy điều hay cho ai chớ cao xa quá.

Làm ông thầy dạy cho học trò là nắm bảy mươi phần trăm quyền hướng đạo cho thế hệ, thật là quan trọng. Dạy học mà chỉ chuyên văn chương mong cho học trò đỗ đạt để được tiếng, hay hưởng lương bổng thôi, thật là lầm to lắm vậy.

Khi bước vào ngưỡng cửa nhà trường thì học trò đã đặt một niềm tin và sợ thầy rồi. Như vậy ngay ban sơ bổn phận ông thầy phải làm cho học trò giữ mãi tư tưởng đó, thì sự làm bổn phận ông thầy không thấy khó nữa.

Điều căn bản là ông thầy phải gương mẫu đạo đức đúng với tư cách làm người đàng hoàng, luân thường lễ hạnh và dạy điều đó cho học trò, rồi sau dạy văn chương “tiên học lễ hậu học văn“: Trước dạy lễ rồi sau dạy văn.

Văn chương là con dao bén hai lưỡi

Văn chương là mũi nhọn hai đầu

Văn chương là cô gái đẹp

Văn chương là một vũ tướng vô địch.

Con dao bén trong tay người đạo đức, họ sẽ dọn gai góc phá rừng hoang trở thành đường đi tốt, ruộng vườn thạnh mậu; trong tay kẻ ác là cướp của giết người gây ra cảnh đau thương thảm khốc!

Mũi nhọn hai đầu trở qua cũng hại trở lại cũng hại, người ác học giỏi cũng thế, học giỏi chỉ trợ duyên thêm đạo ác.

Cô gái đẹp quyến rũ người rồi tự do dẫn dắt theo ý muốn; muốn làm thiện thì cô gái tăng thêm vẻ đẹp, làm ác thì trở thành xấu xí ghê tởm.

Vũ tướng phục vụ chính nghĩa thì lợi nước an dân; tham lam tàn bạo thì làm cho dân tình điêu đứng nhà tan cửa nát chết chóc chia ly, thành tan nước mất.

Cũng thế văn chương đem ra xây dựng đạo đức phục vụ cho xã hội dạy dỗ cho nhân dân thì lợi nước an dân đời hưởng thái bình; dùng để phục vụ cho tham lam xảo quyệt độc tài mưu toan danh lợi thì trở thành một lợi khí tàn ác nhân dân điêu đứng nuốt hận ngàn đời.

Ngòi bút là con dao bén hai lưỡi. Bổn phận ông thầy là một người đạo đức văn chương, dạy học trò để sử dụng con dao, mũi nhọn, cô gái đẹp, vũ tướng thì tất cả đều phục thiện làm nên hiền nhân.

THƯỜNG TUNG VÀ LÃO TỬ

Thường Tung đau nặng nằm trên giường, Lão Tử đến thăm hỏi rằng:

- Tôi xem tiên sinh bệnh nặng, dám hỏi tiên sinh còn câu gì để dạy thêm đệ tử chúng con học nữa chăng?

Thường Tung nói:

- Qua chỗ cố hương mà xuống xe người biết điều ấy chưa?

Lão Tử thưa:

- Qua chỗ cố hương mà xuống xe có phải là người không quên quê cha đất tổ không?

- Ừ! Phải đấy! Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân, ngươi biết điều ấy chưa?

- Qua chỗ cây cao mà bước rảo chân là kính bực già cả phải vậy không?

- Ừ! Phải đấy!

Thường Tung há miệng ra rồi hỏi:

- Lưỡi ta còn không?

Lão Tử thưa:

- Còn.

- Răng ta còn không?

- Rụng hết cả.

- Thế ngươi có hiểu điều đó không?

Lão Tử nói:

- Ôi! Lưỡi mà còn có phải tại mềm không? Răng mà rụng hết có phải tại cứng không?

- Ừ! Phải đấy! Việc đời đại để như thế cả; ta không còn gì để nói cùng các ngươi nữa.

Luận

Dạy học căn bản cho học trò là văn nói về lễ văn chương về hiền nhu há chẳng phải lễ và văn gồm học cả cũng là một thuyết dạy dung hòa cho học trò - tất cả người đều học trò - đối xử với nhau được quân bình là điều quan hệ đầu tiên; mà cũng là lời trối trăn di chúc cho học trò sau cùng.

Thường Tung đến chết vẫn giữ tư cách gương mẫu và vẫn đem những điều gương mẫu dạy cho đệ tử. Coi như điều đó là quan trọng nhất không gì hơn nên ngài nói : Ta không còn gì để nói với các ngươi nữa.

Là không còn gì hơn những điều đó, làm được vậy là nên hiền nhân vậy.

TỪ TUÂN MINH DẠY MÃNH LƯỢC

Từ Tuân Minh người ở Hoài Âm, vóc người to lớn mồ côi thưở nhỏ, tánh hiếu học. Khi mười bảy tuổi theo học với Mao Linh Hòa rồi sang học với Vương Thông ở Sơn Đông, rồi bỏ qua Yên, lại bỏ Yên sang Triệu học với Trương Ngô Quý.

Ngô Quý dạy học trò rất đông, Tuân Minh dụng tâm học vài tháng, rồi nói riêng với bạn rằng:

- Thầy ta danh tiếng tuy lừng lẫy, song nghĩa lý không được quán triệt, phàm những câu thầy giảng thuyết phần nhiều không được thỏa mãn. Ta định đi tìm thầy khác vậy.

Rồi cùng với Mãnh Lược sang Phạm Vương học với Tôn Mãi Đức, nhưng học vừa một năm Tuân Minh lại bỏ đi.

Mãnh Lược nói với Tuân Minh rằng:

- Anh tuổi còn trẻ theo thầy học hành, chẳng chịu chuyên học một thầy, cứ nay thầy này mai thầy khác, nay tìm đến mai bỏ đi, xa xôi ngàn dặm, học hành như vậy sợ không thành được.

Tuân Minh nói:

- Ta nay mới biết chỗ ở của ông thầy, đích thật là ông thầy.

Mãnh Lược hỏi:

- Ở đâu?

Tuân Minh chỉ vào tâm nói:

- Đây, chính là chỗ này.

Luận

Học tất phải nhờ thầy, tục ngữ nói:

“Không thầy đố mầy làm nên“.

Thật vậy học không thầy làm sao nên được, nhưng chỗ bí yếu là tại tâm; đâu nên bắt buộc học trò cứ học theo mình, mình là người chỉ đường, còn đi đường là của mỗi người học trò.

Tuân Minh dạy Mãnh Lược học hỏi ông thầy tự tâm, là chổ chí thật của mỗi người đều có, mà dạy như vậy là mong cầu học trò tiến bộ hơn mình. Làm thầy không tự cao mà mong học trò tiến bộ hơn mình là bổn phận cao qúy của ông thầy.

Nếu phân tích ra điều nầy là con người có con tim và khối óc, tim thiên về tình cảm, óc thiên về lý trí. Lý trí dụng cương, tình cảm dụng nhu. Nay Tuân Minh chỉ học tâm là dạy phải lấy nhu mà xử thế . Đây là lối dạy qui tâm và cũng là lối dung hòa quân bình nữa vì thầy lấy quyền dạy cho học trò, nhưng cho học trò có chút quyền tự xét. Hay nói cách khác hơn là thầy đem cái hay dạy học trò rồi cho học trò tự khai thác cái hay của mình. Làm thầy không độc đoán văn chương xưa không quyết định, bất cứ việc gì càng ngày càng tiến bộ ắt có những cái hay mới sửa đổi, mới để nên bậc hiền nhân.

“Các người phải tự thắp đuốc mà đi“.

“Lời ta dạy như ngón tay chỉ trăng, các người nhơn ngón tay mà vượt tầm mắt lên mới thấy trăng“.

Lời của Bổn Sư Thích Ca:

Bổn phận đạo sư phải là thầy.

Oai nghi đức hạnh trọn nên đầy.

Nêu chiếc thoàn từ vượt lối này.

Gươm huệ long lanh trừ lục tặc.

Đèn từ chói lọi phá đêm dài.

Một cành nở nhụy rừng thơm ngát.

Thành đạo một người độ vạn người.

2. BỔN PHẬN HỌC TRÒ ĐỐI VỚI THẦY

Muốn cho có một cán cân quân bình trật tự cho xã hội phải có sự tương đối, tương xứng: Thầy đã làm tròn bổn phận đối với trò, lẽ tất nhiên trò phải đối với thầy.

Cha mẹ sanh ta xác thân, nuôi nấng ta hình vóc. Thầy dạy ta về mặt văn chương đạo lý, nuôi dưỡng ta to lớn về mặt tinh thần. Ân cha mẹ nặng nề bao nhiêu thì ơn thầy cao cả bấy nhiêu. Chỉ có nuôi lớn xác thân mà thiếu tinh thần đạo đức thì không ra con người .

Vậy học trò đối với thầy, phải biết công ơn dạy dỗ, làm thế nào để đền bù lại, bằng hai cách:

Tùy khả năng giúp đỡ về vật chất, và quyết định theo con đường đạo đức cho nên danh hiền cũng là nên danh thầy.

Lại nữa sự học bất cứ ai hay hơn là mình học không câu nệ tuổi tác:

“ Bất sĩ hạ vấn “.

Huỳnh Đế học với Quảng Thành, Thiện Tài đồng tử học năm mươi ba nơi, Tổ Huệ Khả chặt tay cầu pháp, Khổng Tử học với Hạng Thát.

KHỔNG TỬ HỌC HẠNG THÁT

Khổng Tử tên là Khưu, tên chữ Trọng Ni, dạy học ở phía Tây nước Lỗ. Một hôm ngồi xe cùng đồ chúng đi du ngoạn, giữa đường gặp một số trẻ chơi giỡn, có một đứa không đùa giỡn.

Khổng Tử dừng xe lại hỏi:

- Riêng ngươi không giỡn là sao?

Tiểu Nhi đáp:

- Chơi giỡn không ích, áo rách khó vá, trên làm nhục cha mẹ dưới đến người trong nhà, ắt có tranh đấu, nhọc mà không công, vốn không ích nên tôi không giỡn.

Tiểu Nhi đáp rồi bèn cúi đầu lượm gạch làm thành.

Khổng Tử rất quý hỏi:

- Sao không tránh xe?

- Từ xưa đến nay xe tránh thành, chớ thành tránh xe bao giờ?

Khổng Tử liền xuống xe luận nói, xuống xe rồi hỏi rằng:

- Ngươi tuổi còn nhỏ sao lại xảo trá vậy?

Tiểu Nhi đáp:

- Người sanh ba tuổi phân biệt cha mẹ, thỏ sanh ba ngày chạy cùng mẫu ruộng, cá sanh ba ngày lội cùng sông hồ, trời sanh tự nhiên có gì xảo trá?

Khổng Tử hỏi:

- Ngươi ở làng nào, xóm nào, họ gì, tên gì, tự là gì?

Tiểu Nhi đáp:

- Tôi ở làng Thường ấp Tệ, họ Hạng tên Thát, chưa có tên chữ.

Khổng Tử nói:

- Ta muốn cùng ngươi du ngoạn, ý ngươi thế nào?

Tiểu Nhi đáp:

- Nhà có cha nghiêm phải nghe theo, nhà có mẹ hiền phải lo nuôi dưỡng, nhà có anh hiền cần phải thuận theo, nhà có em dại cần phải dạy bảo, nhà có thầy sáng cần phải lo học, đâu có nhàn rỗi mà du ngoạn.

Khổng Tử nói:

- Trong xe ta có ba mươi hai con cờ, ta cùng ngươi đánh bạc, ý ngươi thế nào?

Tiểu Nhi đáp:

- Vua mê cờ bạc, không xem bốn biển, chư hầu mê cờ bạc hư hại chánh kỷ, nho sĩ mê cờ bạc phế bỏ học vấn, tiểu nhơn mê cờ bạc hư việc nhà, đày tớ mê cờ bạc ắt bị roi vọt, người nông mê cờ bạc ruộng mùa thất thời, cho nên không cờ bạc.

Khổng Tử nói :

- Ta muốn cùng ngươi bình thiên hạ, ý ngươi thế nào?

Tiểu Nhi đáp:

- Thiên hạ không thế bình: hoặc có núi rừng, hoặc có sông hồ, hoặc có vương hầu, hoặc có tôi tớ. Ban bằng núi rừng chim thú ở đâu? Lấp bằng sông hồ cá trạnh về đâu? Trừ bỏ vương hầu dân nhiều thị phi; bỏ hết tôi tớ quân tử nhờ ai? Thiên hạ minh man đâu thế bình được?

Khổng Tử hỏi:

- Ngươi biết trong thiên hạ, lửa gì không khói? Nước gì không cá? Núi gì không đá? Người nào không vợ? Gái nào không chồng? Trâu gì không nghé? Ngựa gì không con? Thế nào quân tử? Thế nào tiểu nhơn? Thế nào không đủ? Khi nào có thừa? Thành nào không chợ? Người nào không tên chữ?

Tiểu Nhi đáp:

- Lửa đóm không khói, nước giếng không cá, núi đất không đá, người tiên không vợ, ngọc nữ không chồng, trâu đất không nghé, ngựa cây không con, hiền là quân tử, ngu là tiểu nhơn. Ngày xuân không đủ, ngày hạ có thừa, hoành thành không chợ, tiểu nhơn không tên chữ.

Khổng Tử hỏi:

- Ngươi biết cha mẹ thân hay chồng vợ thân?

Tiểu Nhi đáp :

- Cha mẹ thân, chồng vợ không thân.

Khổng Tử nói :

- Chồng vợ sống đồng chăn, chết đồng huyệt sao gọi là không thân?

Tiểu Nhi đáp:

- Người sanh không vợ như xe không bánh, không bánh thì tạo bánh xe mới, vợ chết bèn cưới vợ mới, con gái nhà hiền ắt có chồng qúy. Mười gian nhà rộng gác một đòn dông, ba cửa song, sáu cửa sổ không bằng ánh sáng cửa cái, các sao tuy sáng không bằng trăng sáng. Ân cha mẹ không quên vậy.

Khổng Tử khen rằng:

- Hiền thay! Hiền thay!

Tiểu Nhi hỏi Khổng Tử rằng:

- Nãy giờ ngài hỏi Thát, Thát mỗi mỗi đều đáp, nay Thát cầu người dạy một lời, cho Thát biết thêm xin ngài chớ bỏ:

- Vịt, ngỗng sao nổi? Hồng nhạn sao kêu lớn? Tùng lá sao mùa đông vẫn xanh?

Khổng Tử đáp:

- Vịt, ngỗng hay nổi nhờ có nhiều lông. Hồng nhạn kêu lớn nhờ có cổ dài. Tùng lá mùa đông vẫn xanh nhờ đặc ruột.

Tiểu Nhi nói:

- Không phải vậy! Cá trạnh hay nổi nào có nhiều lông. Ếch, ễnh ương kêu vang nào có cổ dài. Tre-trúc mùa đông vẫn xanh nào có đặc ruột.

Tiểu Nhi lại hỏi:

- Trên trời bao la có bao nhiêu sao?

Khổng Tử nói:

- Nãy giờ bàn việc dưới đất đâu nói việc trời?

Tiểu Nhi hỏi:

- Dưới đất minh mang có bao nhiêu nhà?

Khổng Tử nói:

- Nên luận việc trước mặt, đâu nên nói trời luận đất?

Tiểu Nhi hỏi:

- Như luận việc trước mặt thì có bao nhiêu lông mày ?

Khổng Tử cười mà không đáp, day lại kêu các đệ tử nói rằng:

- Hậu sanh khả uý! Nào dè sự cầu học đâu hơn bữa nay.

Rồi lên xe đi.

Luận

Qua giai thoại trên ta thấy đức Khổng Tử còn kính một em bé thông minh, huống gì chúng ta là học trò mà không kính nể thầy.

Sự kính nể này quan trọng lan ra cả một trường đời, nếu học trò quý sự học, biết nể thầy thì xã hội chỗ nào cũng là chỗ ta học, thời nào ta cũng cung kính dè dặt học hỏi, người nào ta cũng cung kính nghe học, học thêm với nhau thì xã hội này có gì đẹp bằng, đó là then chốt thêm cho cán cân quân bình nên bậc hiền nhân vậy.

THẦY TĂNG TỬ HỌC VỚI ĐỨC KHỔNG TỬ

Tăng Tử nói với đức Khổng Tử:

- Tôi biết thầy có ba điều, tôi học mãi mà chưa làm được:

1) Thấy người ta có một điều phải mà quên cả trăm điều quấy của người ấy là thầy dể tánh.

2) Thấy người ta có điều gì phải thì vui vẻ như mình có, thế là thầy không ganh tỵ.

3) Điều gì phải nhất quyết làm rồi mới nói thế là thầy chịu khó.

Nhà thầy là người dễ tính, không ganh tỵ hay chịu khó, ba điều đó tôi học mãi mà chưa có thể làm được.

Luận

Thầy Tăng Tử vừa biết học vừa biết trọng cái đáng trọng thầy:

Biết học là biết học về đức độ trước để sau này nên danh phận một bậc hiền nhân quân tử, được một sự nghiệp có giá trị; không vì chuộng hư danh chỉ khư khư học lấy mớ văn chương để mong đỗ đạt giành được địa vị quyền thế vô đạo đức.

Biết trọng đức của thầy hơn trọng tài ba, biết rằng tài đức phải đi dôi nhưng nếu ông thầy chỉ khư khư có một việc tài mà không có đức thì thà ta lánh đi xa còn hơn.

Đã học với bực thầy có tài có đức rồi thì ta phải biết ơn thầy để bù lại thầy đã vì ta mà dạy dỗ cho ta nên bậc hiền nhân vậy.

ĐỨC KHỔNG TỬ HỌC VỚI LÃO ĐAM

Đức Khổng Tử từ nước Lỗ vào kinh đô nhà Chu, hỏi lễ với Lão Đam, hỏi nhạc với Trành Hoằng. Xem xét cả giao xã, minh đường cùng triều đình tôn miếu.

Khi ra về, Lão Đam theo tiễn chân và nói rằng:

- Ta nghe người giàu sang tiễn người thì dụng của cải, người nhân hậu tiễn người thì dùng lời nói, ta không giàu sang nhưng mang tiếng là nhân hậu, vậy xin tiễn người bằng lời nói vậy:

- Này! Phàm kẻ sĩ đời nay, những người thông minh sâu sắc, xét nét mà có khi thiệt mạng đều là kẻ hay chê bai nghị luận tâm sự người ta cả; những người biện bác rộng rãi xa xôi, mà có khi khổ thân đều là kẻ hay bói móc phơi bày tội lỗi người ta cả.

Đức Khổng Tử nói:

- Vâng, xin kính theo lời dạy.

Luận

Học trò kính thầy cốt là kính trọng lời nói phải. Khi Lão Đam nói dứt lời đức Khổng Tử đã tỏ lòng kính trọng chân thật tự nơi cõi lòng mà thốt ra lời nói :

“Vâng xin kính theo lời dạy“.

Ta là học trò nên học theo đức Khổng Tử. Vậy học trò đối với thầy phải biết công ơn dạy dỗ làm thế nào để bù lại:

* Phải tôn trọng thầy như cha mẹ, phải noi gương mẫu thầy (nếu là ông thầy gương mẫu).

* Phải thăm nom giúp đỡ thầy khi nghèo túng đau ốm.

* Phải nghĩ đến sự nghiệp quốc dân để làm nên nghiệp cho vui lòng thầy.

Người hiền nhân quân tử rất trọng học và kính thầy sẽ nên bậc hiền nhân vậy.

“Thầy như lạch nước dòng sông

Nếu không lòng lạch nước thông bao giờ

Trong mắt người có ngươi mới tỏ

Sách không thầy mới ngỏ làm sao?

Xưa nay giáo pháp truyền trao

Không thầy há dễ mặt nào nên thân “.

( Kệ của Hòa thượng Thiên Thai )

3. BỔN PHẬN CHA ĐỐI VỚI CON

Tuy nói là cha mẹ sanh con xác thân, thầy sanh con tinh thần, nhưng thầy dạy trò dù sao cũng nặng về mặt văn chương hơn là luân lý tình cảm gia đình.

Tình cảm luân lý về gia đình là cốt cán bổn phận của người cha. Trước tiên người cha phải nuôi con, cho con được ấm no là điều kiện tiên quyết, dầu nghèo khổ cách nào, có thể hạn chế chớ không thể không mà được.

Tôi đã thấy nhiều người cha làm không tròn bổn phận, làm cha chỉ cứ đòi quyền làm cha, làm như vậy sao gọi “Phụ từ tử hiếu“ và mất thăng bằng cho cán cân xã hội không phải ít.

Trường hợp như anh A lớn lên được sống trong gia đình giàu sang, rồi từ nhỏ đến lớn khi có con chỉ biết ăn không ngồi rồi, khỏi phải lo nuôi dưỡng gì cho con hết, chẳng những vậy mà còn phung phí ăn chơi cho đến khi con được mười hai mười ba tuổi thì sự nghiệp tiêu tan hết sạch. Anh A đã không làm được chút nào bổn phận làm cha, bây giờ lại đòi quyền làm cha nói với con rằng:

- Tao sanh bây ra, nuôi bây lớn, giờ đây bây phải nuôi lại tao. Rồi đem con cho ở đợ lấy tiền ăn nữa, không biết gì đến sự ngu dốt cực khổ của con, mãi đến già chết con cũng còn ở đợ mà trừ không hết nợ.

Rồi thì đứa con đó sẽ thành đứa con hoang vì đâu có được thừa hưởng gì của cha, đâu có đến trường học hỏi. Đành là nó đứa con hoang không hơn được.

Trong xã hội, trẻ hoang vẫn còn, cộng thêm số trẻ sớm mất cha mẹ mà lại không được ai chăm sóc thì rất dễ sinh trộm cắp, móc túi, giật đồ, cướp bóc, xì ke...

Thử tìm tâm lý thực hành tình cảm xem coi tại em đó đi hoang hay tại người cha không làm tròn bổn phận bỏ cho nó đi hoang không phải tự tánh nó hoang.

Thí dụ anh B sanh con rồi không lo cho con cơm ăn áo mặc, bỏ lăn lóc vất vả nhờ cơm dư canh thừa của cô dì chú bác chòm xóm; sống nheo nhóc ốm gầy miễn cưỡng sống còn, về tinh thần mất hết tình cảm cha con, mẹ con trong cảnh lạt lẽo và tập quen tánh ăn nói thô lỗ tục tằn. Tuy ốm gầy nhưng độ mười ba mười bốn tuổi cũng có khả năng làm được ít việc. Bây giờ anh B lấy quyền làm cha, đem con cho ở đợ chăn trâu bò cho ông Xoài, ông Ổi lấy tiền để tiêu xài. Cực khổ quá đứa con vô phước ấy chịu không kham, phần bị chủ đánh đập mắng chửi dồn dập:

Sáng sớm hốt phân quét chuồng, rồi lùa trâu ra đồng, đói, lạnh, muỗi mòng bu cắn, tay chân lở loét, đến chín mười giờ mới lùa trâu về bụng đói tay run mắt mờ, mới ăn được bữa cơm thừa. Trong những cơn bụng đói hoành hành cho nên thấy trái dừa, trái cam, bất cứ vật gì ăn được là nó đớp ngay và ăn ngon lành; nhiều khi đồng bọn tụ năm tụ bảy trộm gà trộm vịt gạo nếp nồi niêu đem ra đồng nấu ăn, cứ mỗi lần bị bắt là phải đòn bầm mình, sưng mặt quẹo tay què chân, bị đòn bịnh đau ốm không ai biết tới, rồi sáng sớm cũng phải lùa trâu ra đồng như thường lệ.

Khổ sở hoành hành lâu ngày em mong mỏi mãn tháng hết năm lại về nhưng chưa mãn năm nầy thì người cha lãnh tiền năm khác rồi chừng nào mới mãn?

Cực khổ dằng dai em đánh bạo trốn về nhà, ông cha lại bất chấp phải quấy cứ đánh mắng:

- Mầy đồ bất hiếu! Sanh mầy ra nuôi đến lớn giờ nầy cho mầy ở để lấy tiền, trả công ơn tao, rồi mầy trốn về, chủ nợ đến cào nhà cho mầy xem.

Rồi bị cha đánh đập, ở nhà không được, đến ở không kham, lẽ tất nhiên em phải đi hoang; rồi cùng d0ồng nghiệp tụ năm tụ bảy đánh liều, ăn cắp vặt, móc túi để mua ăn, lắm lúc đói quá, bươi móc những đống rác lượm những vỏ úng trái thúi ăn càn ăn bừa.

Có nhiều lần móc túi, mánh khoé giựt tiền bị cảnh sát bắt được thì tha hồ mà ăn đòn. Người ta nói em bé gan lì lợm. Không gan dạ ai chịu cho, không lì lợm chết đói sao?

Bây giờ ta hãy đặt ra một vấn đề ổn thỏa - đặt ra thôi - để xem coi em đó vốn có tánh hoang hay tại xã hội tệ hại thúc đẩy em đi hoang?

Có người bảo:

- Anh B, anh nên suy nghĩ lại, con anh đi hoang là tại anh thiếu bổn phận làm cha, lại dành quyền làm cha quá lạm, nên nó chịu không kham túng thế phải bỏ đi hoang. Nay tôi đứng ra làm mạnh thường quân, cho anh số bạc và còn giúp anh nhiều lần nữa, anh hãy tìm con an ủi nó đem về nuôi nấng, xem coi nó có chịu về hay là nó thích đi hoang?

Anh B vẫn còn chút lương tâm, thoạt nghĩ đến tình cha con, và được sự giúp đỡ của mạnh thường quân, lãnh số tiền rồi đi tìm con.

- Ồ! Kìa con ta! Cảm động quá khi thấy con mình lang thang rách rưới, đang bươi xới đống rác moi lấy cùi dứa nhai lấy nhai để.

Chợt thấy cha nó sợ quá tự nghĩ: Mình đã bỏ trốn chắc chủ nợ làm dữ, nay cha bắt đem về thế nào cũng phải chết về đòn bọng.

Nó liền đâm đầu chạy lẫn vào đám đông rồi chuồn mất. Bây giờ anh B mới thấm thía lòng đau buốt mà ra nước mắt. Anh cố gắng rình mò quyết tìm cho được con.

May thằng nhỏ vừa trong ngõ hẻm chui ra không kịp thấy cha nó chợp cánh tay, nó run lên và xỉu.

Ôm con vào lòng …

Em bé nghe giọt nước mắt ấm nhểu trên mặt nó mở mắt ra thấy cha chưa kịp nói gì.

Anh B liền nói:

- Con! Con giận cha lắm phải không con? Ôi! Cha tệ bạc, con giận cha là phải.

Nó nói:

- Con sợ cha chứ con không dám giận.

- Bây giờ cha đã biết thương con, tìm kiếm suốt mấy hôm liền mới gặp con, thế rồi con bỏ chạy làm cho cha quá đau khổ buồn tủi. Bây giờ cha thương con hơn thương mình, bao nhiêu sự yêu thương cha trút hết cho con. Đem con về cha làm tròn bổn phận cha.

Em bé lòng nhẹ lên ôm chầm lấy cha, miệng nó nói:

- Con đói lắm!

- Con hãy lê lại quầy hàng cha sẽ cho con ăn.

Em bé rất sung sướng xem như trên đời này chưa có gì bằng. Em ăn ngon lành no nê rồi theo cha về nhà.

Vấn đề đặt ra, nhưng kỳ thật nó sống động về tâm lý hẳn như vậy. Nếu có người làm cha tệ bạc, bỏ con đi hoang như vậy nay làm như anh B xem coi có xảy ra như vậy không?

Quả quyết như vậy. Đọc chuyện xưa ta há chẳng ghét kẻ làm cha lạm quyền quá trớn gây thiệt hại tiêu tan cả gia đình sự nghiệp mà còn ảnh hưởng tai hại đến quốc dân xã hội.

VỆ TUYÊN VƯƠNG

Vệ Tuyên Vương có thói xấu đê hèn đắm mê Di Khương là dì ghẻ sanh ra công tử Cấp Tử, giao cho công tử Chức trông nom dạy dỗ.

Khi công tử Cấp được mười sáu tuổi, Vệ Công cho người sang hỏi con gái vua Tề về làm vợ cho con mình. Nhưng sau Tuyên Vương nghe nói con gái Tề tên là Tuyên Khương nhan sắc đẹp tợ tiên nga, liền đem lòng tham muốn, mới nghĩ ra kế:

Cất tòa lầu tuyệt đẹp nơi sông Tân Kỳ lấy tên là Tân Đài, rồi sai Cấp Tử làm sứ qua nước Tống.

Cấp Tử đi rồi Tuyên Vương sai công tử Tiết sang Tề rước nàng Tuyên Khương về Tân Đài rồi Tuyên Vương ở luôn đó lấy Tuyên Khương làm vợ. Tuyên Khương là gái lả lơi nên cũng ưng thuận để hưởng giàu sang.

Khi Cấp Tử đi sứ về Tuyên Vương bảo Cấp đến Tân Đài ra mắt Tuyên Khương gọi bằng kế mẫu. Mặc dầu hành động ngang trái, nhưng Cấp Tử là người thuần hậu xem việc trăng hoa là thói thường tình lòng không màng đến, nên nghe theo, và lòng hiếu thảo cũng không trách cha.

Sau Tuyên Khương sanh đặng hai con trai tên là Thọ và Sóc. Vệ Tuyên Vương trước kia mê đắm Di Khương thì tình cha con đối với công tử Cấp rất đậm đà; nay mê nàng Tuyên Khương thì bao nhiêu tình thương trước đều đổ dồn về Thọ và Sóc, lại còn quyết truyền ngôi cho Thọ.

Nhưng không thế được Tuyên Vương đã làm thất đức làm sao ổn định được.

Thọ và Sóc là hai anh em ruột mà tánh tình khác nhau. Thọ là bực hiền đức thương công tử Cấp như anh ruột, còn Sóc thì độc ác nham hiểm đã ghét công tử Cấp lại còn quyết giành ngôi của Thọ sau nầy. Sóc định tìm mưu hại Cấp Tử và lần sẽ hại Thọ cho trọn bề an hưởng.

Nhân nhằm ngày sanh nhựt của Cấp Tử, công tử Thọ làm lễ chúc mừng, trong tiệc đó có công tử Sóc đến dự; thấy Thọ và Cấp rất thân mật, chán ghét bỏ ra về và đặt điều nói với mẹ rằng:

- Con vì anh em đến dự tiệc với Cấp Tử thế mà Cấp Tử oa loa rồi uống rượu say nói bướng rằng: “Mẹ mầy là vợ của ta vì vua Tề trước kia định gả cho ta, sau này rồi cũng về ta mày kêu ta bằng cha mới phải“.

Tuyên Khương tin theo, chờ Tuyên Vương vào cung bèn khóc lóc thuật lại và nói thêm:

- Cấp Tử nói lời lỗ mãng còn cố tình làm nhục thiếp và có ý độc sau nầy. Thiếp đã được nghe nó nói! Mẹ ta là Di Khương, vợ của ông nội ta mà cha ta lấy làm vợ, thì Tuyên Khương này là vợ của ta sau này ta lấy lại còn lấy cả ngôi nữa.

Tuyên Vương nghe nói giận đỏ cả mặt kêu công tử Thọ vào hỏi.

Công tử Thọ nói:

- Thưa thân phụ trong bữa tiệc có con ở đến mãn, Cấp Tử vẫn vui vẻ không khi nào nói việc đó, vả lại con biết Cấp Tử là người chí hiếu không bao giờ lỗ mãng.

Tuyên Vương không nói gì được nhưng lại đòi Di Khương đến, đem nhiều lời dọa nạt mắng nhiếc thậm tệ. Di Khương đau lòng không chịu nổi liền về cung thắt cổ mà chết.

Cấp Tử khóc xỉu, nhưng chỉ thầm lặng.

Giết được Di Khương rồi, công tử Sóc thêm lo sợ ngày ngày hối thúc mẹ tìm cách giết cho được Cấp Tử.

Tuyên Khương khóc nói với Tuyên Vương rằng:

- Thế nào Cấp Tử cũng vì mẹ mà báo thù, nếu chúa công thương mẹ con thiếp mà không giết Cấp Tử, đó chỉ là hại mẹ con thiếp mà thôi, không thế nào mẹ con thiếp ở đây được, xin chúa công cho mẹ con thiếp về Tề sớm hay hơn.

Tuyên Vương liền hứa sẽ giết Cấp Tử nhưng phải tìm cách cho ổn thỏa tránh tiếng.

Nhân khi Tề Hy Công sang mượn quân, Tuyên Vương liền sai Cấp Tử cầm cờ tiết trắng sang xứ Tề rồi cho Sóc hay sai người chận đường mà giết đi.

Công tử Sóc rất mừng bèn họp côn đồ mà dặn rằng:

- Các ngươi hãy đến trước phục sẳn chỗ đường giáp ranh thủy bộ, hễ thấy ai cầm cờ tiết trắng đến đó thì cứ ùa ra giết lấy đầu bỏ vô thùng đem về phục lịnh được trọng thưởng.

Tuyên Khương hay được việc đó mừng rỡ lộ ra mặt, công tử Thọ thấy sanh nghi liền dọ hỏi, Tuyên Khương ngỡ Thọ đã biết nên đem việc đó nói hết.

Công tử Thọ thất kinh nhưng giả làm vui, biết cha mẹ và em đã quyết không sao can được bèn đến chổ công tử Cấp nói rõ việc đó.

Nghe rồi công tử Cấp ngồi thừ ra không nói gì hết.

Công tử Thọ khuyên:

- Đường đây đi qua xứ Tề phải ngang qua Sằn Giả giáp tuyến đường sông lên đường bộ, nơi đó nguy hiểm tánh mạng. Thế tình như vậy, giờ đây anh nên trốn sang nước khác cho thoát chết rồi sau sẽ xoay trở.

Cấp Tử không chịu nói:

- Nếu phụ vương có ý giết con thì ta còn sống cũng chẳng ích gì. Nếu ta sống đến ngày nào đó ta không tranh thì cũng có người lấy danh nghĩa ta mà tranh đánh lại cha ta, giòng họ ta phải quấy gì cũng lâm vào cảnh nồi da xáo thịt, ta chết hay hơn vậy.

Nói xong Cấp Tử đi lãnh cờ tiết rồi từ biệt công tử Thọ xuống thuyền mà đi.

Công tử Thọ can không được đành đứng nhìn theo và nghĩ thầm:

- Anh ta là người hiếu thảo, lại thêm trọng tình huynh đệ, nếu anh ta chết lòng ta nào yên được. Anh ta chết như vậy không thức tỉnh được cha mẹ ta, bây giờ ta phải chết thế anh ta may ra cha mẹ còn thức tỉnh mà đem lại sự yên ổn trong gia đình, nhân dân khỏi điêu linh đồ thán, thế mới hay hơn.

Nghĩ thế rồi hối hả chọn một con thuyền nhỏ có thế đi nhanh, chọn hai tên tuỳ tùng đủ sức khỏe để chèo rượt theo cho kịp thuyền Cấp Tử dự tiệc chia tay.

Hai tên tùy tùng đâu biết việc gì bị giục thúc ráng sức chèo mồ hôi ra ướt cả mình.

Thuyền vừa theo kịp công tử Thọ bảo hai thuyền cặp lại rồi mời công tử Cấp qua thuyền mình.

Cấp Tử hỏi:

- Em theo anh để làm gì?

Công tử Thọ nói:

- Ngày chia ly mà anh vội vã ra đi em chưa được tâm tình cùng anh, nên em cố theo và đem rượu thịt, dâng anh chén rượu tiển hành để tỏ lòng thương mến.

Nói xong rót đầy ly rượu tay bưng chưa kịp trao cho Cấp Tử thì nước mắt rớt vào ly rượu.

Công tử Thọ khóc nói:

- Em vô lễ làm nước mắt rơi vào chén rượu.

Chưa kịp hết lời Cấp Tử liền với bưng chén rượu có nước mắt uống liền và nói:

- Anh mong đặng uống chén rượu có nước mắt của em để giữ nỗi thâm tình của em sống mãi trong lòng anh.

Hai anh em rót rượu trao qua trao lại, vừa uống vừa khóc, khóc và uống nước mắt lẫn nhau, càng uống càng nồng nàn tình nghĩa.

Nhưng công tử Thọ giữ thế không cho say và cố ép cho Cấp Tử uống say vùi đến ngã ra bất tỉnh.

Công tử Thọ ôm anh mà khóc, rồi nói với bọn thủ hạ rằng:

- Lệnh vua sai đi rất gấp mà anh ta lỡ say, sợ trễ ta phải đi thế mới được.

Nói rồi liền nhổ cây cờ trắng cặm qua ghe mình, rồi viết thư giao lại cho tuỳ tùng dặn chờ Cấp Tử tỉnh rượu hãy trao lại.

Xong rồi đốc hai tên chèo ghe mình thẳng đến Sằn Giả. Thuyền vừa đến ghé vào giáp tuyến đường bộ, bọn côn đồ thấy cờ tiết trắng chạy ù ra. Công tử Thọ nói:

- Ta là Cấp Tử phụng mệnh chúa công sang sứ nước Tống sao bọn ngươi dám ngăn cản?

Bọn côn đồ đắc ý nói:

- Chính chúng ta đến đây để lấy đầu Cấp Tử vậy.

Nói rồi ùa vào chém lấy đầu công tử Thọ đoạt lấy cờ tiết cắm xuống ghe chèo về. Bọn gia nhân của công tử Thọ kinh sợ chạy mất hết.

Tỉnh rượu mở mắt ra, Cấp Tử không thấy em mình lại nhận được bức thơ, lòng rất kinh sợ, mở thơ ra xem có vài dòng chữ:

- “Em chết thay anh, anh hãy qua nước khác lánh nạn“.

Cấp Tử khóc ồ lên, bảo tùy tùng:

- Chúng bay hãy chèo thuyền mau kẻo bọn côn đồ giết em ta chết mất.

Chủ ra lịnh bọn tùy tùng ráng sức chèo, dưới trời đêm trăng sáng thuyền vượt sóng phăng phăng. Cấp Tử sốt lòng thúc liên hồi, bọn tùy tùng sợ điếng lên chèo theo trối chết, thuyền phóng nhanh như gió. Bỗng thấy bóng thuyền có cờ tiết, Cấp Tử hét to lên:

- Thật may mắn cho em ta còn sống!

Nhưng kẻ tùy tùng nhìn kỹ chiếc thuyền kia ngược chiều trở lại liền nói cho Cấp Tử biết.

Cấp Tử ngơ ngác khi thuyền đến gần, thấy bọn côn đồ gươm giáo cầm tay còn đẫm máu.

Cấp Tử hét to:

- Ôi thôi! Còn gì em ta đã chết!

Bọn côn đồ ngơ ngẩn, Cấp Tử nói tiếp :

- Ta đây mới là Cấp Tử, vì ta có tội nên cha ta mới sai bọn ngươi giết ta, chớ em ta nào có tội tình gì?

Nghe vậy bọn côn đồ biết mình giết lầm lấy làm sợ hãi bèn bàn nhỏ với nhau:

- Tình thế nầy thì phải giết luôn Cấp Tử lấy hai đầu bỏ chung về chuộc tội.

Nói xong chúng áp qua thuyền chặt đầu Cấp Tử rồi chèo thuyền về, bỏ mặc bọn tùy tùng đi đâu thì đi.

Về đến, bọn côn đồ đem hai cái đầu và lá cờ dâng cho công tử Sóc, lòng vẫn lo sợ vì giết lầm. Biết rõ, chẳng những công tử Sóc không quở phạt mà còn trọng thưởng nhiều lụa là vàng bạc rất hậu, rồi vào cung cho mẹ hay tự sự như vậy.

Tuyên Khuyên nửa mừng nửa buồn, mừng vì giết được Cấp Tử, buồn vì nỗi con mình bị chết.

Những nhà chép sách có làm bài thơ:

“Hai chiếc đầu rơi một mối tình

Hồn oan ôm hận khóc xuân xanh

Lòng cha ví có không thương xót

Thà chết cho toàn nghĩa đệ huynh“.

Luận

Làm cha đã không tròn bổn phận lại còn coi con như là một con vật hy sinh, tàn ác như vậy là do động cơ sắc dục thúc đẩy mà ra. Vệ Tuyên Vương khi chưa có nàng Tuyên Vương thì vẫn trọn tình thương, và vẫn lo lập gia đình cho, nhưng khi nghe nói sắc đẹp rồi thì không còn nghĩ vì tình cha con nữa.

Ta không thể dư giờ để chửi bới thói xấu ấy mà ta chỉ nên thấy chổ yếu sắc đẹp nó làm cho nhiều người mất cả lương tri, mà ta nên tự tỉnh lập chí cho ra con người với đời. Nếu tự mình làm chủ được không bị sắc đẹp sai khiến thì như Vệ Tuyên Vương cứ giữ lấy tự chủ mà xử sự công bình cho vợ con, thì cũng nắm được cán cân công bình, và còn giữ được hạnh phúc cho gia đình, quốc gia nhiều hơn người khác được.

Vệ Tuyên Vương làm cha có hai đứa con qúi mà không biết dùng, để nghe lời con đàn bà ác độc, giết hại hết hai đứa con hiếu thảo, còn lại một đứa con tàn bạo sau này ngồi trên đầu thiên hạ mà tác oai tác quái.

Thật chỉ có một việc là không làm tròn bổn phận làm cha mà gây khổ cho cả nhà hư cả nước thật không tưởng tượng được.

LY HỒN

Đời Đường, người Trương Dật có người con gái tên Trương Thiếu Nương, thưở còn bé cha đã hứa gả cho Vương Trụ. Sau khi Thiếu Nương lớn lên, Trương Dật lại cải hôn định gả cho nơi khác, Thiếu Nương buồn rầu sanh bệnh trầm trọng. Vương Trụ buồn rầu bỏ quê về Trường An để học hành, trên đường đi bằng thuyền Vương Trụ vẫn buồn thương nhớ người hôn thê, một hôm thuyền ghé tạm vào bờ bổng gặp Thiếu Nương tìm đến, hai người mừng rỡ dắt nhau về Trường An chung sống. Sau ba năm đặng hai con khi đó hai vợ chồng dắt nhau về thăm cha mẹ và để tạ tội với Trương Dật.

Trương Dật xem thấy thất kinh và ngạc nhiên vì Thiếu Nương bịnh nặng ba năm vẫn còn nằm tại nhà, lẽ nào Thiếu Nương nào theo Vương Trụ sanh đặng hai con. Chừng gọi nàng con ra hai xác lại hoàn một.(1)

Chú thích : (1)Rút trong Danh nhân từ điển.

Luận

Tệ tục làm sui gia chọn môn đăng hộ đối, làm cha mẹ giành trọn quyền, thường nói rằng: “Áo mặc sao qua khỏi đầu“, bổn phận làm con hễ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó không được cãi. Thật tai hại lớn vì nơi mà con không hợp ý đồng tâm, rồi bắt buộc cùng nhau thành vợ chồng, tránh sao sau này khỏi xảy ra cuộc chia ly tan vỡ, hoặc ôm hận suốt đời.

Làm cha nên dạy con, cân nhắc lợi hại cho con biết còn việc trăm năm hệ trọng của con có ảnh hưởng cho cả gia đình đến quốc gia nữa, nên chia quyền cho con được chọn lựa, mới đem lại hạnh phúc. Chia chúc quyền cho con là đem lại cán cân quân bình hiển nhiên là lên bậc hiền nhân.

Tạo hạnh phúc cho con là tạo điều kiện an vui cho quốc gia xã hội vậy, vì: “Tiên trị kỳ gia hậu trị kỳ quốc“ thứ ổn định xã hội.

Trương Dật đã lầm to, may mà con không chết lại được đoàn viên với vị hôn phu, mà trở về làm cho Trương Dật sáng mắt thêm ra. Mà đây cũng là một bàn tay cầm bút điểm nhãn cho người mù vậy.

THẠCH THÁC GIẾT CON

Vệ Trang Công lấy cung nữ sanh công tử Chu Hu. Chu Hu tánh hung bạo nhưng Vệ Trang Công rất quí mến. Do đó Chu Hu mỗi ngày một lộng hành, bất chấp pháp luật.

Quan đại phu là Thạch Thác khuyên Vệ Trang Công nên tìm cách ngăn chặn Chu Hu để có hại sau này. Nhưng Vệ Trang Công bỏ qua. Thạch Thác cũng có đứa con tên là Thạch Hậu cũng a tùng theo Chu Hu hoang chơi.

Thạch Thác đã nhiều lần đánh mắng mà không được Thạch Hậu đã không nghe mà còn bỏ nhà vào thành ở luôn với Chu Hu. Thạch Thác đành bó tay trước đứa con ngỗ nghịch.

Sau Vệ Trang Công mất, Vệ Hoàn Công lên nối ngôi nhu nhược không làm gì nên việc.

Bây giờ Chu Hu không còn kiêng nể ai nữa, bèn bàn với Thạch Hậu mưu toan chiếm ngôi.

Nhân lúc Vệ Hoàn Công đi điếu tang Vua Bình Vương nhà Châu, Chu Hu hội ý kiến với Thạch Hậu.

Thạch Hậu nói:

- Đó là cơ hội tốt, ngày mai công tử bày tiệc rượu tiễn hành đưa chúa công đi, tôi sẽ phục quân sẳn ở phòng tiệc. Lúc ăn uống công tử thừa cơ rút gươm giết chúa công đi, thì lo gì không đoạt được ngôi.

Chu Hu nghe theo làm y như vậy đâm chết Vệ Hoàn Công. Lúc đó Thạch Hậu dẫn quân bảo vệ Chu Hu lên ngôi.

Chu Hu lên ngôi ba ngày, ngoài thành dân chúng không phục náo loạn. Chu Hu liền kêu Thạch Hậu nói:

- Ta chưa có đức thiên hạ không sợ oai quyền nay phải làm thế nào cho lòng người nể phục?

Thạch Hậu nói:

- Muốn cho dân chúng phục phải bắt những người dân chúng phục ra làm việc cho mình thì dân chúng sẽ phục theo. Cha tôi trước kia làm quan ai cũng phục, nay chúa công hãy triệu cha tôi vào triều phụ chánh thì ai cũng phục, mà giữ vững được ngôi vị

Chu Hu nghe theo lời, sai người đem một cặp bạch bích và năm trăm hộc gạo trắng đến cầu Thạch Thác vào triều để bàn việc.

Thạch Thác giả đau từ chối không nhận. Chu Hu nói với Thạch Hậu:

- Cha của khanh không chịu vào triều, ý của ta muốn đến đó hỏi kế có nên không?

Thạch Hậu nói:

- Chúa công đến đó không ắt đặng giúp kế, để tôi lấy lệnh vua mà triệu cha tôi thì hay.

Nói rồi Thạch Hậu về nhà tỏ lời kính mến của Chu Hu và có ý rước cha vào triều. Thạch Thác hỏi:

- Tân quân muốn cha vào triều để làm gì?

Thạch Hậu thưa:

- Vì tân quân mới lên ngôi lòng dân không phục sợ ngôi báu không an nên muốn được sự chỉ giáo của phụ thân.

Thạch Thác nói:

- Các nước chư hầu, nước nào lên ngôi cũng phải có lệnh của vua nhà Châu mới an lòng dân được, nay tân quân muốn như vậy phải vào chầu vua nhà Châu, khi được chấp thuận ban áo mão thì trong nước sẽ an.

Thạch Hậu nói:

- Lời thân phụ dạy rất phải, nhưng tân quân chưa được lệnh mà vào chầu lòng nghi sợ. Vậy phải có người đến tâu trước mới xong.

Thạch Thác nói:

- Nếu cần có người tâu trước thì có Trần Hầu là người đặng nhà Châu trọng dụng. Vừa rồi Trần đã đem quân giúp nước ta giúp ta mà đánh Trịnh nên Trần với ta rất thân mật. Vậy con cùng tân quân cứ đích thân qua Trần cầu người vào chầu nhà Châu mà tâu việc này trước cho thì xong.

Thạch Hậu được lời rất mừng về tâu lại với Chu Hu. Chu Hu mừng lắm liền sắm sửa lễ vật cùng Thạch Hậu sang Trần. Khi đến nước Trần được lịnh cho rước vào, vừa mới vào đến triều chưa kịp nói lời nào hết, bị kẻ tả hữu xông vào bắt trói quách rồi xô xuống đất.

Trần Hầu liền đưa bức mật thư của Thạch Thác, dặn nhờ bắt giùm hai tên phản tặc cho Chu Hu và Thạch Hậu thấy. Hai người chỉ kêu trời không biết nói gì được nữa.

Trần Hầu sai đem Thạch Hậu nhốt ở Trần Đô, còn Chu Hu nhốt nơi Bộc Ấp cho hai người không còn liên lạc nhau, rồi sai người báo tin cho Thạch Thác hay.

Thạch Thác từ khi từ quan về nhà luôn không hề đi đâu nữa, nay hay tin Trần Hầu đã bắt giùm hai tên phản tặc, liền vội vã vào triều hội bá quan nghị bàn.

Lúc đó bá quan đủ mặt, Thạch Thác liền lấy thư của Trần Hầu đọc cho mọi người nghe.

Nghe xong các quan đều nói: đây là việc lớn của nước nhà, chúng tôi mong cậy vào ý kiến của người cả.

Thạch Thác nói:

- Hai đứa phản loạn này không thể dung tha tội đáng chém đầu, vậy ai có thể qua Trần hành quyết việc này?

Quan Thái tể Xú bước ra xin lãnh lịnh đi các quan triều đồng thanh xin giao cho Thái tể, nhưng xin chém đầu Chu Hu còn Thạch Hậu là kẻ a tòng xin châm chế.

Thạch Thác nổi giận hét to lên:

- Thạch Hậu con ở gia đình ngỗ nghịch tôi làm cha bất lực, còn đối với nước nó là tên phản loạn. Chính vì nó mà Chu Hu phản nghịch nay mà tha Thạch Hậu là tôi có tình riêng nhỏ mà bỏ việc lớn sao? Tôi phải thân hành đến đó để chém đứa con ngỗ nghịch loạn thần ấy mà chuộc tội cho gia đình họ Thạch.

Nhụ Dương Kiên nói:

- Xin lão quan chớ giận, để tôi đi thay cho. Thạch Thác liền sai Thái tể sang Bộc Ấp chém Chu Hu, còn Nhụ Dương Kiên đến Trần Đô chém đầu Thạch Hầu.

Lại sai đem xe giá qua nước Hình rước công tử Tấn về lên ngôi.

Thái tể và Nhụ Dương Kiên qua đến ra mắt Trần Hầu rồi Thái tể thẳng đến Bộc Ấp, Chu Hu xem thấy mừng rỡ nói:

- Ngươi đến để cứu ta.

Thái tể cười nói:

- Vâng, ta đến để cứu ngươi bỏ xác thân đê hèn xấu hổ đó đi!

Chu Hu lớn tiếng:

- Ngươi là bề tôi của ta sao dám phạm đến ta?

Thái tể nói:

- Nước Vệ đã có người làm tôi mà giết vua, nay ta làm theo.

Nói rồi vung gươm chém đầu.

Còn Nhụ Dương Kiên đến Trần Đô lôi Thạch Hậu ra, Thạch Hậu nói:

- Ngươi muốn chém ta phải có lịnh của cha ta.

Nhụ Dương Kiên nói:

- Vâng! Ta không dám cãi ngươi, ta lãnh lịnh của cha ngươi đến chém ngươi đây.

Nói xong chém liền.

Luận

Thạch Thác đã tròn bổn phận làm cha trong sự nuôi con, không làm tròn bổn phận dạy con, nhưng cũng dùng hai pháp trị đầy đủ. Trị được là trị, trị không được phải giết để cứu nước không vì việc nhỏ mà bỏ việc lớn được.

Đức Phật đã dạy đệ tử:

- “Ví như người tập ngựa ban đầu lấy nhu mà tập vỗ vềø vuốt ve cho nó nghe theo để kéo xe; như nó không nghe phải dùng cương mà trị, dùng roi đánh đập cho nó sợ mà nghe theo“.

Có vị Tỳ Kheo hỏi:

- Nếu như dùng nhu và cương mà nó không nghe theo thì sao?

Người nuôi ngựa kia dùng nhu, cương mà trị không được thì họ sẽ giết đi để bán thịt.

Phật lấy luật mà dạy Tỳ Kheo cũng thế dùng nhu, cương mà trị không được thì cũng giết đi.

Tỳ Kheo nói : Phật là từ bi mà giết người sao?

Phật dạy:

- Ta không giết nhưng người ấy dạy không được, thì người ấy không còn sống trong Phật pháp nữa, họ còn sống mà tâm hồn đã chết rồi vậy.

Còn Thạch Thác đã làm tròn bổn phận làm cha, là nuôi con và dạy, nay dạy không được thì cũng không giết con, nhưng giết tên phản thần để cứu nước vậy.

Đây là theo luật quân bình phải xem thế nào là trọng thế nào là khinh, lẽ tất nhiên phải vì quốc dân mà xử không thiên vị được.

Việc công trước là vậy.

Nước Tề ỷ mạnh đem quân đánh Lỗ khi đến ranh giới hai nước, trông thấy người đàn bà tay bồng một đứa bé tay dắt một đứa bé, thấy quân Tề đến liền bỏ đứa bé trên tay xuống mà bồng đứa bé kia chạy trốn, đứa bé bị bỏ lại la khóc mà cũng không ngoảnh lại.

Tướng Tề thấy lạ truyền quân bắt cho được người đàn bà đến hỏi. Người đàn bà ấy đáp:

- Đứa bé tôi bồng đi là cháu còn đứa bé tôi bỏ lại là con, lo cho con là việc tư, lo cho cháu là việc công, nên tôi phải hy sinh việc tư mà lo cho việc công vậy.

Tướng Tề nghe nói liền lấy vàng bạc cho người đàn bà rồi cho đi, dừng binh lại cho người về tâu với vua Tề rằng: Nước Lỗ chưa đánh được vì một người đàn bà mà biết lo việc công như vậy thì cả nước quan dân như vậy ta làm sao đánh được.

Vua Tề cho là phải, truyền lịnh rút quân.

Sau vua Lỗ hay được việc đó, liền sai người đem thưởng cho người đàn bà hai trăm tấm lụa và phong cho hai chữ: “Nghĩa cô“(1).

Thạch Thác giết con không đau khổ bằng người đàn bà kia bỏ đứa con thương mến vô tội thật lấy làm cảm động, nhưng vì việc công mà hy sinh. Còn Thạch Thác giết con là nên giết cho nó không còn gây thêm tội ác nữa, tức nhiên vớt vát cho phần nào về tội lỗi, mà cứu được nước khỏi lầm than uất hận.

Thạch Thác giết con là làm tròn bổn phận làm cha đúng bậc hiền nhân vậy.

PHẬT TỬ MINH CƯƠNG

Năm 1962, tôi(1)đi làm Phật sự tại chùa Hương Sa Đéc, chùa nằm tại phía Tây thành phố. Hòa thượng trụ trì có kể cho tôi nghe, một Phật tử pháp danh Minh Cương đã làm tròn bổn phận làm cha:

Minh Cương vợ chết sớm để lại ba con một gái lớn và hai trai, nhà nghèo Minh Cương làm nghề thợ mộc nuôi con; mặc dầu mới tuổi ba mươi còn nhiều nơi quyến rũ về tình duyên, nhưng vì sợ cảnh mẹ gà con vịt, và chấp nhận nối duyên thừa thì cha con không còn trọn vẹn.

Nhờ vậy mà cha con cùng sống trong cảnh gia đình được bù trả lại là “Phụ từ tử hiếu“. Con gái của Minh Cương nhờ cha nuôi cho ăn học sau làm mụ trong nhà bảo sanh được bao nhiêu lương đều đem về cho cha. Đã nhiều nơi dạm hỏi mà cô chưa chịu.

Cô nói:

- Mẹ tôi chết sớm, cha tôi phải cực khổ nuôi chị em tôi nay vừa làm nên, hai em còn ăn học, như tôi lấy chồng làm sao phụ với cha lo cho em tôi. Vả lại cha tôi đã cực khổ với chị em tôi nhiều rồi, nay tuổi đã lớn sức yếu, tôi còn bổn phận lo cho em chưa lấy chồng được.

Mãi đến khi hai em đỗ đạt ra dạy học có lương bổng rồi cô ấy mới chịu lấy chồng.

Làm tròn bổn phận làm cha mà gia đình đầy đủ hạnh phúc an vui, hạnh phúc này ảnh hưởng cho xã hội và quốc gia rất lớn vậy.

Bổn phận làm cha phải nuôi con, đó là quyết định dù nghèo nàn cũng phải ra sức làm để nuôi con, cho con ăn học đừng để dốt nát; nuôi con mà để cho con dốt nát, đó là nuôi kẻ gian tà không nữa thì cũng một đứa sau nầy hư cả đời con cháu tương lai đen tối.

Bỏ cho đàn con dại, dốt nát sống nheo nhốt trên đời, không khác nào lùa đàn cừu non vào rừng hoang làm mồi cho thú dữ.

Chẳng những nuôi con cho con ăn học mà còn phải dành dụm chút ít để lo đôi lứa cho con, cũng không được giành trọn quyền trong việc hôn nhân của con mà phải cho con chút quyền chọn lựa, nhưng không phải bỏ mặc, mà người cha phải cân nhắc chỉ dạy cho con, để cho con suy xét và chọn lựa cho vừa ý.

Vì đó là trước tiên của con người, hôn nhân tốt đẹp rồi mới đến quốc gia xã hội

Nếu như của cải sự nghiệp nhiều phải tương phân cho phân minh tránh sự tranh giành về sau. Điều quan trọng là cha phải gương mẫu cho con, nên lấy ân đức để lại cho con, đừng quá khổ thân mà để của cải cho con, đó chỉ là chuốc lấy sự tranh đoạt về sau.

Theo Nho đã dạy:

“Tích kim lưu ủ tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ.

Tích thơ lưu ủ tử tôn, tử tôn vị tất năng đọc.

Tích âm đức lưu ủ tử tôn trường cửu chi kế“.

Nghĩa là:

Chứa vàng để cho con cháu, con cháu chưa ắt giữ đặng.

Chứa sách để cho con cháu, con cháu chưa ắt đã đọc.

Chỉ có chứa âm đức cho con cháu là kế lâu dài.

Loài chim kể cả loài sanh vật,sanh con sanh trứng ấp ủ nuôi nấng, đến khi con biết chạy, biết bay mà vẫn theo mớm mồi cho con.

Làm cha theo luật xử thế không phải khắt khe hay là ai bắt buộc, mà đó là chỉ theo đà cán cân quân bình của luật thiên nhiên phải làm tròn để rồi hưởng quyền làm cha. Và nên bậc hiền nhân.

Khuyên chớ xem thường bổn phận cha

Xem kìa mặt nhựt chuyển không qua

Quét tan sương tuyết nên quang lộ

Sưởi ấm thôn quê nổi tiếng nhà

Hổ phụ tương sanh tài hổ tử

Long Tông truyền nối bổn long nha

Làm cha đâu dễ ngồi an hưởng

Trọng trách nặng nề cả quốc gia.

4. BỔN PHẬN CON ĐỐI VỚI CHA

Ta! Mỗi người mở mắt chào đời, không cha nhờ ai cơm ăn áo mặc, không mẹ ai săn sóc chăm nom. Không nương gá nhờ cha mẹ để sanh làm người tu tiến, thì suốt ngàn đời chỉ làm ma trơi quỷ cỏ, từ xưa đến nay không bao giờ hồn ma mà tu nên đạo bao giờ. Chỉ có con người bằng xác thịt để tu học trên đường đời này vậy.

Chúng ta có thể chia ra hai thời gian, thời thơ ấu cha mẹ nuôi ta, ta hưởng ân huệ làm con; thời lớn khôn ta phải lãnh lấy bổn phận làm con.

Có lắm người suốt đời hưởng ân huệ của cha để lại, không có một chút gì để đền bù lại cả. Từ khi mở mắt chào đời đã sống trong nhung lụa, cao lương mỹ vị sung sướng đầy đủ, lớn lên sẳn tiền của mà ăn chơi suốt đời không hết. Có công gì đâu mà gọi là hiếu, hay hoàn cảnh nhưng vậy không làm gì hơn, chỉ có nhà nghèo mới biết con thảo hay sao?

Không! Hiền nhân không nhận điều đó, nhà nghèo mới hay con thảo là về vật chất, đó chỉ là mới được nữa phần thôi, hay đó chỉ là phần phụ; mà còn hiếu thảo về phần tinh thần đạo đức nữa, lấy lẻ phải làm người hiền nhân quân tử đối với quốc dân cho vui lòng cha mẹ hiếu thảo đó mới là theo luật quân bình cho xã hội, tuy hiếu thảo mà không hạn cuộc cá nhân gia đình.

Ai bảo là đặng hiếu mất trung, hay đặng trung mất hiếu mà ở cảnh nào ta cũng tùy nghi tròn trung tròn hiếu. Hay hơn nữa là ta hãy giải quyết mau rằng: Trong trung có hiếu, trong hiếu có trung.

HIẾU TỬ VÀ TRUNG THẦN

Vương Dương làm quan Thứ sử, lúc đi kinh lược ở Hàng Châu khi sắp qua con đường nguy hiểm cheo leo bèn than rằng:

- Thân ta là thân của cha mẹ ta, ta nỡ nào xông pha vào chỗ nguy hiểm đến tính mạng này!

Bèn trở về nhà rồi cáo bệnh từ quan.

Vương Tôn đến thay Vương Dương, khi đi kinh lược đến con đường đó hỏi nha lại rằng:

- Có phải con đường này mà quan Thứ sử trước không dám đi không?

Nha lại thưa: Phải.

Vương Tôn quát lên bảo cứ đi mà nói rằng:

- Vương Dương trước là hiếu tử, còn Vương Tôn này là trung thần vậy.

Luận

Tại sao phân tách ra trung thần và hiếu tử riêng, và nếu phân tách riêng thì không phải là luật quân bình xử thế của hiền nhân.

Từ xưa đến nay không biết bao nhiêu người, hể đặng trung là tròn hiếu, và vì hiếu trọn trung; ngược lại mất trung là mất hiếu, mất hiếu là mất trung.

Như trường hợp trên là sao?

Đó là chủ trương cá nhân của hai người đó thôi, ta thử bàn:

Con đường của hai vị quan đó đi, một trở về một đi là con đường nguy hiểm gì? Hầm hố hay giặc cướp? Như hầm hố thì sao ta không bắt chước Ngu Công? Ngu Công san bằng cả hai ngọn núi lớn là việc khó lâu dài, còn việc san bằng con đường mà dân cả xứ Hàng Châu ra làm, thì há đi chẳng an toàn mà đặng tròn trung tròn hiếu sao?

Còn như đường có giặc cướp thì không thể họp quân binh cả tỉnh để tảo trừ được sao?

Có làm được như vậy ta vẫn giữ được cả trung hiếu hơn nữa nếu ta làm được trung là sự hiển vinh cho cha mẹ và hiếu là phải làm việc trung ấy mới nên hiền nhân.

Bổn phận làm con phải nuôi dưỡng cha mẹ, sớm thăm tối viếng, phải làm vui lòng cha mẹ, phải làm việc phải với quốc dân xã hội để tiếng cho cha mẹ. Cha mẹ có làm điều gì sái quấy làm con phải can ngăn, can trực tiếp không được thì phải can gián tiếp, nhờ người can cho cha mẹ bỏ tà về chánh.

Theo Nho dạy: Con chí hiếu can không đặng phải nghe theo cha.

“ Can bất đắc nhi tùng chi “.

Cứ lấy lý trí mà xét làm như vậy không ổn và như vậy chỉ xử sự gia đình không phải xử thế. Nếu can không đặng để mình cha làm ác hại còn ít, nếu a tùng làm theo cha là ác lớn tài trời. Hơn nữa nếu để cha làm ác thì quả ác sẽ đến cha chịu khổ, can được cha là đỡ khổ cho cha, không a tùng làm ác theo cha để cho cha nhẹ khổ. Chi bằng can không đặng thì tránh đi tìm phương cứu vãng hoặc chuộc tội còn hơn.

ĐIỀN VĂN CAN CHA

Điền Văn là con của Điền Anh, ít tuổi mà rất khôn ngoan, thấy cha làm quan hay vụ lợi riêng, một hôm nhàn rỗi hỏi cha rằng:

- Con của con cha gọi là gì?

- Gọi là cháu.

- Cháu của đứa cháu gọi là gì?

- Gọi là chít.

- Con của chít gọi là gì?

Điền Anh nói:

- Ai còn biết gọi là gì cho được?

Điền Văn nói:

- Cha làm tướng nước Tề trải qua đến nay ba đời vua, giàu có hàng ức vạn mà môn hạ không có người nào hiền tài cả. Con nghe nhà quan tướng võ tất có quan tướng võ giỏi. Nay cha mặc áo gấm vóc mà người giỏi trong nước vẫn đói khát. Cha quên việc công ích hiện đời của dân, của nước chỉ chăm lo chứa của cải để dành sau nầy cho kẻ mà không biết gọi nó là gì, không biết nó thiện hay ác, con trộm nghĩ như thế thật quái lạ lắm …

Điền Anh cho là phải.

Luận

Can cha mà nói trúng chỗ, đôi khi cha cũng nghe theo, cha làm ác mà con không can để cha gây tội lỗi là bất hiếu và a tùng theo là đại bất hiếu sao nên người hiền được.

TĂNG SÂM

Tăng Sâm là con chí hiếu, một hôm ra đồng làm ruộng với cha, gặp khi người cha giận lấy hèo đánh Tăng Sâm chịu đòn đến chết giấc.

Lát sau tỉnh dậy sợ cha buồn Sâm lại cào chân cha và hát xem như không có gì.

Nhưng sau Khổng Tử nghe được quở rằng:

- Làm như vậy là bất hiếu, khi cha nóng giận đánh đập thì phải chạy đi, nếu để lỡ bị đánh chết làm cho cha mang tiếng bất nhân.

LÝ KÝ

Thời Việt Vương có nàng con gái tên Lý Ký bán mình chuộc tội cho cha. Theo tục lệ trong làng cứ mỗi năm phải nộp cho Thần Rắn một người, thì Thần không làm tai hại. Lý Ký liền bán mình cho làng đem nạp cho Thần, để lấy tiền chuộc tội cho cha. Nhưng sau Lý Ký mưu giết được rắn vua liền nạp dụng nàng vào làm Hậu Phi. Tục gọi nàng Lý Ký là ả Lý trong truyện Kiều có câu:

“Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh

Lại thua ả Lý bán mình chuộc cha“.

Luận

Bổn phận làm con chí hiếu là vậy, những sự hy sinh về hiếu thảo thường được quả báo tốt hiện tại như Lý Ký từ một người dân hy sinh cứu cha liền được quả báo tốt hiển vinh. Đọc đoạn nầy ta thấy rõ trong câu hiếu có trung.

Làm con dù ngèo khổ cũng phải làm thuê làm mướn để lấy tiền về nuôi cha mẹ. Cho đến khi cha mẹ khuất bóng Tử Lộ vẫn còn than tiếc:

“Mộc dục tịnh nhi phong bất tức

Tử dục dưỡng nhi phụ bất tồn“.

Nghĩa là:

Cây muốn đứng yên mà gió không ngừng

Con muốn nuôi dưỡng mà cha mẹ không còn.

Có người vì nhà nghèo túng thiếu nhưng lòng hiếu thảo phải tham lam trộm cắp để nuôi cha mẹ, nhưng làm như vậy là bất hiếu vì làm mất thanh danh của cha mẹ.

Cho nên dầu nghèo khổ thế nào, làm con phải làm thuê làm mướn để nuôi cha mẹ nếu phải tạm quyền để cha mẹ no ấm mà không hại đến người khác thì nên quyền biến không nên câu nệ, như Giới Tử Thôi :

GIỚI TỬ THÔI

Giới Tử Thôi phò công tử Trùng Nhĩ lánh nạn, nhiều nỗi gian lao khổ sở, khi đói quá tìm không đâu ra món ăn, Tử Thôi tự lóc thịt bắp vế nấu cho Trùng Nhĩ ăn khỏi chết đói. Đến khi về nước, Trùng Nhĩ lên ngôi lấy hiệu là Tấn Văn Công.

Tấn Văn Công lên ngôi rồi phong quan cho tất cả những người có công phò tá mình nhưng lại quên Tử Thôi không nói tới. Mẹ của Tử Thôi thấy lâu nay mẹ con quá cực khổ đói khát nên khuyên Tử Thôi nhắc cho Tấn Văn Công nhớ việc đó để hưởng chút bổng lộc.

Tử Thôi lại khuyên mẹ thà chịu chết chứ không nhắc. Sau Văn Công nhớ đi tìm, Tử Thôi cõng mẹ vào non Miêu Trước mà trốn. Tấn Văn Công tìm mãi mà không được liền cho nổi lửa đốt non, định cho Tử Thôi thế nào cũng vì hiếu mà cõng mẹ chạy ra. Không dè Tử Thôi với mẹ chịu chết cháy không ra.

Văn Công lấy làm hối hận thương tiếc, sai người cất miễu cắt đất phong thờ Giới Tử Thôi.

Luận

Người ta vẫn biết sự học để làm nên công nghiệp cho quốc dân, lấy tài thi thố an bang cứu nước là sự nghiệp chính và chán ghét hư danh học để lấy bằng cấp ngồi lúc lắc ăn lương. Nhưng vì lòng hiếu thảo cũng tạm làm để lấy tiền nuôi cha mẹ thay. Huống gì Giới Tử Thôi quá câu nệ đành để cho mẹ già đau khổ suốt đời. Nếu làm việc phi nhân đạo hại dân bán nước để nuôi cha mẹ điều đó thật không thể được. Còn Tử Thôi sau khi Tấn Văn Công hối lỗi tìm kiếm cho ra mặt làm quan thì cũng vẹn cả ba bề:

1) Không ai dị nghị vì Văn Công hối lỗi không phải Tử Thôi van cầu.

2) Tử Thôi ra mặt làm cho vua vui mừng.

3) Mẹ của Tử Thôi được no ấm lúc tuổi già đâu để chịu chết thảm thiết như vậy.

Tử Thôi ra mắt là tròn trung tròn hiếu; quá hờn dỗi vì lòng tự ái chịu chết là bất hiếu thiếu trung vậy.

Việc của Tử Thôi là để nói với người không có công mà mạo xưng để được địa vị, xem đó là thẹn, không phải là việc hiếu trung.

Hiếu hạnh sẽ cảm hóa được người và làm nên được danh phận, lợi ích cho xã hội, hiếu hạnh cảm động đến trời, thần khâm, qủy phục. Người có hiếu hạnh là người đáng tin dùng cho quốc dân xã hội. Ta không thể tin rằng: người bất hiếu mà làm nên được việc bao giờ. Người trí không bao giờ đem việc lớn mà giao cho người bất hiếu.

ÔNG THUẤN

Ông Thuấn họ Ngu tên Đô Quân ở đất Diên Khư, mẹ mất sớm, cha là Cổ Tẩu tánh tình hung bạo, lại cưới vợ khác có con tên là Tượng. Cha mê vợ lẽ thương con lẽ, nghe lời dèm xiểm mà ghét con ruột, dì ghẻ ghét con chồng, em khác mẹ không thương anh, bao nhiêu sự ghét trên đời nầy đều đổ dồn ông Thuấn, lại còn âm mưu giết hại nữa.

Có lần Cổ Tẩu sai Thuấn lợp lẫm lúa, Thuấn lên cao, ở dưới đất rút thang đốt lẫm, nhờ có nón lớn bọc gió Thuấn nhảy xuống an toàn.

Lần khác Cổ Tẩu sai đào giếng, khi đào xuống sâu rồi cùng Tượng là em khác mẹ với Thuấn lấp giếng. Thuấn cứ sợ trước nên đào hang núp khỏi chết và lên được.

Đất Hàm Tân có nhiều thú dữ, Cổ Tẩu sai Thuấn đến đó làm đồ gốm cho thú dữ ăn đi. Thuấn đến làm đồ gốm, hầm đồ không móp méo. Thú dữ hóa ra hiền như cừu dê.

Người ta nói:

“Hiếu chí ư địa vạn vật hóa thành“.

Nghĩa là:

Hiếu cảm điển xứ sở muôn vật đều tốt.

Đàm Lôi Trạch là nơi sóng dữ không ai dám đến, Cổ Tẩu sai Thuấn đến chài cá. Thuấn đến đó liền sóng lặng gió êm.

Người ta nói:

“Hiếu chí ư thiên phong điều võ thuận“.

Nghĩa là:

Hiếu cảm lòng trời mưa hòa gió thuận.

Sau Cổ Tẩu sai ông Thuấn cày ruộng ở Lịch Sơn, buộc ba làm ngày không xong có tội. Thuấn đến nhìn thửa ruộng mênh mông ba ngày không sao làm kịp, rồi bèn ngước mặt mà khóc. Cảm động, voi ra cày ruộng, chim xuống nhổ cỏ.

Dù sống trong gia đình tàn nhẫn như thế mà không khi nàobuồn than, Thuấn lại thường cầu nguyện cho cha mẹ ghẻ và em được bình an. Lòng chí hiếu tiếng đồn khắp thiên hạ, vua Nghiêu hay được liền rước Thuấn về và gả hết hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, lại giao chín con trai cho Thuấn dạy dỗ. Sau vua Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn.

Người ta cho rằng:

“Hiếu chí ư nhơn chúng phúc hàng trăn“.

Hiếu cảm lòng người muôn phúc đều về.

Từ xưa đến nay, chữ hiếu được đứng hàng đầu trong trăm kinh ngàn sách (Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên).

Hiếu hạnh thành đạo như Mục Kiều Liên

Hiếu hạnh làm nên nghiệp lớn như vua Thuấn

Hiếu hạnh dạy đạo, Khổng Tử là bậc thánh.

Hiếu hạnh nên danh như Tử Lộ

Hiếu hạnh rạng tiếng như Mạnh Tử.

Hạnh phúc và xây dựng cho gia đình, quốc gia xã hội chỉ có hạnh hiếu làm nên.

Hiếu là thánh đức đạo tình ba

Sáng tợ ngọc châu nổi tiếng nhà.

Trăm hạnh con người trên hiếu thảo

Bốn mùa thế giới thủ xuân hoa

Tề gia chẳng trọn đời vô dụng

Hiếu đạo không rồi thế bất hòa

Hiếu cả qủy thần đều cảm phục

Trị bình thiên hạ hiếu tề gia.

5. BỔN PHẬN MẸ ĐỐI VỚI CON

Làm cha nuôi con lo bên ngoài, còn mẹ nuôi con bên trong gần gũi không xa rời gang tấc. Làm cha dạy con khi khôn lớn, làm mẹ dạy con thuở ấu thơ. Bổn phận mẹ nuôi con rất quan trọng về vật chất thể xác, thân thể của con; nếu không cẩn thận cho con nhiều khi để bệnh tật xâm nhập đứa con còn non nớt, tai hại đứa trẻ lớn lên sẽ chịu suốt đời. Nuôi con cần cho con có một xác thân tráng kiện là điều tiên quyết cho đời đứa con, cho một đời người, vì “Một tinh thần minh mẫn trong thể xác tráng kiện“ vậy.

Khi con lên ba người mẹ bắt đầu gây cho con ăn sâu vào tâm não tư tưởng đức tánh tốt. Làm mẹ mà không cẩn thận để cho con quen miệng hổn và những tật xấu ban đầu thì sau nầy muốn sửa lại không dễ dàng được. Đứa bé mới lớn lên tâm hồn còn trong trắng.

Nho nói:

“Nhơn chi sơ tánh bổn thiện, tánh tương cận tập tương viễn, cẩu bất giáo tánh nãi thiên“.

Nghĩa là:

Con người ban sơ tánh vốn lành; do tánh gần tập quen lần xa sự lành, bỏ không dạy tánh bèn dời.

Phật dạy:

“Nhơn chi sơ tánh vô ký“.

Nghĩa là:

Người ban sơ tánh không nhứt định thiện hay ác, tánh vốn không thiện ác, do tập quen thành thiện hay ác.

Tâm hồn trẻ thơ trong trắng như tờ giấy trắng, rồi lần lần nhuộm tô màu vàng, đen, trắng, đỏ. Quan trọng thay cho sự nuôi dạy con lúc ban sơ làm mẹ không thể hời hợt được. Đa số người hầu hết cưng con lúc tuổi còn non nớt, mà làm hư cả đời người con, thật là quan trọng bổn phận làm mẹ phải chú ý.

MẠNH MẪU DẠY CON

Thuở Mạnh Tử lên năm Mạnh Mẫu nhà ở chung xóm làng làm heo. Thường thấy làm heo, Mạnh Tử cũng bắt chước lấy khúc chuối giả làm heo mổ xẻ chơi. Thấy vậy Mạnh Mẫu liền dời đi nơi khác, lại đến xóm làm đồ gốm Mạnh Tử cũng bắt chước lấy đất nặn làm nồi niêu chơi. Mạnh Mẫu nghĩ nghề nầy không phải là nghề của con ta liền dời nhà đến gần trường học. Bây giờ Mạnh Tử cũng lấy lá làm giấy, lấy cây làm viết giả đi học và lớn lên đúng tuổi vào trường học, nhưng một hôm ham chơi bỏ học về nhà. Thấy vậy Mạnh Mẫu đang dệt vải liền lấy dao cắt ngang tấm vải đứt lìa ra, rồi kêu Mạnh Tử mà mắng rằng:

- Mầy ham chơi bỏ học như tấm vải kia dệt chưa rồi bị cắt, thử còn xài vào đâu được nữa?

Hiểu được ý mẹ từ đó Mạnh Tử bắt đầu siêng học.

Mạnh Tử mà làm nên được là nhờ người mẹ khéo dạy con, giá như bỏ liều thì sau nầy Mạnh Tử không làm hàng heo thì cũng là nghề gốm mà thôi. Nho đã nói:

“Tích Mạnh Mẫu trạch lân xử

Tử bất học đoạn cơ tử“.

Nghĩa là :

Xưa Mạnh Mẫu chọn xóm ở

Con không học đoạn khung cửi.

Làm mẹ phải trút hết tình thương cho con, nhưng chẳng may chồng chết trước, người mẹ phải thay chồng dạy con dầu nặng nề cũng phải làm tròn bổn phận. Không ai thương con bằng mẹ thương con.

“Không gì ngon hơn cơm với cá

Không ai thương bằng má với con“.

Làm mẹ sau khi chồng chết lại tái giá thì luật xử thế không khắt khe gì điều đó, nếu người đó vẫn giữ được tròn bổn phận làm mẹ. Nhưng ít có hay không có bao giờ người đàn bà tái giá mà làm bổn phận làm mẹ đối với con bởi tình mẹ thương con đã bị sứt mẻ, không còn thâm sâu nữa. Người ta nói mẹ gà con vịt vì cha vịt không bao giờ nuôi con gà.

Điều quan trọng hơn cả là bổn phận mẹ dạy con gái và dạy không bằng gương mẫu cho con học theo.

Đời nay chủ trương nam nữ bình quyền, nhưng thời xưa đã có những bậc nữ anh hùng đã đuổi giặc cứu nước. Bình quyền là vậy còn phần tứ đức của người đàn bà nào ai bỏ được, điều đó bổn phận làm mẹ phải có đủ để rồi dạy con gái.

“Tại gia tùng phụ “.

Nghĩa là:

Ở tại nhà phải nghe lời cha.

“Xuất giá tùng phu“.

Nghĩa là:

Có chồng thì theo chồng.

“Phu tử tùng tử“.

Nghĩa là:

Chồng chết phải nương náu theo con.

Đó gọi là: “Tam tùng“.

Tứ đức là: công, dung, ngôn và hạnh.

Nghĩa là:

Công là: nội công của người đàn bà lo việc trong nhà.

Dung là: dung nhi cử chỉ, ăn mặc nghiêm nghị.

Ngôn là: lời nói ôn hòa dịu dàng chân thật.

Hạnh là: đức hạnh hiếu từ, trinh liệt, hiền lương.

Đó là những điều mà bổn phận làm mẹ tự mình phải làm và dạy cho con gái.

Trong gia đình người chồng, người cha có tài làm nên sự nghiệp lớn nhưng vợ con hư hèn thì chí lớn không thành đạt. Trong gia đình vợ con nghiêm nghị, trinh liệt, hiền ngoan là một điều khích lệ cho nam nhi bước lên danh phận.

Bổn phận làm mẹ quan trọng thế, há chẳng thận trọng sao? Dạy con gái cho nên để sau nầy đảm đang trong gia đình, để cho người trượng phu vững chí mà làm nên trong thiên hạ, thật là bổn phận làm mẹ nặng nề, có trách nhiệm với xã hội mà ngày nay người ta đánh giá được đưa lên hàng đầu là bà mẹ hiền Việt Nam.

Mênh mông bể cả rộng bao la

Lòng mẹ thương con trọng quá đa

Bé bổng con con con của mẹ

Lớn lao trọng trọng trọng cho nhà

Nam nhi chí cả con liệt phụ

Phụ nữ lòng hiền mẹ quốc gia

Còn thuở nên ba thời mẹ dạy

Thành nhân nhờ đó chấn thinh gia.

6. BỔN PHẬN CON ĐỐI VỚI MẸ

Bổn phận làm con đối với cha cho trọn, thì là làm con đối với cha mẹ rồi, nhưng phần lớn là như vậy, còn phần tiểu tiết có nhiều khía cạnh khác.

Cha thương con tuy cũng tha thiết, nhưng lòng khẳng khái không trìu mến bằng mẹ. Mẹ thương con thật là đậm đà, không nỡ xa lìa trong giây lát. Vì vậy mà con đối với mẹ dù lập công danh cũng không nỡ xa mẹ, trừ ra trường hợp bất đắc dĩ mới xa lìa. Dầu có xa lìa cũng phải luôn luôn liên lạc thư từ để an ủi thăm non cho mẹ yên lòng.

Người mẹ hay lo sợ hơn người cha, nên bổn phận làm con phải làm cho mẹ an tâm.

MẸ SỢ SÉT

V ương Thôi người thời Tam Quốc, cha làm quan nhà Ngụy, sau bị Tây Tấn diệt Ngụy, cha cũng bị giết. Vương Thôi đau xót thường phục bên mộ cha mà khóc mãi. Tương truyền nước mắt Vương Thôi chảy quá nhiều làm cho cây Trắc bên mộ khô tươi trở lại. Vương Thôi suốt đời không bao giờ day mặt về phía Tây vì thương mà tỏ lòng không phục nhà Tây Tấn. Mẹ Vương Thôi lúc sinh thời hay sợ sấm, sau khi mẹ mất rồi, mỗi lần mưa mây sấm sét ông chạy ra mồ mà khóc lên tiếng rằng: Thưa mẹ có con đây.

Mẹ hiền sợ tiếng sấm

Hồn dầu về suối vàng

Khi nghe tiếng sấm động

Đến mồ mẹ bao che.

Luận

Lòng hiếu thảo của Vương Thôi đến khi mẹ chết mà còn tưởng như sống bao giờ quên. Nhờ vậy mà thiên hạ đều kính mến, cho đến nhà Tây Tấn là kẻ thù với Thôi mà vẫn bỏ thù cầu Thôi làm quan, nhưng Thôi một mặt từ chối, Tây Tấn cũng không khiển trách vì Vương Thôi là người cả quốc dân đều kính mến.

Vương Thôi không ra làm quan cho Tây Tấn, là trung với Ngụy hiếu với cha mẹ, thật là tròn bổn phận làm con vậy; ở gia đình tròn hiếu, ngoài quốc dân cảm mến, thật có một chữ hiếu mà xử thế tròn đủ đáng là hiền nhân vậy.

TRÁI XANH MÌNH ĂN TRÁI CHÍN ĐỂ MẸ

Thái Thuận đời nhà Hán, mồ côi cha từ thuở nhỏ, nhà rất nghèo. Thái Thuận hết lòng thờ mẹ, gặp năm thất mùa loạn lạc đói kém, Thái Thuận vào rừng tìm trái cây, trái nào chín bỏ qua một bên, trái nào xanh để qua một bên. Tướng giặc là Xích My xem thấy hỏi để riêng chi vậy?

Thái Thuận đáp:

- Trái nào chín ngọt để dành mẹ tôi, trái nào xanh chua là của tôi.

Xích My khen Thái Thuận là người con có hiếu liền truyền quân cho một thúng gạo và một đùi thịt.

Qủa chín dành cho mẹ

Bụng đói nước mắt thâm bâu

Xích My ngợi khen đại hiếu

Tặng cho gạo thịt ơn sâu.

Luận

Giặc đói thịt gạo qúy hơn vàng bạc, mà còn cảm phục người hiếu thảo đem cho không tiếc. Kinh sách nói: Hiếu thảo vi tiên là phải.

Hiếu hạnh sẽ làm nên tất cả mọi việc cho xã hội. Hiếu hạnh là nguồn gốc làm nên hiền nhân.

Phần phụ:

BỔN PHẬN CON RỂ VÀ CHA MẸ VỢ ĐỐI VỚI NHAU

Đã tròn bổn phận đối với cha mẹ ruột thì lấy đó mà
đối với cha mẹ vợ.

Đã tròn bổn phận làm cha mẹ thì lấy đó mà đối với con rể.

Nhưng cũng phải tùy theo hoàn cảnh mà có khác: Cha mẹ vợ chỉ có sanh một gái thì đối với rể như là đối với con ruột, vì còn ai nữa đâu. Con rể mà đối cha mẹ vợ chỉ sanh có một vợ mình thì bổn phận rể đối với cha mẹ vợ như cha mẹ ruột vì còn ai vô lo cho nữa đâu.

Thông thường cha mẹ vợ có con đông thì phần con rể là phần phụ, nhưng chồng cũng phải cho vợ trợ lo cho tương xứng.

Đại khái là vậy còn phần tiểu tiết thì tuỳ theo hoàn cảnh mà xử sự với nhau cho quân bình, trong trăm hạnh mà xử đặng tròn thì tiên vi hiếu thứ vi dân là cao đẹp nhất.

Vẫn một vài cố sự về hoàn cảnh cha vợ chàng rể, rồi sẽ mượn đó mà luận ra.

UNG CỦ VÀ TỀ TÚC

Vua Trịnh Trang Công chết, con trưởng là công tử Hốt lên ngôi là Trịnh Chiêu Công. Con thứ là công tử Đột sang quê mẹ về nước Tống, Tống Trang Công có ý giúp công tử Đột về đoạt ngôi anh.

Trịnh Chiêu Công hay được liền sai Tề Túc đi sứ sang Tống để dò xét tình hình của công tử Đột.

Nhưng Tề Túc qua Tống bị bắt giam buộc phải đem công tử Đột về nước làm vua, và buộc Tề Túc phải gả con gái cho Ung Củ vì biết Ung Củ là người tâm phúc của công tử Đột.

Buộc Tề Túc phải cho người về Tề đem con gái qua Tống gả cho Ung Củ để làm con tin và buộc ăn thề.

Tề Túc kẹt trong thế bí và thấy cần giải quyết cho ổn thỏa, hai nước khỏi giao tranh nên làm theo lời hứa.

Sau cuộc đảo chánh Tề Túc đưa công tử Đột về làm vua tức là vua Trịnh Lệ Công, nhưng Trịnh Lệ Công về giết anh làm vua lòng người không phục, Tề Túc phải cầm quyền nhiếp chánh.

Trịnh Lệ Công lên ngôi, Ung Củ làm đại thần theo phò. Một hôm trời mát Trịnh Lệ Công dạo ở huê viên có Ung Củ theo phò. Thấy đàn chim bay ca hát véo von, Trịnh Lệ Công mủi lòng than:

- Ôi! Loài điểu thú còn vui hơn ta!

Ung Củ nói:

- Trời xuân muôn hoa tươi đẹp sao Chúa công lại buồn?

Trịnh Lệ Công ứa nước mắt nói:

- Loài chim được tự do không có ai áp chế, còn ta làm vua mà mất quyền không bằng loài chim.

Ung Củ nói:

- Tôi thiết tưởng làm con, không giải được phiền não cho cha là bất hiếu, làm tôi không giúp vua khỏi cơn hoạn nạn là bất trung. Nếu chúa công tin dùng tôi, thì dầu việc khó khăn gì tôi cũng không từ chối.

Trịnh Lệ Công đuổi hết kẻ tả hữu ra rồi hỏi:

- Ngươi là rể của Tề Túc kia mà?

Ung Củ đáp:

- Tuy là rể thật, song tình cha con đâu bằng vua tôi, Tề Túc gả con cho tôi là bị vua Tống bắt buộc chớ đâu phải ý muốn.

Trịnh Lệï Công nói:

- Nếu ngươi có cách gì giết đặng Tề Túc ta sẽ phong cho người làm Thượng khanh.

Ung Củ nói:

- Xứ Đông Giao bị quân Tống cướp bóc, dân chúng khổ sở; chúa công nên sai Tề Túc đến đó chiêu an, tôi là con rể lợi dụng việc đó mà làm tiệc tiễn hành, bỏ thuốc độc mà giết Tề Túc là xong.

Trịnh Lệ Công nói:

- Kế đó rất hay nhưng phải cẩn thận lắm mới được.

Ung Củ lãnh lịnh ra về lại nghĩ đến vợ Tế Thị lòng hơi lo sợ lộ ra vẻ mặt bất bình tĩnh.

Tế Thị thấy thế hỏi:

- Hôm nay trong triều có việc gì quan trọng chăng?

Ung Củ xoay mặt chỗ khác đáp:

- Không có việc gì cả.

Tế Thị không tin được lòng lại nghi thêm nhưng hỏi chồng không chịu nói, bèn phục rượu cho Ung Củ uống say mèm, đợi Ung Củ say ngủ mơ màng, Tế Thị kề miệng vô tai nói lớn rằng:

- Này, chúa công sai mày giết Tề Túc mày quên rồi sao?

Đang say ngủ mà nghe tiếng như vậy, Ung Củ vẫn nhắm mắt nói:

- Tôi đâu dám quên.

Tế Thị nghe vậy là rõ biết tâm trạng của chồng nên thất kinh, và tự nghĩ mà khóc rằng:

- Có thể vậy được sao? Hay say rồi nói sảng?

Sáng ra Tế Thị nói:

- Tướng quân định giết phụ thân tôi, việc ấy tôi đã biết.

Ung Củ giật mình nhìn vợ nói:

- Ôi! Lạ kìa! Ta khi nào dám làm như vậy, sao phu nhân lại nói thế?

Tế Thị nói:

- Hôm qua tướng công say rượu đã nói chuyện đó với thiếp rồi còn giấu gì nữa?

Ung Củ nhột mặt nói:

- Nếu có như vậy phu nhân nghĩ sao?

Tế Thị lòng ngao ngán nhưng giả vờ nói:

- Đã lấy chồng thì phải theo chồng chớ còn biết cách nào.

Ung Củ ngỡ thật bèn đem câu chuyện nói hết cho vợ nghe.

Tế Thị nói:

- Phụ thân của thiếp tánh cẩn thận không biết chịu đi không, vậy để thiếp vào dò xem ý kiến thế nào.

Ung Củ nói:

- Nếu việc thành, tôi giữ chức Thượng khanh thì vợ chồng chung hưởng trọn đời.

Tối hôm đó Tế Thị vào tư dinh thăm mẹ nhưng hơi buồn bã và đem việc luân thường hỏi:

- Chồng với cha bên nào trọng?

Nghe hỏi, Tề phu nhân hơi ngạc nhiên nói:

- Sao con lại hỏi vậy? Chồng với cha bên nào chẳng trọng?

- Nhưng giữa chồng với cha có điều tranh đoạt nhau thì trọng bên nào?

- Cha ân cao vợ chồng nghĩa nặng, mất chồng có thể lấy chồng khác, còn cha mẹ ân cao mất không tìm được.

Nghe vậy Tế Thị ôm mẹ khóc và nói:

- Như vậy con quyết vì cha không vì chồng.

Rồi đem hết chuyện Ung Củ kể cho mẹ nghe.

Tề Túc phu nhân nói:

- Việc nầy kín miệng để mẹ tự lo.

Sáng hôm sau Trịnh Lệ Công sai Tề Túc đến Đông Giao để ủy lạo dân chúng, còn Ung Củ bày tiệc tiễn hành rất long trọng.

Tề Túc về nhà lo hành trang rồi sai công tử Ất đem một trăm quân gác nơi quán dịch, Ung Củ cũng dẫn quân hầu đến đó.

Tề Túc nói:

- Ta vì lịnh vua, ngươi bày tiễn đưa làm gì?

Ung Củ nói:

- Nhân nhạc phụ đi xa, cũng là ngày tiết xuân vui vẻ con dâng chén rượu, xin nhạc phụ thương tình con rể.

Tề Túc tay bưng ly rượu tay nắm Ung Củ cười nói:

- Đây là ý của vua hay tình của con?

Ung Củ thưa:

- Đây là lòng của con mà cũng là ý của vua.

Tề Túc hét to:

- Khốn nạn! Đồ phản phúc dám hại ta như thế!

Ung Củ sợ hãi kêu quân cầu cứu. Trịnh Lệ Công sai đoàn ngự lâm quân đến cứu nhưng công tử Ất đánh chặn phải chạy về.

Tề Túc sai chém đầu Ung Củ.

Trịnh Lệ Công hay đặng sợ quá bèn trốn sang nước khác.

Luận

Vừa đọc qua đoạn này thấy ngay là Ung Củ trung thần còn Tề Túc là loạn thần. Nhưng xét lại Ung Củ tham danh mà bất nghĩa: dua nịnh theo Trịnh Lệ Công là tham danh, mưu hại cha vợ là bất nghĩa. Vả lại mưu hại Tề Túc không phải Trịnh Lệ Công đưa ra, nếu lịnh vua đưa ra mà Ung Củ làm theo thì còn gọi chút là đặng trung mất nghĩa. Nhưng không phải thế, Trịnh Lệ Công nếu chẳng thắng được Trịnh Trang Công thì vẫn là tên phản thần Công tử Đột, nay đặng ngồi trên ngai vàng cũng vẫn mang danh là tàn bạo giết anh cướp ngôi, đâu có đáng gì mà phải trung với bạo chúa. Tề Túc nắm quyền là muốn cho phục lòng dân, vì người dân không phục Trịnh Lệ Công, sự đó ai cũng thấy rõ. Vì vua mà giết anh cướp ngôi, nếu mà trọn quyền độc tài thì sự tàn bạo càng hơn nữa.

Tuy Ung Củ không làm được chưa á quyền nhưng ta thấy hắn là kẻ bất nghĩa, tham danh thì sự gì làm được là hắn làm ngay.

Ung Củ bất trung lại không làm tròn bổn phận con rể đối với cha vợ. Còn Tề Túc đối với Ung Củ không có lỗi gì. vì nó là tên loạn thần không phải là con rể nữa.

Ở trường hợp này chỉ vì tham danh lợi mà xảy ra tất cả, chứ nhưng đứng vào hoàn cảnh Ung Củ mà muốn xử sự cho tròn trung tròn hiếu không khó gì. Nếu như vua mà có ý hại Tề Túc thì can không nên a dua theo thì làm gì có như vậy; còn như Tề Túc có á quyền mà hại trung thần làm khổ nhân dân, thì nên bàn cùng vợ là Tế Thị mà khuyên can cha vợ tưởng cũng không khó.

Không phải bàn suông việc của người ta mà đây là kinh nghiệm xưa mà liệu nay vậy.

TRÒN TRUNG HIẾU NGHĨA

Hoàng Phủ Kính lãnh lịnh vua Nguyên đi dẹp giặc bị vây khốn, Lưu Tiệp tư thông với giặc phao tin Hoàng Phủ Kính đầu giặc. Vua Nguyên ra lịnh bắt hết họ Hoàng Phủ, Hoàng Phủ Thiếu Hoa con trai Hoàng Phủ Kính phải trốn ở nhà bạn là Lưu Khuê Bích con của Lưu Tiệp. Khuê Bích mưu giết Hoàng Phủ Thiếu Hoa, em khác mẹ của Khuê Bích là Lưu Yến Ngọc thấy anh và cha làm việc gian ác, liền lén đến báo tin cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhờ đó trốn khỏi, thành ra hai bên có cảm tình với nhau.

Đến khi Thiếu Hoa cải tên đổi dạng, thi trúng được lãnh lịnh vua Nguyên ra dẹp giặc, bắt được thơ của Lưu Tiệp tư thông với giặc. Hoàng Phủ Kính liền về trào minh oan. Vua Nguyên biết rõ được mưu gian bán nước của Lưu Tiệp, liền bắt hết dòng họ Lưu hạ ngục chờ ngày xử quyết, còn Hoàng Phủ Kính được phục chức, Hoàng Phủ Thiếu Hoa đặng thăng chức.

Khi đó Lưu Yến Ngọc trốn khỏi, nhưng lòng thương cha nên trở về dâng thơ xin thế mạng cha. Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã có tình nghĩa với nhau, vì nhớ ơn trước nhờ Lưu Yến Ngọc đã cứu sống và hai bên đã có tình nghĩa với nhau. Nên tâu với vua Nguyên xin tha tội chết cho cha vợ, chỉ giết Lưu Khuê Bích để răn chúng mà thôi. Hoàng Phủ Thiếu Hoa giữ tròn chung thủy nên cưới Lưu Yến Ngọc làm vợ.

Luận

Tuy Lưu Tiệp là thù của nhà họ Hoàng Phủ, nhưng Lưu Yến Ngọc là đại ân của nhà họ Hoàng Phủ. Muốn báo ân sâu ấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa khi chưa cưới Lưu Yến Ngọc nhưng cũng đinh ninh sẽ cưới Yến Ngọc làm vợ. Đã là thương vợ thì phải nghĩ đến bổn phận làm rể, thế nên đổi oán làm ân, lấy ân trả oán cho tròn bổn phận rể con, nổi bật là hiền nhân.

7. BỔN PHẬN MẸ CHỒNG VÀ NÀNG DÂU

trong gia đình, xưa nay mẹ chồng nàng dâu thường hay mâu thuẫn xung đột nhau, hay xảy ra đổ vỡ gây chia rẽ rất trầm trọng lan tràn khắp xã hội.

Mẹ chồng và nàng dâu sống chung chạ gần gũi nhau. Con gái sống gần bên mẹ chồng và xa cha mẹ ruột suốt đời; mẹ chồng gần gũi với nàng dâu và xa con gái suốt đời. Thế thường người ta nói:

“Xa thì thương gần thì thường“.

Và tục ngữ có câu:

“Bát trong xống sao khỏi khua động“.

Thế rồi cứ coi việc mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu là thường, dâu hung dữ thì lấn hiếp mẹ chồng, mẹ chồng tệ ác thì lấn hiếp nàng dâu là cái ung độc trong gia đình.

Đầu tiên là nàng dâu phải làm tròn bổn phận đối với mẹ chồng, phải biết chìu chuộng vì đây là nơi dung thân suốt đời vậy.

Nhưng mẹ chồng phải biết thương dâu nhiều hơn vì là sự phục vụ cho mình cho gia đình mình, không ai nhiều hơn đâu.

Đôi bên phải tự biết mà đối xử nhau, thương chồng trước phải thương mẹ chồng, thương con nhiều phải thương dâu.

Phải tự biết mà đối xử nhau cho ôn hòa, tốt đẹp được huân bình thành ra luật xử thế chớ không ai đặt ra. Nếu đặt ra luật mà không hợp thời thì không ai thèm nghe, mà luật hợp thời là hiền nhân vậy.

Xảy ra mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu là do nàng dâu nhiều hơn, ít có mẹ chồng ác độc như Lâm Sanh Xuân Nương.

Truyện Lâm Sanh Xuân Nương, mẹ chồng ác độc bao nhiêu, lại nổi bật nàng dâu hiền đức của Xuân Nương bấy nhiêu.

Anh chồng đã biết rõ mẹ chồng nàng dâu mâu thuẫn nhau là tại vợ (nàng dâu) nên đã mài dao dạy vợ:

Ngày xưa có người nông dân quê mùa mà hiền lành hiếu thảo. Anh ta cưới phải người vợ thiếu đức, còn bà mẹ cũng tự ái. Trong gia đình, mẹ chồng nàng dâu cứ lục đục, gây gổ hoài làm anh ta buồn bực không làm ăn gì được.

Muốn cho hòa nhau cứ mỗi lần vắng mặt vợ anh giả vờ nghe theo mẹ, mỗi lần nói chuyện riêng với vợ thì anh giả vờ nghe theo vợ. Nhưng làm như vậy không sao yên được càng ngày càng căng thẳng hơn lên, mẹ chồng nàng dâu càng gây gổ hơn nữa. Anh chồng đứng cửa giữa đâm ra chán nản.

Nhưng anh nông dân nghĩ ra kế, bèn đi ra chợ mua con dao bầu thật to đem về cứ mỗi ngày đem ra mài, mài xong đem vô cất. Rồi bữa khác lấy ra mài, mài xong đem vô cất. Người vợ thấy lạ hỏi nhiều lần anh không trả lời. Hỏi nhiều lần lắm anh làm như cực chẳng đã mới nói:

- Anh mài dao để có dịp giết mẹ đấy, mẹ già rồi trước sau gì cũng chết, thà giết cho xong chứ để cứ cãi cọ rầy rà hoài, em làm dâu không nhịn được, thêm xóm giềng chê cười để có ích lợi gì ?

Người vợ lại sợ sự giết mẹ là táo bạo nên nói với chồng hoãn lại coi đã. Người chồng nói:

- Nếu hoãn lại thì em hãy ráng hiếu thuận với mẹ coi sao?

Người vợ nghe lời, liền từ đó hết lòng nhường nhịn và cung kính phụng dưỡng. Lẽ tất nhiên được người dâu như vậy mẹ chồng liền đổi tánh ghét ra tình thương mà trong nhà được vui vẻ.

Lâu sau anh chồng nói với vợ rằng:

- Kỳ hoãn đã lâu, nay phải giết mẹ cho rồi.

Người vợ nói:

- Nay mẹ đã đổi tánh hiền lương, xin anh đừng giết.

Người chồng nói:

- Thế là tại lâu nay em làm dâu mà ngỗ nghịch với mẹ chồng mới xảy ra cảnh rầy rà nhau mãi, anh mài dao là để giết em đó.

Người vợ nghe nói thất kinh, biết là mẹ chồng nàng dâu mà xảy ra cảnh nghịch nhau là tại mình (nàng dâu) không nói được gì hết.

Nghe được, bà mẹ giải hòa và nhận rằng do cả hai bên nay nên dung hòa mẹ con ta nhận đặng vậy rồi thì từ nay nên bỏ qua, cả nhà yên vui làm ăn.

Từ đó trong nhà, mẹ chồng nàng dâu rất hòa thuận, nhờ đó mà anh nông dân vui vẻ phấn chấn làm ăn rất phát đạt.

Luận

Tâm lý của người đàn bà muốn làm ăn cho dư dả, để dành của cải cho con cái, nhưng cái nguồn làm nên sự nghiệp của cải không biết do chỗ vui vẻ hòa nhã mà làm nên; chỉ muốn giữ của sợ nuôi cha mẹ, sợ chi phí thù tạc lại muốn cho chồng phải làm lụng cho nhiều bóp bụng, chịu nhục giữ của, không ngờ đó là mầm mống mâu thuẫn sanh ra rầy rà, buồn bã, tan nát đổ vỡ.

Mẹ chồng nàng dâu không thuận nhau, cứ gây gổ luôn làm cho anh chồng đi thôi về đến nhà nghe thấy sự hơn thua, phải quấy rầy rà, gây gổ dai dẳng như vậy, khổ như cảnh địa ngục thì còn lòng dạ đâu lo làm ăn. Nhiều khi buồn bực quá đâm ra rượu chè ăn chơi, lắm lúc không muốn về nhà, gia đình suy sụp hư nát bắt đầu từ đó.

Hỡi các người làm mẹ chồng nên chú ý

Hỡi các nàng dâu nên chú ý nhiều hơn.

ĐƯỜNG THỊ

Đường Thị vợ họ Thôi ở với mẹ chồng rất có hiếu. Mẹ chồng già quá rụng hết răng không ăn được. Hằng ngày Đường Thị tắm rửa thật sạch rồi cho mẹ chồng bú, nhờ vậy mà mẹ chồng sống được mấy năm nữa. Cảm ơn lòng hiếu thảo của nàng dâu, mẹ chồng không biết lấy gì để trả ơn, lúc sắp chết liền khấn nguyện Phật trời cho sau này dâu của Đường Thị cũng hiếu thảo như vậy.

Quả nhiên sau dâu của nhà họ Thôi người nào cũng hiếu thảo với mẹ chồng. Nhờ vậy mà họ Thôi phát đạt vinh hiển.

Lòng hiếu thảo ai hơn Đường Thị

Mẹ rụng răng không thể nhai cơm

Lòng thường phụng dưỡng sớm hôm

Đường Thị cho bú thế cơm mẹ già

Lòng cảm động dâu ta hiếu thảo

Sắp lâm chung đảo cáo phật trời

Xin cho dâu thảo đời đời

Vào nhà Thôi Thị đền bồi trọng ơn

Ơn nghĩa ấy cảm lên trời phật

Nhà họ Thôi nối tiếp dâu hiền

Phước lành nổi tiếng lưu truyền

Ai muốn vinh hiển noi hiền làm dâu.

Lấy bài nầy kết luận cho mẹ chồng nàng dâu và muốn có dâu hiền phải làm tròn bổn phận làm dâu xong rồi kế đến thay làm tròn bổn phận mẹ chồng.

8. BỔN PHẬN CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ

Chồng vợ có hòa thuận thì gia đình mới hạnh phúc, ảnh hưởng quốc dân an lạc, xã hội hòa bình.

Đại để làm chồng:

Phải lấy sự chân thật thương yêu vợ, lấy sự công bình có phần trợ giúp cho cha mẹ vợ, việc đối xử hai bên công bình, để cho vợ khỏi buồn tủi vì không được đền đáp công ơn cha mẹ họ hàng bên mình.

Không nên sớm mận tối đào làm sứt mẻ tình thương, phải cho vợ chút quyền tham gia sự gia đình, nên giao tiền bạc cho vợ cất giữ, sự xài tiền bạc phải có sự đồng ý chung, nên cho vợ sắm mặc cho trang nghiêm với người, ăn uống phải có giờ khắc, không nên say sưa làm buồn khổ vợ con.

Gia đình hạnh phúc bắt đầu từ nơi chồng vợ biết làm tròn bổn phận đối xử với nhau đâu dễ xem thường được.

Làm chồng bạc ác gây tai hại cho gia đình bấy nhiêu; thì làm tròn bổn phận đem lại hạnh phúc cho gia đình bấy nhiêu.

Từ cổ chí kim có những bậc vua chúa, cho đến sĩ phu, công hầu khanh tướng kể rất nhiều người tệ bạc với vợ ghi đầy rẫy trong truyện sách, lật trang sách nào cũng gặp, đọc đoạn nào cũng có.

VUA KIỆT:

Cuối đời nhà Hạ vua Kiệt đem quân đánh quân Hữu Thi, Hữu Thi thua đem dâng Muội Hỷ để cầu hòa. Vua Kiệt say mê Muội Hỷ sanh tâm bạc ác phế chánh hậu, bị Thành Thang diệt đi.

VUA TRỤ:

Cuối đời nhà Ân vua Trụ đam mê Đắc Kỷ, chặt tay khoét mắt Khương hoàng hậu bị nhà Châu tru diệt.

U VƯƠNG:

Là Thái tử Cung Niết con vua Tuyên Vương nhà Châu say mê sắc đẹp Bao Tự phế chánh cung là Thân Hậu, sau bị Khương Nhung bầm thây, Bao Tự bị bắt.

Bốn nước Tấn, Tần, Vệ, Trịnh về giải vây, Khương Nhung bỏ chạy Bao Tự phải tự tử.

Vệ Tương Công có vợ là Di Khương sanh con là Cấp Tử, sau lại mê nàng Tuyên Khương có hai con nữa là Thọ và Sóc. Sóc âm mưu với mẹ giết Cấp Tử giết lầm cả Thọ sau bị Kiềm Mâu giành ngôi.

Tề Tương Công thông dâm với nàng Văn Khương sau bị Liêm Xứng đè chặt làm hai khúc.

Tề Ý Công làm vua có chánh hậu có cung phi mỹ nữ rất nhiều, thế mà còn đoạt vợ quan đại phu Diêm Chức. Sau Diêm Chức hiệp với Bính Súc chặt đầu Tề Ý Công ném xuống ao.

Tề Trang Công mê nàng Đường Khương là vợ quan đại phu Thôi Chữ, bị Đường Vô Cữu bắn rớt xuống lầu mà chết.

Thôi Chữ mê tiểu thiếp phế con dòng chánh là Thôi Thành và Thôi Cương. Hai anh em tức giận đến cầu với Khánh Phong giết giùm bọn con dì ghẻ. Khánh Phong sai Lư Bồ Kiết đến giết sạch cả nhà đoạt của. Thôi Chữ tức mình cũng thắt cổ mà chết.

Lỗ Định Công hy hữu được Khổng Tử làm tướng quốc nhờ đó mà nước được cường thạnh dân tình an ổn. Tề Cảnh Công thấy thế sợ nước Lỗ mạnh sẽ dòm ngó nước mình nên đem dâng cho Lỗ Định Công đoàn nữ nhạc. Khổng Tử can Lỗ Định Công, vì mê sắc không nghe, thâu dùng đoàn nữ nhạc rồi say mê. Khổng Tử bỏ đi, Lỗ Định Công bị suy nhược.

Ngô Hạp Lư mê Tây Thi sau bị mất nước phải thắt cổ mà chết và còn nhiều không kể hết.

Những người mê sắc, lẽ tất nhiên không làm tròn bổn phận làm chồng và chuyển đến không làm tròn được những bổn phận khác của đời người, chẳng những tự rước họa vào thân mà còn gieo rắc tai họa cho gia đình, quốc dân xã hội đau khổ.

Người làm tròn bổn phận làm chồng rất ít. Muốn tìm một vài mẩu chuyện về làm chồng gương mẫu phải vất vả lắm bỏ công nhiều, coi sách nhiều, lật nhiều trang mới tìm ra.

BÁ LÝ HỀ

Bá Lý Hề tự Tỉnh Bá, người nước Ngu, ba mươi tuổi mới cưới vợ sanh được một con trai tên là Mạnh Minh.

Ở nước Ngu không có người tiến cử, Bá Lý Hề muốn lập công danh phải sang nước khác nhưng nhà nghèo khổ, bi đát không biết nhờ ai. Vợ là Đỗ Thị khuyên chồng ra đi không nên vì bận bịu gia đình mà bỏ chí lớn của nam nhi. Khi chồng đi nhà nghèo chỉ có một con gà lại không có củi. Đỗ Thị mổ gà lấy phên làm củi nấu gà tiễn chồng.

Lý Hề nói:

- Nàng lấy phêh nấu gà tiễn anh, rồi gió sương lạnh lùng lòng anh lấy làm đau khổ.

Đỗ Thị nói:

- Người lạnh không bằng lòng người lạnh, người lạnh không sợ, sợ lòng người lạnh lẽo phôi pha xin chàng nhớ lấy.

Từ giã vợ ra đi, bây giờ Bá Lý Hề tuổi đã bốn mươi đến đất Chất không tìm ra việc làm phải ăn xin. Kiển Thúc xem thấy biết Bá Lý Hề là người hiền, bèn cùng nhau kết bạn. Lớn hơn một tuổi Kiển Thúc làm anh, Lý Hề làm em. Hai anh em cùng nhau chung nghèo hèn, phận số bèn dẫn nhau đến nước Châu giữ trâu mướn cho vương tử Đối để lấy tiền nuôi thân. Lâu ngày không ai tiến cử, Bá Lý Hề định trở về quê, Kiển Thúc có người quen ở nước Ngu tên Cung Chi Kỳ nên cùng theo Lý Hề đến nước Ngu.

Về đến quê nhà Bá Lý Hề hỏi ra thì vợ con không còn ở đó nữa vì không sống nổi phải bỏ đi mất. Kiển Thúc vào ra mắt Cung Chi Kỳ xin tiến cử Bá Lý Hề là người tài. Nhờ Cung Chi Kỳ tiến cử, vua Ngu liền dùng Bá Lý Hề cho làm chức Đại phu.

Nhưng sau Kiển Thúc nói với Bá Lý Hề rằng:

- Ta nhận thấy vua Ngu là người thiển cận, tự đắc không phải người hiền.

Bá Lý Hề nói:

- Em vì nghèo khổ không chỗ dung thân nên cũng phải tạm.

Kiển Thúc nói:

- Còn anh bây giờ cũng tạm chia tay, sau này em hãy qua đến nước Tống làng Minh Lộc tìm anh.

Nói xong Kiển Thúc từ giã Lý Hề mà đi.

Nước Ngu mất, Bá Lý Hề trốn sang Tấn, vua Tấn gả con cho Tần sai Lý Hề phò Bá Cơ đưa dâu sang Tần.

Lý Hề đưa dâu lòng hổ thẹn liền bỏ trốn sang Tống nhưng bị giặc cướp nghẽn đường phải sang ngang qua Sở. Đến giữa đường rừng, Lý Hề gặp người thợ săn tưởng Lý Hề là người phiến loạn liền bắt trói lại.

Bá Lý Hề đưa tay chịu trói và điềm tĩnh nói:

- Tôi là người nước Ngu vì mất nước nên qua đây.

Người thợ săn hỏi:

- Ngươi làm nghề gì?

- Tôi làm nghề nuôi trâu.

Người thợ săn liền mở trói đem Bá Lý Hề về cho nuôi trâu.

Bá Lý Hề nuôi trâu rất mau lớn, chóng mập, tiếng đồn đến tai vua Sở. Vua liền cho mời Bá Lý Hề hỏi:

- Nhà ngươi nuôi trâu cách nào mà hay vậy?

Bá Hề tâu:

- Cho trâu ăn có điều độ, không bắt trâu làm quá sức, thường siêng năng chăm sóc sạch sẽ.

Vua Sở nói:

- Nuôi trâu ngựa cũng thế. Liền cho Bá Lý Hề làm chức Ngữ Nha, cho ra nuôi ngựa ở Đông Hải.

Nhắc lại Tần Mục Công, một hôm nhàn rỗi xem sổ đưa dâu của nước Tấn thấy có tên Bá Lý Hề mà không có mặt, bèn kêu công tử Trí hỏi:

- Tên Bá Lý Hề trong sổ đưa dâu sao không thấy mặt?

Công tử Trí thưa:

- Bá Lý Hề người nước Ngu khi đưa dâu trốn đi rồi. Bá Lý Hề là người hiền, biết vua Ngu không thể can được nên không dự đến, nhưng khi vua Ngu mất nước theo vua Ngu qua Tấn mà không phò Tấn là trung, kẻ có tài nhưng chưa gặp thời đó thôi.

Tần Mục Công nói:

- Nếu ta được Bá Lý Hề thì hay lắm!

Công Tôn Chi nói:

- Tôi nghe nói vợ con Bá Lý Hề sang Sở, vậy sai người qua đó dò xem.

Tần Mục Công liền sai người đem lễ vật sang Sở dò xem có Bá Lý Hề xin chuộc về.

Công Tôn Chi thưa:

- Vua Sở không biết Bá Lý Hề là người hiền tài nên nay đã cho chăn ngựa. Nay mà chúa công cho người đem lễ vật sang chuộc, không khác nào cho vua Sở biết, ắt vua Sở sẽ giữ lại mà dùng.

Tần Mục Công khen phải, rồi sai người đem năm bộ da dê biếu cho vua Sở nói rằng: Bá Lý Hề là kẻ tiện có tội với Tần trốn sang quý quốc, xin cho bắt về trị tội làm gương nên sai tôi qua biếu cho quí quốc năm bộ da dê xin bắt phạm nhân về.

Vua Sở muốn làm vui lòng vua Tần nên sai bắt Bá Lý Hề giao trả. Bá Lý Hề bị bắt người người đều thương xót, nhiều người than khóc cho số phận Bá Lý Hề nhưng Bá Lý Hề cười nói:

- Các bạn chớ buồn vì vua Tần muốn đem tôi về đó thôi.

Về đến Tần, Công Tôn Chi đã ra tận ngoài ải đón rước vào triều yết kiến Tần Mục Công.

Tần Mục Công hỏi Bá Lý Hề:

- Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi?

- Hơn bảy mươi tuổi.

- Tiếc thay ta gặp ngươi quá trễ, tuổi quá già!

Bá Lý Hề nói:

- Nếu vào rừng đốn củi, xuống sông chèo ghe thì tôi tuổi già thật nhưng nếu lo về việc nước, định bá đồ vương thì tôi vẫn còn trẻ. Xưa Lã Vọng hơn tám mươi tuổi còn ngồi câu cá Sông Vị, Văn Vương rước về làm nên nghiệp đế cho nhà Châu, như nay tôi còn trẻ hơn Lã Vọng mười tuổi.

Tần Mục Công đem lòng kính phục và đem việc nước bàn lợi hại với Bá Lý Hề. Lý Hề luận rất cao kiến làm cho Tần Mục Công bái phục liền phong cho Bá Lý Hề chức Thượng khanh, giữ cả quyền hành trong nước.

Bá Lý Hề đang chăn trâu nay đến thời cơ được làm quan to, lòng vẫn không quên liền tiến cử cho Kiển Thúc, Tần Mục Công nghe theo cho người rước về.

Vợ con Bá Lý Hề đói rách đi khắp nơi tìm kế sanh nhai, sau cùng đến nước Tần làm nghề giặt mướn nuôi thân qua ngày, con là Mạnh Minh lêu lổng chơi bời không lo làm ăn gì cả.

Nay Đỗ Thị hay được chồng làm quan, lại vì thân phận hèn hạ không dám nhìn, nhiều lần thấy Bá Lý Hề mão cao áo rộng ngồi xe đi ngang nhưng lòng lo ngại tránh đi.

Đỗ Thị liền xin vào dinh Bá Lý Hề giặt mướn, cố ý để cho Bá Lý Hề có nhìn không. Hôm ấy Bá Lý Hề ngồi nghe phường nhạc đàn hát. Đỗ Thị liền nói với nhạc trưởng xin cho mình hát và đàn. Nhạc trưởng liền đưa cho Đỗ Thị cây đàn, đàn thử, Đỗ Thị liền đàn tiếng bi a, rả riết cả chúng đều vỗ tay khen hay.

Nhạc trưởng liền vào giới thiệu với Bá Lý Hề cho vào. Đỗ Thị bước vào sân cầm đàn, Bá Lý Hề vẫn không biết, cứ tưởng là phường hát. Bỗng nghe tiếng đờn nỉ non với giọng hát:

Bá Lý Hề!

Năm bộ da dê!

Nhớ ngày ly biệt

Mổ gà mái ấy,

Nấu nồi cơm vàng

Tình thiết tha!

Nay phú quý

Nở đành quên nhau

Bá Lý Hề!

Năm bộ da dê!

Cha ăn thịt cá

Con đói khát dài

Chồng mặc áo gấm

Vợ giặt thuê hoài

Nay phú quý

Nở đành quên nhau

Bá Lý Hề!

Năm bộ da dê!

Nhớ ngày xưa

Chàng ra đi

Nàng đành biệt ly

Nay chàng ngồi đó

Thiếp chẳng dám gần

Nỡ quên nhau sao?

Bá Lý Hề nghe biết rõ là vợ mình liền bước xuống ôm vợ mà khóc! Lại hỏi đến con.

Đỗ Thị nói:

- Thằng nhỏ theo người đàng xóm chơi rong.

Bá Lý Hề sai người rước con về, vợ chồng cha con đoàn tụ.

Tần Mục Công hay được lấy làm cảm động liền phong cho Mạnh Minh làm chức Đại phu.

ĐOÀN DOÃN LUÂN

Đoàn Doãn Luân con ông Đoàn Doãn Nghi vốn dòng họ Lê. Ông Đoàn Doãn Nghi nằm mộng thấy thần tặng cho họ Đoàn, nên mới đổi họ, người quê ở Hiếu Phạm.

Đoàn Doãn Luân thi đỗ tiến sĩ nổi tiếng văn tài lỗi lạc nhưng không ưa chuộng công danh chốn quan trường, chỉ ưa nhàn lạc ngồi nhà dạy học. Ông là người có dạ thủy chung, làm tròn bổn phận con, anh và bổn phận làm chồng.

Đoàn Doãn Luân dạm hỏi con gái của tiến sĩ Lê Hữu Mưu ở làng Hương Xá, huyện Mỹ Hào. Khi chưa thành hôn, vị hôn thê của ông bịnh trái mùa, sau khi lành bịnh dung nhan không còn tươi đẹp nữa. Nhạc gia ông Doãn Luân thấy vậy liền xin từ hôn nhân. Doãn Luân trả lời rằng:

- Dung nhan thay đổi nhưng lòng người không thay đổi, khi đã hứa hẹn rồi thì không vì nhan sắc mà quên lời hứa được.

Tự thân ông Doãn Luân thanh cao nên gia đình sau rất hạnh phúc cảm mến cả thiên hạ.

Bần tiện chi giao bất khả hạ đàng.

Vua Quang Võ đời Đông Hán có người chị là Hồ Dương công chúa góa chồng, vua muốn tìm người bạn trăm năm cho chị liền đem hết danh sách các quan trong triều hỏi ý kiến chị, công chúa nói:

- Tất cả các quan trong triều chỉ có Tống Hoằng là người đủ tư cách và nghi biểu khác thường, những người khác không sao bì kịp.

Quang Võ biết ý chị đã vừa lòng Tống Hoằng liền bảo chị ở sau bình phong, rồi cho đòi Tống Hoằng đến vua nói:

Ta nghe tục ngữ có câu:

“Phú dịch giao qúi dịch thê “.

Nghĩa là:

Giàu đổi bạn sang đổi vợ có phải không?

Tống Hoằng liền quỳ xuống tâu:

“Bần tiện chi giao mạc khả vong, tào khang chi thê bất khả hạ đàng “.

Có nghĩa là:

Bè bạn giao du với nhau khi nghèo nay giàu sang không quên nhau; nghĩ tấm mảnh tình vợ chồng khi nghèo khổ, đến hồi vinh hiển không nên phụ nhau.

Vua Quang Võ nghe rồi rất phục, và nói với chị:

- Việc hôn nhân không thành được, con người như vậy không thể đem danh lợi mà cám dỗ được.

Nhị Độ Mai có câu:

“Hạ đường dám lụy tiếng này với ai “.

HỨA DOÃN

Vợ Hứa Doãn là Nguyễn Thị nhan sắc kém lắm. Khi cha mẹ mới cưới về cho Hứa Doãn, lễ xong trông thấy vợ xấu muốn bỏ đi, bèn hỏi:

- Đàn bà có bốn đức, nàng được mấy?

Nguyễn Thị lễ phép cung kính nói rằng:

- Trong bốn đức, thiếp chỉ thiếu dung mà thôi.

Rồi hỏi lại:

- Thiếp trộm nghe kẻ sĩ có trăm hạnh, dám hỏi chàng được mấy?

Hứa Doãn đáp:

- Ta đủ trăm hạnh.

- Trăm hạnh thì đức là đầu, sao chàng hiếu sắc không hiếu đức?

Hứa Doãn không trả lời được, nhìn kỹ thấy vợ có một cử chỉ đẹp, cái đẹp ở tâm hồn, bao nhiêu buồn ghét liền tiêu tan hết; bây giờ chỉ còn lòng kính mến cái nết na, đức độ của Nguyễn Thị. Từ đó Hứa Doãn đem lòng thương yêu vợ và chung thủy đến già.

Luận

Chung thủy của Hứa Doãn trọng về đức tánh nết na. Đức tánh trẻ cũng thế, già cũng thế còn nhan sắc trẻ đẹp, già nua xấu xí, người biết trọng đức tánh không chuộng nhan sắc lẽ tất nhiên là chung thủy.

Người giữ được chung thủy ở gia đình, thì đến quốc gia xã hội, người vẫn là tốt đẹp dầu làm việc gì.

ÁN TỬ

Vua Cảnh Công có người con gái yêu, muốn gả cho Án Tử. Một hôm vua ăn tiệc tại nhà Án Tử, thấy vợ Án Tử liền hỏi:

- Nội tử của tướng công đấy phải không?

Án Tử thưa:

- Vâng, phải.

Vua nói:

- Ôi! Người sao mà xem vừa già vừa xấu, quả nhân có đứa con gái trẻ đẹp, xin cho về hầu tướng công nghĩ sao?

Án Tử đứng dậy thưa rằng:

- Nội tử tôi tuy già xấu, nhưng cùng tôi ăn ở khi còn trẻ đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ đẹp để nhờ lúc già, nội tử tôi nhờ cậy tôi, và tôi cũng nhờ cậy. Nay mà vua muốn ban ơn, chắc cũng không muốn cho tôi ăn ở bội bạc.

Nói rồi Án Tử cúi lạy xin từ.

Luận

Những mẩu chuyện người làm tròn bổn phận làm chồng trên đây, là những người có một tinh thần dũng cảm thắng được tình dục, để giữ tròn bổn phận, thật là đạo đức tánh cao cả. Thông thường thấy sắc đẹp thì lòng dục si làm mù quáng liền, người lanh trí can đảm vén được mây mù giữ được tâm bình tĩnh sáng suốt thật không phải dễ.

Tuy là khó nhưng tâm quyết nhất định làm người thì phải làm cho tròn, nếu không làm được thì mất tư cách con người. Phải noi gương tốt trên để trở nên bậc hiền nhân.

9. BỔN PHẬN VỢ ĐỐI VỚI CHỒNG

Tròn bổn phận làm vợ, kế đến bổn phận làm mẹ, nhờ làm xong bổn phận làm vợ sẽ là một đức độ đủ quyền dạy con. Nếu bổn phận làm vợ kể cả bổn phận làm dâu mà không tròn, rồi những bổn phận kế tiếp đều hỏng hết cả. Vậy bổn phận làm vợ là một nền tảng xây dựng cho gia đình, quốc dân, xã hội không phải nhỏ.

Đại khái bổn phận làm vợ phải giữ tròn tiết hạnh với chồng; phải phụng dưỡng cha mẹ chồng là phần chánh, mặc dù chồng cho phụng dưỡng cha mẹ ruột là phần phụ. Chồng đã giao phó cất giữ tiền của, nhưng không được trọn quyền xài phí, những việc xài quan trọng phải hỏi chồng. Khi chồng nóng giận phải nhịn chớ nóng tánh hỗn ẩu cãi vã, chờ khi chồng hết giận lấy lời nhỏ nhẹ mà giãi bày. Và còn rất nhiều chi tiết ở đây chỉ nói sơ lược, chỗ cần nói và nêu gương tốt xấu, lợi hại của người xưa để lấy đó mà xét nay.

HẠ CƠ

Hạ Cơ con gái vua Trịnh sắc đẹp bậc nhất thời ấy, Hạ Cơ đầu tiên lấy công tử Man. Công tử Man chết sớm, Hạ Cơ lại lấy Ngư Thúc sanh đặng đứa con tên Hạ Trung Thư rồi Ngư Thúc cũng chết.

Sau Hạ Cơ lấy Khổng Ninh lại tư thông với Hàng Nghi Phủ rồi lấy luôn Trần Linh Công cả ba một lượt.

Hạ Trung Thư thấy việc dâm loạn ấy lấy làm bực tức không dằn nổi, bèn mặc giáp nhung tay kiếm dẫn một toán quân bao vây hét lớn:

- Hãy bắt lũ dâm tặc cho ta.

Khổng Ninh và Hàng Nghi Phủ bỏ chạy trước. Hạ Cơ hay được bỏ chạy vào phòng, Trần Linh Công chạy theo nhưng bị Hạ Trung Thư kịp đến đón chẹn cửa phòng. Trần Linh Công nhớ chỗ chuồng ngựa có tường thấp chạy đến đó, phóng ra nhưng bị Hạ Trung Thư bắn theo một mũi tên ghim thủng bụng nhào xuống tắt thở.

Sau Hạ Trung Thư bị vua Sở giết chết.

Thơ Vân Tiên có câu:

“Hạ Cơ tuổi ấy cũng vừa

Sớm đưa Nghi Phủ tối ngừa Linh Công“.

VỢ TRANG TỬ

Trang Tử là người nước Tống đời Lương Huệ Vương. Trang Tử đi chơi thấy con cua cái lột, cua đực giữ miệng hang, đến khi cua đực lột, cua cái dẫn cua đực khác đến xé thây cua đực ăn, lại thấy người đàn bà quạt mồ chồng theo lời trối của chồng, mong cho mồ mau khô, đi lấy chồng khác. Trang Tử về nhà đem việc đó nói lại vợ nghe.

Vợ Trang Tử nghe xong phun nước miếng chê rằng:

- Thứ đàn bà bội bạc, chồng mới chết toan đi lấy chồng.

Trang Tử có phép thuật, nghe vợ nói vậy liền giả đau rồi chết, trước khi chết dặn vợ quàn ba tháng mười ngày rồi chôn.

Trong khi quàn trong nhà vắng, nửa đêm Trang Tử hiện ra một chàng trai đẹp đến gõ cửa, nói là lỡ đường xin ngủ nhờ một đêm.

Vợ Trang Tử thấy người đẹp mà mê mẩn, quên đi tất cả liêm sĩ lễ phép, lại gần quyến rũ, chàng trai ấy liền ưng thuận, nhưng chưa kịp liền ngã lăn ra đau bụng như tắt thở.

Vợ Trang Tử hoảng sợ hỏi trước kia có đau bụng không? Cần thuốc gì uống cho hết?

Chàng trai nói:

- Trước kia cũng có đau bụng như vậy cần có sọ người uống hết ngay, nay đến đây quê lạ đất người làm sao có, chắc phải chết.

Nghe nói vậy, vợ Trang Tử liền chạy ra sau chỗ nhà quàn, lấy búa dứt néo định lấy sọ chồng mình cho tình nhân uống.

Nào dè vừa cạy nắp hàng ra, Trang Tử ngồi dậy cười ngất. Vợ thẹn quá xỉu mà chết.

HAI CON RẮN

Ngày xưa ở tỉnh Sơn Tây có chàng thợ săn tên Dã Tràng. Một hôm Dã Tràng đi săn ngang qua hang núi thấy hai vợ chồng nhà rắn. Rắn cái có bông đốm đẹp lắm, thấy rắn sống hạnh phúc Dã Tràng không động tới, lại hay theo dõi cuộc đời của rắn.

Ngày kia thấy rắn cái nằm bất lực với bộ vỏ mới lột, lại thấy rắn đực ngậm mồi về cho rắn cái ăn và giữ gìn cho rắn cái nằm yên. Không bao lâu rắn cái cứng cáp lại, đến phiên rắn đực nằm bất động, rắn cái đã không chăm sóc lại còn bò đến chỗ khuất, tự tình với rắn đực khác.

Nhìn thấy thú tình lãnh đạm nào khác nhân tình thế thái, Dã Tràng giương cung bắn hai con rắn lang chạ đó, nhưng mũi tên chỉ trúng rắn cái chết tại chỗ, còn rắn đực chạy mất.

Rắn đực trông hoài không thấy vợ về, mãi đến khi cứng cáp liền đi kiếm gặp vợ chết ở ven rừng bên cạnh, mình có mũi tên Dã Tràng. Rắn đực bực tức căm thù liền bò thẳng đến nhà Dã Tràng núp trên nhà chờ dịp trả thù. Trong khi chờ cơ hành động, rắn ta nghe Dã Tràng nói với vợ:

- Trong dịp săn bắn hôm nọ, tôi làm một việc hợp lý: loài rắn mà cũng lăng loàn như người, khi con cái lột vỏ thì con đực tha mồi và gìn giữ, đến lúc con đực lột thì con cái lại thừa cơ đi tư tình ới con rắn đực khác. Thấy sự tàn nhẫn đó, tôi liền giương cung bắn hai con rắn khốn nạn đó chết cho rồi, không dè mũi tên chỉ trúng con rắn cái chết còn con rắn đực kia chạy mất.

Vỡ lẽ ra, rắn đực biết Dã Tràng là người ơn của mình liền bò xuống bái từ rồi bò đi. Đêm sau trong khi chưa ngủ, rắn đực bò đến nhả cho Dã Tràng viên ngọc rồi bỏ đi.

Dã Tràng được ngọc rắn hễ ngậm vào là nghe được tất cả tiếng loài thú.

Luận

Loài thú có tánh thú là dĩ nhiên, nhưng người có tánh thú thì chỉ là xác người mà lòng thú.

DƯƠNG QUÝ PHI

Dương quý phi tên thật là Dương Ngọc Hoàng là vợ của Thọ Vương Mao, vốn là người có công với vua. Vì thấy mình có sắc đẹp mua chuộc được lòng vua, liền bỏ Vương Mao vào hầu vua Đường Huyền Tôn, vì vậy mà có loạn An Lộc Sơn sau này. Huyền Tôn rất sủng ái và gọi là Dương quý phi. An Lộc Sơn làm loạn cũng vì tham luyến Dương quý phi. Cơn chạy loạn vua đem Dương quý phi theo do đó mà giặc theo hoài khó chạy cho khỏi, đến Mã Ngôi các quan ép phải thắt cổ Dương quý phi rồi mới chịu phò vua chạy trốn.

Luận

Một người đàn bà lang tâm, ở gia đình thì gia đình suy sụp, lên địa vị vương giả thì nước mất dân nguy.

VỢ CHÂU MÃI THẦN

Châu Mãi Thần đời nhà Hán rất nghèo mà chăm học, vừa gánh củi đi bán vừa mang sách theo học. Người vợ chê ông nghèo định đi lấy chồng khác, Mãi Thần khuyên:

- Nay tôi bốn mươi tuổi, đến năm mươi tuổi thế nào cũng nên công danh, chúng ta chung sống trong cảnh nghèo khổ đã lâu rồi, nay ráng chờ thêm thời gian nữa để cùng nhau chung hưởng có gì đâu thay đổi.

Người vợ nhất quyết không nghe, chờ Mãi Thần đi bán củi ở nhà xách gói đi lấy một người nông dân khá giả.

Khi Mãi Thần về thấy nhà vắng quạnh hiu, vợ đã bỏ đi, lấy làm chua xót, nhưng vẫn cố gắng học hành, sau khi đậu đời vua Võ Đế được làm quan to.

Vợ Châu Mãi Thần lại hối tiếc, ý muốn ở lại, tìm đến lạy cầu, Châu Mãi Thần nói:

- Như chén nước múc đổ xuống đất mà hốt lại được thì tôi sẽ đem nàng về.

Vợ Châu Mãi Thần lại trở về bị người chồng mới mắng rằng:

- Người thật chỉ biết giàu sang không biết gì tình nghĩa, thay đổi là chuyện xấu xa tệ hại cho xã hội, mà ngươi xem thường không biết xấu hổ.

Xấu hổ quá, vợ Châu Mãi Thần liền thắt cổ mà chết.

Luận

Lời nói của anh nông dân thế vào cho câu kết luận bài nầy, nhưng kể ra vợ Châu Mãi Thần biết xấu hổ chớ!

CON MUỖI HÚT MÁU

Thuở xưa có người nông dân tên là Ngọc Tâm, tánh tình hiền hậu đơn giản, quanh năm chuyên chú làm ăn, nhưng ác hại thay có người vợ thật đẹp tên là Nhan Điệp, tánh tình lười biếng, tối ngày chỉ lo chải chuốt, trang điểm ăn chơi.

Tình nghĩa vợ chồng cũng tưởng đến bạc đầu, nhưng giữa chừng Nhan Điệp đau lăn lộn rồi chết. Người chồng thương vợ quá, liền bán hết đồ đạc chở xác vợ xuống thuyền, chở đi khắp nơi tìm người cầu cứu.

Ngày kia thuyền đến chân núi, Ngọ Tâm ghé thuyền lại rồi lên núi, vừa lên đến núi gặp một lão râu dài tóc bạc giống như tiên ông, chàng liền quỳ sụp xuống xin cứu mạng cho vợ.

Vị tiên ông thấy tình cảnh như vậy rất thương tâm nên bảo:

- Ta sẵn lòng cứu vợ ngươi, nhưng sau này đừng ân hận.

Theo lời tiên ông, Ngọc Tâm chích đầu ngón tay lấy ba giọt máu rưới lên mình vợ, Nhan Điệp lần lần tỉnh dậy và khỏe mạnh như thường.

Thế là hai vợ chồng quay thuyền trở về. Một tối kia thuyền ghé vào bến lạ, Ngọc Tâm lên bờ đi mua thức ăn. Lúc đó bên cạnh có chiếc thuyền buôn lớn, gã lái buôn thấy Nhan Điệp có sắc đẹp, liền tán tỉnh. Nhan Điệp bằng lòng, liền qua thuyền khách buôn rồi rời bến.

Ngọc Tâm quay trở lại thuyền thấy mất vợ, lấy làm khổ sở vội đuổi theo sau một tháng trời mới gặp. Bây giờ Nhan Điệp là vợ lái buôn giàu có, Ngọc Tâm thấy vợ phản bội mới bảo:

- Bây giờ em được hoàn toàn tự do bỏ tôi, song tôi không muốn để gì kỷ niệm nơi mình em, vậy hãy trả ba giọt máu mà trước kia tôi đã cứu sống em lại.

Nhan Điệp thấy sự dứt khoát dễ dàng, nên lấy kim chích máu đầu ngón tay, máu vừa nhỏ ra ba giọt thì nàng ngã ra chết liền.

Dầu đã chết mà người đàn bà phụ bạc kia vẫn luyến tiếc cõi đời, nên hóa thành muỗi đêm đến theo Ngọc Tâm vo ve hút trộm máu, mong trở thành người; nhưng bao giờ được, rồi đời đời phải làm muỗi(1).

(1)Thành ngữ điển tích.

MẠNH QUANG

Mạnh Quang người đời Hậu Hán nổi tiếng nữ trung liệt, vốn con nhà giàu sang, ba mươi tuổi mà vẫn còn kén chồng, có người hỏi tại sao tuổi chừng này mà không chịu lấy chồng?

Nàng đáp:

- Nếu tôi không làm được vợ Lương Hồng thì ở vậy suốt đời.

Lương Hồng cùng ở một huyện với Mạnh Quang, nhà nghèo vì hiếu thảo nuôi cha mẹ mãi đến ba mươi tuổi mà chưa có vợ; nay nghe được lời của Mạnh Quang bèn đến xin cưới về làm vợ.

Mạnh Quang về nhà chồng vẫn quen theo lối phong lưu đài các, vẫn ăn mặc xiêm y rực rỡ đeo vòng vàng chuỗi ngọc đầy cổ tay. Suốt bảy hôm Lương Hồng không ngó tới.

Mạnh Quang mới hỏi:

- Em có làm gì không vừa ý phu quân không, mà đối xử với em tệ bạc vậy?

Lương Hồng nói:

- Tôi ước nguyện có một người vợ đức hạnh, cùng nhau chung thủy vui cảnh nghè khổ, mặc áo bả hài gai, để chung lo buồn vui có nhau. Nay nhận thấy nàng là con nhà đài các, phong lưu không hợp với sở nguyện của tôi do đó tôi thất vọng.

Nghe chồng nói vậy, Mạnh Quang liền cởi bỏ trâm cài lượt giắt, đi chân không, dùng gai ghim búi tóc, ngày ngày theo chồng lo việc đồng ruộng hết sức đắc lực, từ đó gia đình đầm ấm và hạnh phúc. Mỗi khi có vật gì đem cho chồng thì nàng để trên khay bưng ngang mày mà trao, tỏ vẻ kính nể chồng, do đó có câu:

“Cử án tề mi “.

Trong Kiều có câu:

“Đã cho vào việc bố kình

Đạo tòng phu ấy chữ trinh làm đầu “.

ĐÁ VỌNG PHU

Hòn đá Vọng Phu ở tỉnh Bình Định, tương truyền có hai anh em, khi còn nhỏ rủ nhau ra vườn chặt mía ăn, rủi khi róc mía bổ dao trúng đầu em gái máu ra lênh láng, té xỉu. Thấy vậy người anh sợ quá bỏ đi mất, sau lại làm nghề ghe chài.

Nơi quê nhà, sau khi lành vết thương, sống với mẹ khi mẹ mất, một mình bơ vơ đi lưu lạc, lại gặp lại anh nhưng không biết nhau, hai bên lại thương nhau, đến thành việc vợ chồng và sanh được một con trai.

Một hôm nhàn rỗi, chồng bắt chí cho vợ, thấy cái sẹo lớn trên đầu, sanh nghi liền hỏi nguyên do? Người vợ không ngần ngại liền nói thật việc khi còn nhỏ.

Nghe xong câu chuyện, người chồng rất đau đớn, xấu hổ biết vợ là em gái của mình, nhưng vẫn trầm tĩnh không thố lộ gì cho vợ biết việc lầm lẫn tai hại này.

Đến khi chuyến đánh cá, người chồng đem thuyền ra khơi rồi đi biệt tích không về.

Vợ ngày trông tin chồng mà vẫn biền biệt, liền ôm con thơ ra tận mé biển, leo đứng trên hòn đá cao, nhìn ra trông chồng. Cứ mãi nhìn thuyền từ xa ngỡ là thuyền của chồng nhưng đến gần không phải, lại phóng tầm mắt ra xa nhìn chiếc thuyền khác, cứ mãi như vậy quên ăn bỏ ngủ không hay mỏi mệt. Cuối cùng ngưòi đàn bà trinh tiết đau khổ ôm con mà hóa đá. Do đó mới có đá vọng phu, gọi là hòn vọng phu.

“Đó là hòn núi vọng phu

Là người thiếu phụ ôm con trông chồng “.

ĐÁ TINH VỆ

Tương truyền ngày xưa, con gái vua Viêm Đế vượt biển tìm chồng bị chìm thuyền chết ở Đông Hải, hồn hóa thành chim Tinh Vệ vì hận bể sâu ngày ngày tha đá lấp mong cho bể cạn.

Thơ có câu:

“Đá Tinh Vệ lấp Bể Đông

Hận thù mong trả cạn dòng nghiệt oan “.

GƯƠNG VỠ LẠI LÀNH

Đời Trần Hậu Chúa có người em gái là Lạc Xương công chúa nổi tiếng là tài sắc, thêm văn chương lỗi lạc lại đức hạnh hơn người. Vua gả công chúa cho phò mã Đức Ngôn. Đang lúc yên vui bỗng bị nhà Tùy đem quân đến thôn tính tàn phá, vua tôi đều chạy thất lạc. Trong cơn cùng biến, Đức Ngôn bảo vợ:

- Chúng ta không thể thoát thân được, việc cùng phải biến, không thể nào quyến luyến được, vì công chúa là người tài sắc quân giặc không thể để yên đâu, vợ chồng ta không thể nào sum hợp nữa. Công chúa hãy trao cho nhau một kỷ niệm và nhẫn nhục sống để sau này gặp nhau.

Công chúa liền đập bể tấm gương và rồi trao cho chồng phân nửa, còn giữ phân nửa, hẹn nhau sau nầy sống sót thì đúng vào ngày rằm tháng giêng sẽ có người mang nửa mảnh gương này bán ở chợ Trường An, chàng nên nhớ đến đó để tìm chước gặp nhau.

Nhà Trần bị nhà Tùy diệt mất nhưng phò mã Đức Ngôn trốn thoát, còn công chúa Lạc Xương bị tướng Tùy là Dương Tố bắt, vì công chúa có sắc đẹp nên Dương Tố một mực yêu thương.

Đức Ngôn sống lưu lạc rày đây mai đó, sau cùng đến thành Trường An nhằm ngày rằm tháng giêng, lại gặp tỳ nữ rao bán mảnh gương giá rất cao không ai hỏi đến. Đức Ngôn biết tỳ nữ nầy là Công chúa sai đi, liền đến gần mời tỳ nữ vào tửu quán thết đãi xong, đem sự tình nói thật và xin được xem mảnh gương. Đức Ngôn lại lấy mảnh gương của mình ráp lại y nguyên.

Đức Ngôn lại làm một bài thơ:

Chiếu dữ nhân câu khứ

Chiếu qui nhân bất qui

Vô phục hằng nga ảnh

Không lưu minh nguyệt huy

Nghĩa: người đi gương cùng đi

Gương về người không về

Bóng trăng đâu chẳng thấy

Chỉ thấy bóng trăng thề.

Xong rồi trao hết hai mảnh gương và bài thơ cho tỳ nữ đem về.

Công chúa tiếp được mảnh gương và bài thơ, không dằn lòng được, khóc than bỏ ăn bỏ ngủ. Dương Tố hỏi, vì thương chồng quá không còn biết sợ sệt gì cứ nói thiệt tự sự đầu đuôi. Nghe vậy Dương Tố lại thương tình liền cho người tìm Đức Ngôn đến. Dương Tố lại bày ra tiệc rượu đãi Đức Ngôn, lại cố ép Công chúa làm thơ.

Công chúa liền ứng khẩu đọc ngay:

Kim nhựt hà thiến khứ

Tôn quan đới vị quan

Tiêu đề câu bất cảm

Phương tiện tố nhân nam

Nghĩa: ngày nay vật đổi dời

Cũ mới nhìn bỡ ngỡ

Muốn cười không ra tiếng

Khó khăn gẫm kiếp người.

Nghe xong bài thơ, Dương Tố rất cảm động liền giao Công chúa lại cho Đức Ngôn, còn cắt đất xứ Giang Nam cho vợ chồng cùng hưởng.

Nên có câu: “Gương vỡ lại lành“. Để nói lên mối tình dang dở nửa chừng rồi may mắn được sum hợp.

“Tưởng đâu tạo hóa đành hanh

Nào hay gương vỡ lại lành như xưa “.

Luận

Xét theo sử liệu tình duyên trên, người đọc thấy cảm động rồi cho ba nhân vật đều phải. Rồi có cảnh huống nào như vậy mà người chồng quyết bảo vệ và vợ quyết liều chết theo chồng cũng phải, đây thuyết người ta thường cho là hai phải. Nhưng để ý một chút, ta thấy có một phải thôi vì ba nhân vật trên tình cảm quyền tạm thôi.

Luật xử thế cũng không khắt khe buộc tội cho ba nhân vật trên vì tình cảm biến phải quyền, quyền có nghĩa là tạm.

Thử phân tích ba nhân vật trên để tìm cho một lối phải sau nầy:

Trước là Đức Ngôn tình cảm khốn cùng, bất khả kháng, không thể nào bảo bọc được người vợ hiền, tự mình muốn lưu thân lại để lo cho nợ nước sau nầy cũng không thể để cho vợ chết. Xử thế như vậy là làm tròn bổn phận làm chồng. Nhưng sau lại không làm gì được cho nước nhà mà còn lê thân tìm vợ là vào chỗ chết cũng là làm cho vợ buồn tủi rồi cũng chết. Trước kia tự mình không nỡ chết, muốn sống lo cho nước, không nỡ để cho vợ chết, rồi ngày nay đi đến chỗ chết cả hai thì lẽ phải trước kia không còn nữa, may ra là dịp may hy hữu mà được sum hợp thôi. Dầu sum hợp nhưng sao không thấy nổi nhục nhã ê chề cho đời thừa.

Còn Công chúa đáng lý ra phải liều chết theo chồng mới phải, chỉ có con đường đó là phải nhưng vì tình cảm nghe theo chồng lưu thân lại rồi phải làm vợ Dương Tố, tủi hổ ê chề thì còn mong gì gương vỡ lại lành. May ra chồng còn sống sót, may đặng Dương Tố thương tình cho vợ chồng sum hợp là việc ít có. Nếu như Đức Ngôn chết, như Công chúa có con cùng Dương Tố, như Dương Tố giết Đức Ngôn hoặc Dương Tố không trao trả lại thì còn gì gỡ gạc.

Đó chỉ là trường hợp đặc biệt ít có, mà người khách quan ai đọc đến chuyện cảm động khoan dung.

Còn Dương Tố trước kia là tướng thắng trận quyền thế trong tay, nếu thấy sắc đẹp mà vẫn giữ được nghĩa khí quân tử, không say đắm mới là phải. Đằng nầy vừa thấy sắc đẹp, là thú tính nổi lên làm theo dục vọng không tự chủ được. Nhưng còn vớt vát lại phần nào là sau khi rõ tình cảm thì còn chút lương tri cho Công chúa cùng Đức Ngôn sum hợp. Một cử chỉ thay đổi có cảm tình.

Ba người không ai phải tất cả, xử thế như vậy chưa hoàn toàn, người đàn bà nầy không làm tròn bổn phận làm vợ.

VỢ NHẠC DƯƠNG TỬ

Theo Hậu Hán Thư, vợ Nhạc Dương Tử là một người vợ hiền có đức tính tốt, người thời đó gọi là: “kiết phụ“.

Một hôm Dương Tử đi đường lượm được lọ vàng của người làm rơi. Anh ta mừng lắm đem về khoe vợ.

Vợ nói:

- Thiếp trộm nghe người sĩ không uống nước suối “Đạo Tuyền“, người liêm khiết không nhận của “ta lay“, chàng nay lượm của rơi ngoài đường được lợi, ô uế phẩm hạnh thử nên không?

Dương Tử nghe nói sanh lòng hổ thẹn, bèn đem lọ vàng bỏ ra ngoài đồng. Rồi Dương Tử từ giã vợ đi xa để học, học được một năm Dương Tử về thăm nhà.

Vợ quỳ xuống hỏi rằng:

- Chàng về có việc gì không?

Dương Tử nói:

- Ta đi lâu về thăm nhà chớ không có việc gì cả.

Người vợ liền cầm dao đến chỗ khung cửi đang dệt nói rằng:

- Lụa nầy đang dệt đây là nhờ từ lúc nuôi tằm ươm tơ, kéo chỉ mắc lên khung cửi. Nếu đánh đứt đi một sợi đến hàng tấc lần đến thước, như vậy là bỏ hỏng có bao giờ chắp lại được, thì công phu từ trước đến nay đều hỏng đi tất cả. Chàng đi học là để trở nên một người giỏi, nay đang học mà bỏ trở về thì khác nào tấm lụa đang dệt mà bị cắt ngang không?

Dương Tử nghe nói cảm động lắm, bèn trở đi học suốt bảy năm đến thành tài mới về.

Vợ Dương Tử ở nhà vừa làm vừa gởi tiền cho chồng ăn học, lại vừa nuôi nấng mẹ chồng.

Nhạc Dương Tử có vợ hiền như vậy nên sau được vinh hiển. Người sau khen vợ Dương Tử là bậc hiền ngoan, biết cách khuyên chồng, trọn đạo làm vợ trọn đời làm dâu.

Ngạn ngữ có câu:

“Trai khôn vì vợ

Gái ngoan vì chồng“.

Hay câu:

“Giàu vì bạn sang vì vợ“.

Luận

Làm tròn bổn phận làm vợ đối với chồng trong việc xử thế, là việc lo cho xã hội, giả như một người chỉ biết phụng sự cho chồng trọn niềm làm dâu không chống trái, chỉ tùy theo chồng thôi không biết phân biệt phải quấy. Như vậy chỉ làm tròn bổn phận người vợ trong gia đình thôi, chưa phải là tròn bổn phận người vợ đối với chồng trong luật xử thế, chưa phải là hiền nhân.

Ở đây, vợ Dương Tử lại phải làm nuôi mẹ chồng để lo cho chồng ăn học, còn phải làm nuôi cho chồng, trong khi đó người đàn bà làm tròn bổn phận trong gia đình thôi, còn sự sống cho gia đình là bổn phận của chồng. Hơn thế nữa là Nhạc Dương Tử nhờ có vợ khuyên mới làm nên.

Người vợ như Dương Tử là tròn bổn phận hiền nhân vậy.

LƯ THỊ

Phòng Huyền Linh danh tướng đời Đường, lúc còn hàn vi ông lâm bịnh nặng sợ không thể sống đặng nên gọi vợ là Lư Thị đến bên giường mà bảo rằng:

- Bịnh tình tôi nguy ngập, không thế nào sống đặng, nàng còn trẻ không nên ở vậy thủ tiết mà oan uổng một đời. Vậy khi tôi mất, nàng nên lo liệu mà ăn ở phải đạo với người chồng khác.

Lư Thị nghe nói khóc nức nở, bèn vào trong phòng khoét bỏ một mắt để tỏ lòng chung thủy với chồng, nếu chẳng may chồng có chết đi thì thân đã tàn tật không còn ai dòm ngó mà đặng tròn tiết.

Nhưng không bao lâu Phòng Huyền Linh lại hết bịnh, sau vào kinh thi đỗ cao làm quan đến chức tể tướng. Để đáp lại tấm lòng chung thủy của vợ, ông một mực yêu thương vợ không lấy tỳ thiếp, sống một đời giàu sang hạnh phúc.

Luận

Làm vợ mà để cho chồng có tỳ thiếp, cũng tại người vợ một phần nhỏ vậy. Vì nếu người vợ đầy đủ tư cách đối xử, thờ phụng hiếu thảo với cha mẹ chồng, tận tụy lo cho chồng, trọn tình chung thủy phải tỏ ra cử chỉ trọn niềm chung thủy. Nhờ vậy cảm động lòng chồng sẽ đặng bù lại là chung thủy với vợ.

Như Phòng Huyền Linh làm đến quan tể tướng, đâu dễ gì không tỳ không thiếp, nhưng vì cảm động lòng chung thủy của vợ nên đáp lại tấm lòng cao cả ấy.

Hai vợ chồng Phòng Huyền Linh là bậc hiền nhân.

Bài kinh của Lê Quý Đôn:

MẸ DẠY CON VỀ NHÀ CHỒNG

Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới vô khả phu tử!

1) Mày về nhà chồng phải kính, phải răn chớ trái lờiù chồng. Khuyên con giữ đạo làm dâu, bà già nghĩ đã đến lắm vậy.

2) Phù con dại cái mang, lẽ xưa nay vẫn thế. Khuyên con phải kính trọng chồng há chẳng phải đạo lắm ru.

3) Mẹ đưa con ra cửa ý nghĩ rằng: Trong phối định ba giềng đạo cả thực là muôn hóa chí theo ra; mà hôn nhân hai họ giao vui há để một lời chỉ trách đến.

4) Mẹ đưa con ra mẹ càng nghĩ lắm con ạ!

5) Con, con mẹ, mà dâu, dâu người vậy! Hoặc lời ăn tiếng nói chi ra tuồng, tức lành đồn xa dữ đồn xa bảo rằng con, con chi còn nhỏ.

6) Dâu, dâu người, mà con con mẹ vậy! Hoặc trong cửa trong nhà chi có chuyện, lúc yêu nên tốt, ghét nên xấu, rồi xa trách mẹ chi không răn.

7) Về nhà chồng phải kính phải răn, chớ có trái lời chồng con nhé!

8) Lúc ở nhà nhờ mẹ nhờ cha, về nhà chồng nhờ chồng nhớ nghe con! Khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời, chớ bắt chước người xỏ chân lỗ mũi chi lăng nhăng. Như vầy con, như vầy con: đi đến nơi về đến chốn, việc nhà việc cửa cho siêng năng; hỏi thì nói, gọi thì thưa, thờ mẹ thờ cha cho phải lễ. Kính lấy đấy! Răn lấy đấy! Liệu học ăn, học nói, học gói, học mở; khi anh nó hoặc ra xô xát chi lời cũng tươi cũng đẹp, cũng vui cười; chớ như ai học thói nhà ma mà hoặc con cà con kê chi kể lể.

9) Lúc ở nhà là mẹ là con, về nhà chồng là dâu là con nhé! Khôn cho người vái dại cho người thương, chớ bắt chước người thế mặc áo qua khỏi đầu chi khủng khỉnh. Nghe chưa con? Nghe chưa con?Ăn có nơi nằm có chốn, có chồng lời ăn nết ở cho ra tuồng, gọi thì dạ bảo thì vâng thờ mẹ cha cho phải đạo. Kính vậy thay! Răn vậy thay! Chớ cậy khôn cậy khéo, cậy duyên, cậy tài; khi anh nó nổi bầng bầng chi sắc, thì lạy, thì can, thì lễ phép, đừng học chi những tuồng đĩ thõa, mà hoặc dây mơ rễ má chi lôi thôi.

10) Đời có kẻ xem chồng như đứa ăn đứa ở, thậm đến đều mầy tớ chi khinh. Chẳng biết rằng: ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng người. Chẳng suy, chẳng nghĩ, lại ra đều cả vú lấp miệng em, sao chẳng biết xấu chàng hổ ai chi lý! Mẹ khuyên con giữ đạo cương thường, khôn hèn cũng chịu hay dở cũng đành, chớ hoặc sinh vênh vểnh chi môi, khi anh nó giận quá sinh xằng, mẹ, con ắt vèo trôi chi tiếng.

11) Đời mà kẻ giận chồng mà đánh con đánh cái, thậm đến điều mầy tao chi quá. Chẳng biết rằng: Khôn ngoan cũng thể đàn bà, tuy là vụng dại cũng là đàn ông. Bạ ăn bạ nói, lại ra điều múa rìu qua mắt thợ, sao chẳng biết già đón non lẽ chi cơ? Mẹ khuyên con giữ nết thảo hiền, vọt roi cũng chịu, yêu thương cũng nhờ, chớ hoặc lộ sầm sầm chi nét mặt, khi anh nó nói dai thêm chuyện, cha con ắt phải vớ cọc chi cười.

12) Con ơi nhập gia tùy tục, mẹ nhủ cho đạo vợ chi thường; xuất giá tùng phu con phải giữ cho nhà chồng chi phép.

13) Thôi mẹ về!

Bài văn nầy khuyên răn cho người con gái làm dâu thật rất thâm thiết, dầu cho là xưa nhưng nay cũng không thiếu được.

Ai cũng công nhận rằng:

“Thiệt nhu thường tồn, xỉ cang tắc chiết“.

Hay câu:

“Nhu thắng cang nhược thắng cường“.

Thì bài nầy của Lê Quý Đôn dạy cho người làm dâu rất đúng bậc hiền nhân.

10. BỔN PHẬN NGƯỜI LÃNH ĐẠO

Từ xưa đến nay đạo giữ nước an dân chỉ có hai đường lối: nhân trị và pháp trị hoặc nói dụng cương hay dụng nhu. Nhân nhu là lấy lòng nhân cảm hóa dân chúng có tình cảm châm chế tha thứ khoan dung. Pháp cương là lấy luật pháp răn trị gắt gao không chút tình cảm.

Dùng nhân tuy dân chúng biết ơn, lần lần không biết sợ sanh khinh lờn rồi làm bướng làm càn thành ra hỗn loạn mất trật tự khó hồi được.

Còn dùng pháp trị dân chúng ai cũng kinh sợ tạm lấy lại trật tự an ninh nhưng pháp luật khuôn khổ khắt khe, cứ mỗi lần người dân có lỗi nho nhỏ cũng căng thẳng theo pháp luật, lần lần người dân là đối lập của nhà nước họ sẽ thán oán.

Nếu như dùng theo hai phương pháp trên mà người cầm quyền thanh liêm, chánh trực thì cũng dễ bình trị không khó lắm.

Xưa nay cứ xoay qua xoay lại, nhu cho đến dân chúng sanh lờn rồi trở lại cương, cương cho đến dân chúng thán oán rồi trở lại nhu, sao ta không tìm được một lối quân bình?

Ta không dựa theo bên nào và cũng không bắt chước ai, chúng ta có óc phán đoán kinh nghiệm tìm ra lối thích hợp để dung hòa giữa nhu và cương, nhân và pháp. Với lương tâm thận trọng, trí óc minh mẫn dè dặt, luật là để đối xử với nhau quân bình, giữa hai bên ấy ta chỉ xen vào một chữ “lễ“ đó là trung đạo. Lễ tức nhiên có thanh liêm chánh trực, giữ lễ mà thẳng thắng thế là một lối dung hòa lẫn cương với nhu vậy.

Hành pháp đúng luật nhưng lúc nào cũng lễ phép, lễ phải đủ nhân và pháp thiếu một không thành lễ. Khi hành pháp cứ theo luật mà xử không thiên vị, nhưng lúc nào cũng giữ lễ độ. Tội nhân họ có tội đương nhiên họ phải chịu tội nhưng người hành pháp phải tôn nhân phẩm của họ dầu họ đã mất nhân phẩm; không gọi tội nhân bằng mầy tao, hay con kia thằng nọ, không mắng nhiếc chửi rủa, phải lấy lời nhỏ nhẹ lễ phép ôn hòa mà thẳng thắng. Không thiên vị nhưng có lời thương tiếc an ủi, khuyên lơn họ về sau không còn phạm tội nữa. Người hành pháp đối với tội nhân không có thù oán gì cả và phải thông cảm tội nhân, cũng không thù oán gì với người hành pháp.

Dung hòa cương và nhu lấy lễ mà kết hợp thành luật nhưng căn bản là phải liêm sỉ, chánh trực.

Viết không hết lời, nói không hết ý, ở đây chỉ bàn về liêm sỉ, vô liêm sỉ, từ ái, vô từ ái, lễ và vô lễ nhưng chi tiết quân bình nó sẽ hiện bày trong đó là xử thế của bậc hiền nhân.

Tìm cái hay của người xưa ta học theo, cái dở xấu ta tránh.

LỖ ĐỊNH CÔNG

Lỗ Định Công thấy Khổng Phu Tử là người dùng lễ trị rất tài nên triệu về, giao cho giữ chức tướng quốc chỉnh đốn kỷ cương trong nước dạy dân lấy nhơn, lễ, nghĩa, trí, liêm, sỉ, từ ái. Chỉ có trong ba tháng về sau phong tục nước Lỗ cải đổi, các quan lại liêm sỉ, từ ái, các nhà buôn bán không man trá, trai gái phân biệt nhau, không người say sưa, hết kẻ trộm cướp, trong nhà hòa thuận, hết người hung dữ, không còn hỗn loạn, cho đến thấy của rơi người ta không thèm lượm. Các nước du lịch đến được tiếp đãi khiêm tốn, họ nhìn thấy phong tục của nhân dân nước Lỗ, vừa kính vừa sợ lo cho nước Lỗ bành trướng.

Dân nước Lỗ làm bài ca để tôn trọng đức Khổng Tử, bài ca được tụng truyền đến tai nước Tề. Cảnh Công sợ hãi nói với các quan:

- Nếu vậy thời nước Tề sau nầy tất bị nước Lỗ chiếm mất, ta phải tìm cách đề phòng.

Quan đại phu là Di Lâu tâu:

- Muốn cho nước Lỗ không cường thạnh ta nên ngăn đón lại. Bởi con người đặng quyền thế thì hay sanh tự kiêu, thích ăn chơi, xin chúa công chọn mỹ nữ cho đẹp tập cho sành vũ nhạc ca hát, rồi đem tặng cho vua Lỗ. Vua Lỗ sẽ ham mê, tất sanh lười biếng bỏ lễ và Khổng ắt sẽ bỏ đi.

Tề Cảnh Công cho là diệu kế, liền sai Lê Di chọn trong đám gái hát, lựa những nàng thật xinh đẹp, tuổi độ trăng tròn, cả thảy tám mươi người chia làm mười đội, cho mặc toàn gấm vóc, hàng ngày tập múa cho tinh diệu. Khúc hát gọi là Khang nhạc có nhiều vũ điệu cám dỗ phi thường, lối trình bày lạ mắt xưa nay chưa từng có.

Khi tập luyện xong, Lê Di lại chọn một trăm hai chục con ngựa thật đẹp đủ màu sắc trông kỳ thú, rồi sai đem dâng cho Lỗ Định Công.

Sứ giả lại cất một rạp cao giáp ranh nước Lỗ, phía Đông thì bày đoàn nữ nhạc, phía Tây thì bày đoàn ngựa rồi đệ thư vào dâng cho Lỗ Định Công.

Qui Tôn Tư trước kia làm tướng quốc cho nước Lỗ sau giao lại cho Khổng Tử bỉnh chánh làm cho nước hùng cường đem lòng ganh tỵ. Nay nghe nước Tề đem dâng bộ nữ nhạc đẹp lắm lòng ham muốn, liền thay đổi y phục lén ra cửa lao môn để xem. Gặp lúc đang tập diễn, tiếng ca lanh lảnh, điệu múa dịu dàng phô bày sắc đẹp vang vọng tiếng hay. Qui Tôn Tư đứng xem lòng ngây ngất như điên như dại.

Ngày hôm sau lâm triều, Lỗ Định Công hỏi ý kiến về việc nước Tề dâng bộ nữ nhạc. Qui Tôn Tư bước ra tâu:

- Đó là lòng tốt của nước Tề, ta không nên từ chối.

Lỗ Định Công nghe nói sắc đẹp của nữ nhạc lòng đã ham muốn, nay nghe Qui Tôn Tư tâu như vậy rất hạp ý, nhưng còn chưa quyết định vì còn ngại làm như vậy là sai lối trị nước của Khổng Tử.

Nhưng khi bãi triều về sai người mời Qui Tôn Tư đến, cùng mình mặc đồ thường phục lén đến xem. Tôn Tư lại lén sai người đến mật báo với viên nhạc trưởng biết trước phải điêu luyện cho tinh vi, tiếng hát véo von, âm nhạc kích thích điệu múa ẻo lả, làm cho vua Lỗ dù mặt sắt gan cây cũng ngây ngất si tình.

Các thị vệ khoe với Định Công còn đoàn ngựa trông đẹp lắm.

Lỗ Định Công nói:

- Chỗ này xem đẹp chán không đủ giờ để xem, có dư giờ đâu mà xem ngựa!

Về đêm ấy Lỗ Định Công trằn trọc mãi không ngủ được, lòng ham muốn bồng bột không còn tự chủ được, trước mắt cứ lởn vởn hình bóng giai nhân, bên tai còn văng vẳng tiếng nhạc lời oanh thỏ thẻ.

Sáng hôm sau Lỗ Định Công sợ đòi các quan e có nhiều ý kiến cản trở, chỉ đòi một mình Qui Tôn Tư đến để viết thư phúc đáp nhận đoàn nữ nhạc, lại lấy trăm nén vàng tặng cho sứ giả. Rồi đem bộ nữ nhạc vào cung chia cho ba mươi người, còn đoàn ngựa giao cho Ngữ Nhân chăn nuôi.

Lỗ Định Công và Qui Tôn Tư đặng đoàn nữ nhạc lòng mê man suốt ngày tháng không còn nghĩ gì đến việc triều đình.

Khổng Tử hay điều ấy than rằng:

- Thế là nạn tai của dân nước Lỗ đã đến ngày điêu tàn rồi.

Học trò của Khổng Tử là Trọng Do đứng bên cạnh nói:

- Chúa công ham mê sắc đẹp, lười biếng bỏ việc triều đình, ta dầu can cũng không ích gì, chỉ rước họa vào mình thôi, xin thầy đi nước khác hay hơn.

Đức Khổng Tử bỏ nước Lỗ sang Vệ rồi sang Tống.

Do đó mà nước Lỗ đời này đến đời kia vẫn yếu hèn, dân tình hỗn loạn, quan lại tham lam đua nhau giành ăn cho đến mất nước.

Luận

Đường lối của Khổng Tử thật dung hòa, vì đạo ngài thường dạy đạo trung dung về mọi mặt, bởi thuyết trung dung dụng lễ quân bình đem lại cho mọi người dung hòa lẫn nhau không chênh lệch. Lễ lại là liêm sĩ không đam mê tửu sắc. Nay Lỗ Đinh Công ham mê nữ sắc thì bao nhiêu liêm, sĩ, lễ, nghĩa tất cả không còn, nước Lỗ lẽ tất nhiên phải yếu và mất.

TẤN LINH CÔNG

Tấn Linh Công lúc tuổi già lại hoang dâm vô độ, thêm bạo ngược, chỉ ham mê tửu sắc, không kể đến sự dân sự nước gì nữa, dùng quan đại phu Đồ Ngạn Giả là một tên nịnh hót làm càn.

Tấn Linh Công sai Đồ Ngạn Giả lập vườn hoa trong thành, tìm đủ thứ hoa thơm cỏ lạ khắp nơi đem về ở đó. Trong vườn nhiều nhứt là hoa đào, cứ về mùa xuân hoa nở rất đẹp mắt, giữa vườn có xây một cái đài cao lớn có ba tầng gọi là Giáng Tiên Lầu.

Đồ Ngạn Giả lấy vàng vua đem ra làm phân nửa, bỏ túi phân nửa còn tha hồ thâu góp của dân chúng bốn phương, đem về làm giàu, lại còn bắt dân tình làm công khổ sở, đói khát cơ cực mới thành ngôi đài nguy nga tráng lệ.

Hôm nọ lên đài Tấn Linh Công nói với Đồ Ngạn Giả:

- Trên lầu bắn chim chưa vui. Vậy ta với ngươi thi nhau bắn người mới vui. Nếu bắn trúng con mắt thì thắng, bắn trúng mình chân tay không kể, bắn trật thì phạt uống một vò rượu.

Nói xong trao cho Đồ Ngạn Giả một cây cung, rồi hai người đua nhau bắn, dân chúng đang xem múa hát bị bắn tên kẻ trúng đầu, người trúng tay bỏ chạy miệng nguyền rủa vang trời.

Tấn Linh Công giận lắm truyền quân sĩ bắn ra như mưa, chúng dân bị tên lớp chết lớp bị thương kêu khóc ầm ĩ. Tấn Linh Công đứng trên lầu xem thấy vỗ tay cười lớn nói với Đồ Ngạn Giả rằng:

- Ta chơi ở trên lầu nầy chưa lúc nào vui bằng hôm nay.

Từ đó người trong nước không ai dám đi ngang qua đài đó nữa.

Kế nhà Châu đem biếu cho Tấn Linh Công một con mãnh khuyển tên gọi là Linh Ngao, con chó nầy cao ba thước(1), sắc lông đỏ như lửa, lại tinh khôn lắm, biết nghe theo ý chủ sai khiến.

Mỗi khi ai có lỗi lầm, Tấn Linh Công xúi cho con Linh Ngao cắn chết để làm trò chơi. Con Linh Ngao được cấp dưỡng mỗi ngày một cân thịt, do Ngao Nô nuôi dưỡng. Tấn Linh Công đi đâu thì con Linh Ngao dẫn đi theo, ai nấy đều khiếp sợ, dân chúng đều chạy trốn.

Triệu Thuẩn thấy vậy khuyên Tấn Linh Công nên sửa mình chuộng hiền bỏ dữ, nhưng Tấn Linh Công vẫn thản nhiên không nghe lời can. Một hôm bãi triều các quan lui về hết chỉ còn Sĩ Hội với Triệu Thuẩn ở nán lại. Triệu Thuẩn nói với Sĩ Hội:

- Vua không lo chính đạo, không kể đến nhân dân ắt cơ nghiệp nước Tấn điêu tàn.

Sĩ Hội cũng than thở buồn rầu. Giữa lúc đó bỗng cửa cung mở ra, bọn nội thị khiêng một cái giỏ tre đi ra. Triệu Thuẩn hỏi:

- Tại sao trong cung có cái giỏ tre khiêng ra?

Bọn nội thị không đáp cứ cắm đầu khỉêng đi. Triệu Thuẩn nổi giận chạy đến hét:

- Các ngươi không nói ta chém đầu.

Một người trong bọn nói:

- Ngài làm quan tể tướng muốn xem cứ xem, chúng tôi không dám nói vì lệnh cấm của vua.

Triệu Thuẩn đến gần thấy trong giỏ ló ra một cánh tay, liền giở ra xem thấy một cái xác chết. Triệu Thuẩn hỏi:

- Xác nầy của ai? Vì sao khiêng khỏi cung?

Một tên nội thị thưa nhỏ:

- Đây là tên nội thị nấu ăn cho chúa công, vừa rồi chúa công sai nấu thịt gấu, người này nấu chưa kịp chín, chúa công nóng lòng đem chém.

Triệu Thuẩn nói với Sĩ Hội:

- Vua là người nắm giềng mối của quốc gia lo cho nhân dân, nếu coi mạng người như cỏ rác thì thế nào giữ nước được, chúng ta phải can gián.

Sĩ Hội nói:

- Để tôi vào can trước, nếu vua không nghe, tể tướng hãy can sau.

Tấn Linh Công đang ngồi trên ngự ỷ vỗ đầu con Linh Ngao đùa giỡn, thấy Sĩ Hội vào biết là can mình liền nói :

- Ta biết hối lỗi, các ngươi chớ lắm lời.

Sĩ Hội lui ra nói lại, Triệu Thuẩn nói:

- Nếu kẻ có lỗi mà biết sữa chữa thì tốt, chỉ sợ chúa công nói cho qua.

Sĩ Hội nói:

- Nếu chúa công biết hối lỗi ít ngày sẽ có chính lệnh.

Hai người đặt hy vọng vào lòng rồi về dinh.

Hôm sau Tấn Linh Công vẫn bỏ triều, ra chơi nơi vườn hoa như thường lệ. Triệu Thuẩn nói với Sĩ Hội:

- Ta xem hành động của chúa công như vậy là không phải sửa lỗi, ta phải đến vườn hoa khuyên can mới được.

Nói xong đến cửa hoa viên, đợi xe giá Tấn Linh Công đi ngang qua thì đón lại mà yết kiến.

Thấy Triệu Thuẩn đón mình, Tấn Linh Công hỏi:

- Ta không có lịnh triệu sao ngươi lại đến?

Triệu Thuẩn sụp lạy tâu:

- Dẫu một vị vua vô đạo đến đâu, cũng không lấy việc giết người làm vui bao giờ. Nay chúa công nuôi chó cho cắn người, bắn tên vào đầu dân chúng để thi tài, giết kẻ nô bộc không đáng tội. Như vậy sao gọi là vua hiền, thì ai chịu phụng thờ, xin chúa công nghĩ lại, nên tự hối cải ăn năn may ra mới bảo tồn được nước Tấn.

Tấn Linh Công nghe nói lòng thẹn, lật tay áo che mặt nói:

- Nhà ngươi hãy lui về, ta chơi vui một hôm nữa ngày mai sẽ tự lo hối quá.

Triệu Thuẩn nói:

- Người thấy điều lỗi là tai họa thì phải lập tức chừa bỏ, sao còn hứa hẹn. Chúa công đã cho việc chơi bời là trái mà còn lưu luyến thì chưa phải thực muốn sửa đổi.

Nói xong đứng chặn xe không cho vua đi.

Đồ Ngạn Giả thấy thế nói:

- Quan tể tướng can vua là đủ rồi, cản xe giá vua không sợ tội sao? Nếu có điều gì xin để về triều thương nghị.

Tấn Linh Công nói:

- Ta sẽ triệu ngươi vào buổi triều sáng.

Triệu Thuẩn bất đắc dĩ phải tránh qua một bên chừa lối cho Linh Công đi, rồi trừng mắt ngó Đồ Ngạn Giả mắng rằng:

- Mầy là đứa nịnh thần, nước nhà suy vong cũng tại mầy cả.

Đồ Ngạn Giả nhếch miệng cười, rồi cùng Tấn Linh Công vào vườn hoa thưởng ngoạn.

Trong lúc đang vui cười, Đồ Ngạn Giả nhìn Tấn Linh Công thở dài nói:

- Tiếc thay cuộc vui lần này là lần chót.

Tấn Linh Công nói:

- Sao quan đại phu lại nói vậy?

Đồ Ngạn Giả nói:

- Tôi chắc rằng từ nay tể tướng Triệu Thuẩn không để chúa công đến đây nữa.

Tấn Linh Công giận nói:

- Từ xưa đến nay chỉ có vua kềm chế bầy tôi, chớ bầy tôi sao lại kềm chế vua, ý ta không muốn để kẻ nào áp bức ta.

Đồ Ngạn Giả nói:

- Nếu còn Triệu Thuẩn thì không bao giờ chúa công đặng tự do.

Tấn Linh Công nói:

- Phải làm cách nào để trừ được Triệu Thuẩn?

Đồ Ngạn Giả nói:

- Tôi có một người tên Thư Nghê, người ấy nghèo lâu nay được tôi chu cấp, vì cám ơn tôi dẫu chết để đền ơn người ấy cũng không từ chối, nay sai Thư Nghê giết Triệu Thuẩn ắt xong.

Tấn Linh Công nói:

- Nếu làm được việc ấy thì công của ngươi rất lớn.

Đêm hôm ấy Đồ Ngạn Giả sai đòi Thư Nghê đến nói:

- Triệu Thuẩn chuyên quyền, nay ta phụng chiếu vua sai ngươi đi giết Triệu Thuẩn. Vậy ngươi nai nịt hẳn hòi, sáng mai chực ở cửa tư dinh Triệu Thuẩn, chờ hắn ra thì xông vào đâm chết. Việc làm phải thận trọng đừng để thất bại.

Thư Nghê vâng mệnh, giắt con dao vào mình rồi thẳng đến tư dinh Triệu Thuẩn. Lúc đó trời tờ mờ sáng, xe đã chực sẵn ở cửa, Thư Nghê lẻn vào trong xem thấy Triệu Thuẩn đã mặc áo đai triều đầu đội mão, tay cầm hốt, vẻ mặt trầm tư đang ngồi chờ đến giờ vào triều.

Thư Nghê xem thấy thất kinh nghĩ rằng:

- Kẻ lo việc nước là bậc trung thần, cớ sao nhà vua lại truyền giết đi? Nay ta nghe theo giết tôi trung thần là bất trung, mà không giết trái lệnh là bất tín.

Nghĩ rồi liền đứng trước cửa nói lớn:

- Tôi là Thư Nghê đây, thà là trái mệnh vua chớ không nỡ hại kẻ trung thần.

Nói xong rút đao tự tử. Quân tùy tùng áp lại thì Thư Nghê đã tắt thở.

Quan xa hữu là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẩn:

- Vua làm việc ám muội nhưng Thư Nghê thật đáng khen. Việc đã xảy ra nỗi này, xin tể tướng chớ vào triều e có biến.

Triệu Thuẩn nói:

- Vua đã hẹn ta sáng vào triều thương nghị, nếu ta không đến là trái lịnh vua. Việc sống chết của ta đâu bằng việc nước.

Nói xong truyền quân đem xác Thư Nghê chôn dưới gốc cây rồi đi thẳng đến cửa cung.

Tấn Linh Công thấy Triệu Thuẩn không chết, đưa mắt ngó.

Đồ Ngạn Giả nói:

- Thư Nghê đi rồi, lại có tin Thư Nghê tự vẫn, tôi không rõ ý gì? Song cứ như việc này thì cơ mưu đã thất bại.

Tấn Linh Công hỏi:

- Thế thì phải làm cách nào để trừ Triệu Thuẩn?

Đồ Ngạn Giả nói:

- Ngày mai chúa công vời Triệu Thuẩn vào cung uống rượu, phục quân sẵn sau tường. Lúc đang uống rượu, chúa công bảo Triệu Thuẩn đưa gươm ra xem. Tôi đứng bên chờ Triệu Thuẩn rút gươm khỏi vỏ, sẽ quát to rằng: Triệu Thuẩn thí vua, sẽ hô võ quân giáp sĩ bắt Triệu Thuẩn giết đi. Như thế bệ hạ khỏi mang tiếng giết đại thần.

Tấn Linh Công cho là diệu kế, liền nói với Triệu Thuẩn rằng:

- Quan tể tướng đã vì nước hết lòng khuyên ta sửa lỗi. Ta cảm ơn ấy nên đã định ngày mai xin mời tể tướng vào cung ta đối ẩm để ghi nhớ ngày nay ta sửa lỗi.

Sáng hôm sau Triệu Thuẩn vâng mạng vào cung, có quan xa hữu là Đề Minh đi theo.

Khi bước lên thềm, Đồ Ngạn Giả bảo Đề Minh:

- Nay chúa công mời tể tướng uống rượu, cấm người khác không ai được bước lên thềm cung.

Đề Minh không biết nói sao đành đứng dưới thềm.

Triệu Thuẩn bước lên thềm, sụp xuống lạy hai lạy rồi ngồi cùng Tấn Linh Công dự tiệc.

Khi rượu được vài tuần, Tấn Linh Công hỏi:

- Ta nghe tể tướng có thanh gươm tốt lắm, vậy cho ta xem.

Triệu Thuẩn không biết mình bị lừa, toan rút gươm đeo bên mình ra. Đề Minh xem thấy thất kinh nói lớn:

- Bề tôi đến hầu vua còn không được uống rượu quá chén, sao tể tướng dám rút gươm trước mặt vua?

Triệu Thuẩn hiểu ý đứng dậy ngay, tức thì Đề Minh bước lên kéo Triệu Thuẩn xuống. Đồ Ngạn Giả biết cơ mưu bại lộ, liền hô con Linh Ngao đuổi cắn. Triệu Thuẩn và Đề Minh chạy đến cửa cung thì con Linh Ngao đuổi kịp, Đề Minh giựt cây dùi đồng đập con Linh Ngao gãy cổ.

Tấn Linh Công tức giận hô giáp sĩ đuổi theo. Đề Minh đánh chặn cửa cung để cho Triệu Thuẩn chạy. Quân giáp sĩ chém Đề Minh đứt làm hai đoạn.

Giữa lúc đó Triệu Sóc hay cha bị nạn cũng vừa đem quân đến cứu.

Hai cha con đánh đuổi quân giáp sĩ chạy trở về.

Triệu Thuẩn nói:

- Cha con ta không thể về dinh được mà phải tìm nơi lánh nạn.

Triệu Sóc nói:

- Phụ thân định đi đâu?

- Một là sang nước Địch, hai là sang nước Tần. Bây giờ hai cha con ta ra cửa Tây mà trốn đi.

Tuy không giết được nhưng thấy Triệu Thuẩn đã trốn, Tấn Linh Công an lòng, vì không còn ai cản trở nữa, rồi cùng cung quyến ra vườn hoa ở không về cung nữa.

Triệu Xuyên đi săn ở Tây Giao về gặp cha con Triệu Thuẩn đang tị nạn, liền hỏi đầu đuôi tự sự.

Triệu Thuẩn nói:

- Ta không thể ở lại nữa được, ngươi hãy về tìm cách cứu lấy nước nhà.

Triệu Xuyên nói:

- Thúc phụ chớ sang nước khác vội, hãy đợi trong mấy ngày con dò xét tin tức đã.

Triệu Thuẩn nói:

- Nếu vậy ta đóng quân ở Thủ Dương Sơn, còn ngươi phải cẩn thận kẻo mang vạ vào thân.

Triệu Xuyên từ biệt trở về kinh thành, nghe tin Tấn Linh Công đem cung quyến ra ở nơi hoa viên, mới giả cách vào yết kiến để xin lỗi cho Triệu Thuẩn.

Triệu Xuyên tâu:

- Tôi chính là người thân thích của Triệu Thuẩn. Nay Triệu Thuẩn có tội, tôi đâu còn dám hầu chúa công, vậy chúa công cho phép tôi từ chức.

Tấn Linh Công tin Triệu Xuyên thực lòng nên nói:

- Triệu Thuẩn vô lễ, nhiều lần cưỡng ép ta nên ta mới giận, còn nhà ngươi có can chi mà từ chức.

Triệu Xuyên nói:

- Tôi thiết tưởng vua chỉ quý hơn người là được cách ăn chơi thoả thích, nay chúa công khiêm tốn chỉ có tạm vui như vậy mà tể tướng lại cản ngăn thật là đắc tội. Nay tể tướng đã trốn đi rồi, thần xin phục vụ chúa công đầy đủ chút vui để nhàn khi tuổi già có hại gì đâu? Nay Chúa công lập hoa viên, nhạc khí mà thiếu mỹ nữ thì lấy gì mà vui. Tề Hoàn Công xưa ngoài chánh cung ra, còn biết bao cung nữ. Tiên quân ta là Tấn Văn Công lúc lưu vong đi đến đâu lấy vợ ở đó, lúc về nước đã ngoài sáu mươi mà gái đẹp đầy cung.

Nay chúa công lập hoa viên, thì cũng nên chọn mỹ nữ để thưởng thức ca múa cho vui.

Tấn Linh Công nói:

- Nhà ngươi nói rất hạp ý ta, nay ta muốn tuyển gái đẹp nhưng chưa biết giao cho ai?

Triệu Xuyên nói:

- Việc nầy giao cho đại phu Đồ Ngạn Giả là xong.

Tấn Linh Công liền khiến Đồ Ngạn Giả đi tuyển gái đẹp, bất cứ trong thành ngoài ấp ai có con gái đúng tuổi, đều phải đem dâng nạp để tuyển lựa, hạn trong một tháng phải xong.

Đồ Ngạn Giả đi rồi, Triệu Xuyên nói với Tấn Linh Công:

- Những quân thị vệ trong vườn hoa rất ít, nếu xảy ra bất trắc khó xoay trở cho kịp thời, nay tôi vừa mới tuyển được một số quân thị vệ xin chúa công cho phép xung vào.

Tấn Linh Công y tấu, Triệu Xuyên liền về dinh tuyển hai trăm giáp sĩ của mình.

Bọn giáp sĩ thưa:

- Chẳng hay tướng quân định sai chúng tôi đi đâu?

Triệu Xuyên nói:

- Chúa công vô đạo tàn ác với nhân dân, ham vui chơi chốn vườn hoa, lại sai ta tuyển quân thị vệ để ngày đêm túc trực. Bọn ngươi ai cũng có vợ con nếu đi vào đó bao giờ sum họp với gia đình?

Bọn giáp sĩ than thở:

- Đứa hôn quân vô đạo tàn ác còn trị nước ngày nào, tai họa còn chồng chất lên đầu muôn dân ngày ấy. Nếu Triệu tể tướng mà còn ở nhà đâu có nỗi này!

Triệu Xuyên nói:

- Ta có một ý kiến, muốn đem bàn với các ngươi chẳng biết có nên chăng?

Bọn giáp sĩ nói:

- Nếu tướng quân có cách gì cứu chúng tôi thoát ra khỏi cảnh khổ này, dầu phải gian khổ đến đâu chúng tôi chẳng dám từ.

Triệu Xuyên nói:

- Chỗ vườn hoa không kín đáo bằng chốn thâm cung, đêm nay chờ đến canh hai các ngươi xông vào Giáng Tiên Lầu đòi ban thưởng, lúc nào ta vẫy tay áo ra hiệu các ngươi áp lên giết hôn quân đi, rồi triệu quan tể tướng về mà lập vua khác.

Bọn giáp sĩ đều đồng thanh: Xin tuân lệnh.

Đêm nay Tấn Linh Công cùng Triệu Xuyên uống rượu trên lầu Giáng Tiên, vưà đến canh hai bỗng nghe vườn hoa có tiếng huyên náo.

Triệu Xuyên nói:

- Đây chắc là quân thị vệ đánh đuổi những kẻ đi đêm, tôi xin ra phủ dụ để chúng khỏi kinh động đến thánh giá.

Nói xong Triệu Xuyên truyền thắp đèn lồng rồi từ trên đài bước xuống mở cửa. Bọn giáp sĩ kéo vào. Triệu Xuyên bảo bọn giáp sĩ đứng dưới, rồi lên nói với Tấn Linh Công rằng:

- Quân sĩ hay chúa công ngự tiệc nên muốn xin ít lộc thừa chứ không có điều chi.

Tấn Linh Công truyền nội thị đem rượu thịt xuống lầu ban thưởng, rồi đứng trên bao lơn xem xuống.

Triệu Xuyên hô lớn:

- Chúa công đã thân hành ra đây ban thưởng vậy các ngươi hãy lạy tạ.

Nói rồi vẫy tay áo ra hiệu, quân sĩ trông thấy kéo nhau lên lầu.

Tấn Linh Công sanh nghi, sợ sệt nói với Triệu Xuyên:

- Quân sĩ lên đây để làm gì? Ngươi mau mau phải truyền cho chúng nó trở xuống.

Triệu Xuyên nói:

- Chúng muốn lên yết kiến chúa công để cám ơn chúa công ban thưởng.

Tấn Linh Công đã biết bị Triệu Xuyên lừa nhưng chưa kịp nói lời nào thì quân giáp sĩ đã áp tới đâm chết.

Các quan triều thần hay tin, họp nhau đón Triệu Thuẩn về lo việc nước.

Luận

Dân lấy ăn làm gốc nước lấy dân làm mạnh, nay vua coi dân như cỏ rác thì làm sao dân không oán ghét.

VƯƠNG TỬ ĐỐI

Vương Tử Đối là con vua Trang Vương nhà Châu, mẹ là Diên Cơ. Trang Vương rất mến thương Vương Tử Đối, sai quan đại phu là Sĩ Quốc làm thái thơ dạy dỗ.

Vương Tử Đối có tánh thích chơi trâu, một mình nuôi hơn hai trăm con trâu, ngày nào cũng cho ăn uống rất kỹ lưỡng, lại cho trâu mặc toàn gấm vóc và đặt tên là Văn Thú.

Tử Đối đi đâu đàn trâu theo đó, dẫm nát cả ruộng vườn của dân chúng mà không ai dám nói chi, chỉ để bụng căm hờn. Chẳng những vậy người dân nào tỏ vẻ buồn tức là bị tội ngay; trong khi ruộng mình bị trâu dẫm đạp mà vui lên thì yên.

Tử Đối còn kết thân với năm quan đại phu là Quốc Vĩ, Biên Bá, Tử Cầm, Chúc Quy, Thiểm Thủ là những kẻ có thế lực trong triều, lúc Châu Ly Vương còn ở ngôi cũng phải nể.

Sau Châu Ly Vương chết, con là Huệ Vương lên ngôi, Tử Đối là chú của vua ỷ mình lên mặt cao ngạo, tác tung tác quái, hơn nữa dân chúng căm phẫn nhưng vẫn phải bụm miệng.

Châu Huệ Vương rất ghét tìm cách trấn áp Tử Đối nhưng bên trong có kẻ phản nghịch, bên ngoài vua nước Vệ là cựu thù nhà Châu, nên đem binh giúp Vương Tử Đối cướp ngôi, Châu Huệ Vương chạy trốn sang nước Yên.

Bây giờ Trịnh Lệï Công muốn giúp nhà Châu để lấy oai trấn áp chư hầu, nên đem quân đến đất Yên rước Châu Huệ Vương về, một mặt cho người sang hiểu dụ Vương Tử Đối trả ngôi.

Vương Tử Đối còn lưỡng lự chưa quyết.

Quốc Vĩ quỳ tâu:

- Ngày nay bệ hạ không khác nào kẻ cỡi cọp, nếu bước xuống ắt bị cọp ăn, vả lại mình đang làm thiên tử mà trở xuống làm tôi không được. Trịnh Lệ Công muốn lừa bệ hạ, xin bệ hạ chớ nghe.

Vương Tử Đối nghe lời liền đuổi sứ Trịnh về nước. Trịnh Lệ Công nổi giận họp binh với nước Quắc cất quân phò Châu Huệ Vương ồ ạt kéo đến Lạc Vương vấn tội.

Vĩ Quốc hay tin vội vã vào tâu với Vương Tử Đối nhưng Tử Đối mắc bận việc cho trâu ăn nên không ra tiếp.

Vĩ Quốc nói lớn:

- Việc nguy lắm rồi!

Liền giả lịnh vua sai các tướng đem quân ra đối địch. Quân sĩ và dân chúng nhà Châu vốn ghét thù Vương Tử Đối nên bên ngoài thì dân chúng trợ lực cho Châu Huệ Vương, bên trong quân sĩ ra khỏi thành đều bỏ chạy về phía Châu Huệ Vương.

Vĩ Quốc thấy thế vội vã thảo chiếu sai sứ sang nước Vệ cầu cứu, nhưng tờ chiếu thảo chưa xong có quân vào báo: Châu Huệ vương đã vào ngự triều rồi.

Vĩ Quốc biết thế không thoát thân được bèn rút gươm tự tử. Vương Tử Đối chạy ra cửa Tây khiến Thạch Tốc lùa trâu chạy trước vì vẫn còn tiếc bầy trâu không chịu bỏ, trâu quá mập đi chậm chạp, quân Trịnh đuổi theo kịp bắt được Vương Tử Đối, Châu Huệ Vương khiến quân dẫn Vương Tử Đối ra pháp trường xử trảm.

Luận

Sở thích ai cũng có nhưng đó là việc tư riêng, không thể lấy việc chơi của mình mà hành hạ dân chúng, một khi đã bị dân chúng ghét rồi, mà còn muốn leo lên địa vị cao quyền thế lớn đó là lâm vào chỗ chết. Vương Tử Đối đã coi dân chúng không bằng con trâu, đó là cái mầm mống tan thân mất mạng, thế mà Vĩ Quốc lại mù quáng phò tá kẻ bạo ngược đó là việc làm tự đem mình vào chỗ chết vậy.

VỆ Ý CÔNG

Vệ Ý Công lên ngôi chín năm ròng rã mà không làm gì lợi dân ích nước cả, cứ ngồi không mà hưởng lợi, thích chơi chim hạc.

Giống chim này tánh ưa sạch sẽ, hình dung tao nhã, hát hay múa khéo.

Người trong nước thấy vua ưa thích, đua nhau bắt chim hạc đem đến dâng rất nhiều. Hễ chim nào tốt thì Vệ Ý Công thưởng cho người đó phẩm hàm lương bổng, chim nào thật đẹp hơn, nhứt hạng nữa thì cấp cho người đó hưởng lộc đại phu, xem như một triều đình chim hạc.

Mỗi khi Vệ Ý Công đi đâu thì chim hạc theo đậu chung quanh xe giá, gọi là hạc tướng quân. Những người nuôi chim hạc cho ăn lương bổng rất hậu, triều đình phải thâu thuế rất nặng để đi tiêu cấp cho hạc.

Trong triều có hai tên trung thần là Thạch Kỳ và Ninh Tốc can gián nhiều lần nhưng Vệ Ý Công không nghe.

Chẳng bao lâu quân Bắc Địch kéo đến đánh, gặp lúc Vệ Ý Công đang sai người đẩy xe hạc đi chơi nghe báo thất kinh hạ lịnh gọi quân đi đánh giặc.

Dân nước Vệ đều bỏ đi trốn hết không ai ra đầu quân. Vệ Ý Công sai quan Tư Đồ bắt khắp nơi mới được năm trăm người dẫn về triều tra hỏi:

Dân chúng thưa:

- Chúa công dùng một giống vật có thể ngăn được giặc Bắc Địch hà tất phải gọi dân chúng làm gì?

Vệ Ý Công còn ngu muội hỏi:

- Giống vật nào có thể đuổi giặc được?

Dân thưa:

- Giống chim hạc.

Vệ Ý Công quát mắng:

- Giống chim hạc làm thế nào đánh giặc cho được, các ngươi dám dùng lời khi quân thế sao?

Dân chúng vẫn không sợ đáp:

- Chim hạc không biết đánh giặc thì nó là vô dụng, thế mà chúa công dùng vật vô dụng cho hưởng lộc nước, còn kẻ hữu dụng thì lại bỏ đi, như vậy làm sao cơn hữu sự dân chúng không bỏ.

Vệ Ý Công tỉnh ngộ, dịu giọng nói:

- Nay ta hối lỗi, ta sẽ theo ý dân đuổi hết chim hạc đi.

Thạch Kỳ nói:

- Xin chúa công hãy thực hành ngay ý định ấy, e trễ lắm rồi khó lấy lòng dân lại được.

Vệ Ý Công tức khắc cho người đuổi hết chim hạc, nhưng chim hạc lâu nay được nuôi nấng quen nơi ăn chỗ ở, cứ quanh quẩn mãi trong cung.

Thạch Kỳ và Ninh Tốc ra đứng giữa chợ giảng dụ dân chúng, nói rõ lòng hối hận của Vệ Ý Công, dân chúng mới chịu nhập ngũ thì lúc đó quân Bắc Địch đã kéo đến đất Huỳnh Trạch rồi.

Thạch Kỳ bàn với Vệ Ý Công:

- Quân Bắc Địch mạnh lắm chớ khinh thường, tôi xin sang nước Tề cầu cứu, nhờ binh Tề giúp sức mới được.

Vệ Ý Công nói:

- Ngày trước Tề phụng mạng thiên tử đem quân chinh phạt nước ta dẫu không bắt tội, nhưng từ ấy đến nay ta chưa sang tạ tội, nay chắc gì Tề chịu giúp? Chi bằng ta quyết chiến với giặc một phen cho rồi.

Ninh Tốc nói:

- Nếu vậy chúa công hãy lo bảo vệ thành trì để tôi cầm quân quyết tử cho.

Vệ Ý Công nói:

- Nếu ta không thân hành ra trận, lòng căm thù của dân chúng không bao giờ cởi mở.

Nói xong trao cho Thạch Kỳ một cái ngọc quyết làm lịnh, dặn:

- Ta giao việc nước cho khanh, hãy ráng vì ta mà làm tận tâm.

Lại giao cho Ninh Tốc một mũi tên lịnh và nói:

- Khanh ráng lo giữ thành, nếu không đánh lui được quân địch ta nguyện không trở lại.

Thạch Kỳ và Ninh Tốc đều ứa nước mắt nhìn Vệ Ý Công nghẹn ngào không nói được lời.

Vệ Ý Công đã ăn năn nhưng lòng oán hận của dân chúng đã lan tràn chưa nguôi. Lúc đi đường, dân chúng hát lên nhiều câu còn đầy uất hận:

Hỡi chim hạc ! Hỡi chim hạc !

Lầu son bát ngát

Chim hạc ăn lương

Đồng rẫy ruộng nương

Dân thưòng cày cấy

Hạc vui chơi bay nhảy

Hạc xuống ngựa lên xe

Dân cực khổ trăm bề

Khi hữu sự bắt lê ra chiến trận

Đi phen này số phận mong manh.

Vệ Ý Công nghe hát buồn rũ rượi. Khi đến đất Huỳnh Trạch trông thấy quân Bắc Địch hàng ngũ lộn xộn, ngựa xe nghinh ngang không tề chỉnh. Cừ Khổng nói:

- Quân Bắc Địch như vậy mà bảo là mạnh, thật ta lầm to.

Nói xong giục trống xua quân sĩ xáp chiến, quân Bắc Địch bỏ chạy, quân Vệ ào đến chỗ phục binh ào ra đánh.

Quân Vệ không có lòng đánh giặc, lại chưa có luyện tập thấy giặc quá mạnh liền hè nhau bỏ chạy.

Tình thế nguy ngập, Cừ Khổng nói:

- Tình thế rất nguy, xin chúa công bỏ cờ hiệu thay y phục xuống xe chạy trốn may ra thoát được.

Vệ Ý Công thở dài nói:

- Thà ta liều chết để tạ tội với nhân dân còn hơn.

Cuối cùng chết trong đám loạn quân.

Luận

Tôn trọng dân chúng là tôn trọng nước, tôn trọng mình; nay xem dân thua loài vật, nhân gieo đã lâu quả đến còn ăn năn sao kịp. Chà đạp dân chúng là chà đạp đất nước, đó là tự chà đạp mình, phải thận trọng ngay ban đầu, chớ để cho đến lúc lòng người đầy oán hận thì làm sao chuộc lại được nữa.

Những kẻ hại dân hại nước ai cũng ghét thì những người vì dân vì nước muôn đời ai cũng ca tụng là bậc hiền nhân vậy.

HẬU TẮC

Hậu Tắc là hiền thần đời vua Thuấn có công dạy dân cày cấy, làm quan điền chính, đốt chằm ngăn thú, giữ cho dân cày cấy không giây phút nào xao lãng. Ông thường nói:

- Dân chúng mà đói khát là tội về tôi.

ÔNG VŨ

Lại Ông Vũ thời với ông Tắc, giữ chức tư không coi
việc đê điều ngăn nước sông Hồng Hà khỏi bị ngập lụt cho dân cày cấy. Công việc rất nhiều ông phải làm quần quật với dân, thường đi ngang nhà vợ con mà không ghé thăm.

Ông tự nói:

- Dân chúng bị lụt hại thất mùa là tội về tôi.

Luận

Làm quan mà thương dân như vậy làm gì nước không mạnh, dân không an. Trọng dân là trọng nước cũng là trọng mình vậy. Thật đáng bậc hiền nhân vậy.

MẠNH THƯỜNG QUÂN

Mạnh Thường Quân là con của Điền Anh làm Tướng quốc nước Tề. Thường Quân tên thật là Điền Văn, khi mười tuổi đã giao du khắp nơi kết bạn bè rất thiết, tân khách bạn bè của Điền Văn ra vào tới lui tấp nập. Sứ giả các nước đến Tề cũng xin đến yết kiến Điền Văn.

Khi Điền Anh mất, Điền Văn nối cha làm chức Tiết công và từ đó gọi là Mạnh Thường Quân.

Mạnh Thường Quân có xuất vốn cho dân đất Tiết vay. Năm đó Mạnh Thường Quân sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ và dặn khi về coi nhà này vật gì không có thì mua.

Phùng Huyên đến đất Tiết bảo dân chúng đem giấy nợ ra mà nói rằng:

- Chủ tôi muốn làm việc nghĩa, sai tôi đến đây thăm bà con nhân dân và hủy hết giấy nợ.

Nói xong đốt hết giấy nợ rồi từ biệt ra về, khi về đến nhà Mạnh Thường Quân hỏi, Phùng Huyên nói:

- Tướng quân sai tôi đi đòi nợ rồi coi trong nhà vật gì không có thì mua, tôi thấy nhà này đầy cả vật quý không thiếu, chỉ thiếu món nghĩa nên tôi đã mua nghĩa hết rồi.

Mạnh Thường Quân nghe nói bỏ qua.

Sau Mạnh Thường Quân bị nạn cùng Phùng Huyên chạy sang đất Tiết. Khi vừa đến nơi, dân đất Tiết hay tin liền đua nhau đón rước, chia nhau đãi ăn mỗi ngày.

Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:

- Đó là món nghĩa tôi mua cho ngài trước đấy.

Luận

Dân là chỗ chân đứng cho người cầm quyền, nếu không nhờ Phùng Huyên mua nghĩa cho thì Mạnh Thường Quân đến ngày nay không chỗ đứng yên để dung thân vậy.

Người hiền là Phùng Huyên vậy.

LIỄU TÔN NGUYÊN

Tiết Tồn Nghĩa người ở Hà Đông sắp đi làm quan. Ông Liễu Tôn Nguyên làm tiệc tiễn đưa ở bờ sông, rót chén rượu mời Tồn Nghĩa mà nói rằng:

- Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của mình là người làm việc cho dân chớ không phải bắt dân làm việc cho mình. Dân ở trong địa hạt đã chịu nộp thuế để lấy tiền thuê quan giữ sự công bằng cho dân. Nay ngán thay người ta ra làm quan, tiền thuế của dân là biết lấy cả, còn công việc của dân thì trễ biếng, hoặc bắt dân phải làm, thường hay dụng tâm ăn trộm của dân nữa.

Giả như ta thuê một người làm việc trong nhà, nó đã lấy tiền thuê mà lười biếng không làm việc, lại còn ăn cắp đồ vật trong nhà thì ắt ta giận mà trách phạt và đuổi đi, là người mướn có thế lực. Còn dân ra tiền thuê quan thì đằng thuê không có thế lực, còn người làm mướn có thế lực nên dân không làm sao được. Thế lực dầu khác mà lý vẫn một. Kẻ làm quan nếu còn biết công lý thì dân vui đóng tiền, quan cố làm đáng đồng tiền thuê của dân.

Này Tồn Nghĩa, ngươi trước đã làm quan huyện ở Linh Lăng hai năm, ngày ngày dậy sớm, đêm đêm suy nghĩ, chính sự siêng năng, xử kiện công bằng, thu thuế công minh, già trẻ không ai đem lòng thù ghét, ngươi thật biết sợ và giữ gìn lắm, cho nên ngươi lấy tiền thuế của dân là rất đáng vậy.

Ta đây chức nhỏ không được dự vào việc bàn bạc, xét công cho kẻ đi làm quan để thăng thưởng hoặc giáng trách, ta chỉ biết ngươi đi làm quan nên thưởng tiệc rượu này lấy lời trân trọng mà tiễn hành.

Luận

Lời nói của Liễu Tôn Nguyên rất xác đáng. Vì dân đã ra nộp tiền thuế nhà nước đã liệu số tiền đó mà thuê lại các quan sở ra làm việc, thì rõ là làm thuê cho dân. Nay ra làm quan không làm cho dân, nếu làm quan mà tròn bổn phận thì không còn phải có chuyện gì xãy ra nữa cả, sẽ nên danh hiền vậy.

TÔN THÚC NGAO

Tôn Thúc Ngao làm quan Lệnh doãn nước Sở, cả nước quan dân đều mừng.

Sau cùng có một ông lão mặc áo vải đội mũ trắng đến viếng.

Tôn Thúc Ngao thấy thế, ăn mặc chỉnh tề ra rước ông lão vào đến mời ngồi rồi thưa rằng:

- Vua chúng tôi không biết tôi là người bất tài, quá tin mà cho tôi làm quan sợ có hại cho dân, ai ai đều đến chúc mừng, giờ ông lão đến viếng chắc có ý kiến gì dạy cho chăng ?

Ông lão nóiù:

- Thân đã sang mà khinh người thì dân không chuộng, chức đã cao mà chuyên quyền vua sanh ghét, lộc đã hậu mà không tri túc thì gặp phải vạ tai.

Tôn Thúc Ngao vừa vái vừa nói:

- Xin kính vâng lời. Xin lão ông dạy thêm.

Ông lão nói:

- Chức đã cao ý càng khiêm cung, quan đã to tâm càng tế nhị, lộc đã hậu càng phải cẩn thận, chớ có lấy xằng lấy bậy. Ông được ba điều ấy là đủ an dân vậy.

Luận

Có lắm người làm quan lớn biết khiêm tốn để học lẽ phải, nhưng ít ai nghĩ đến cái lời nói phải xuất phát ở đâu? Những người quan chức dưới mình, kẻ phú hào đến mình những người ấy không ai dám nói lời thẳng thắng với mình vì họ sợ chạm tự ái, sợ mất chức, sợ bị ghét hại, bị phạt vạ tổn tài hao của, có ai dám nói đâu, quan dân cả nước mà chỉ có ông lão áo vải dám nói thôi. Ông lão áo vải có đủ yếu tố để nói: Già rồi không còn cầu cạnh tương lai, áo vải nghèo nàn không sợ mất của, là người dân không còn sợ mất chức, là yếu đuối không còn sợ chết.

Tôn Thúc Ngao biết rõ tâm lý đó nên trọng ông lão để cầu học, thực hành đúng theo ba điều của ông lão nói thì an thân, lợi dân ích nước, còn gì qúi hơn. Thật đáng là bậc hiền nhân vậy.

Quan thời Ngụy chỉ ưa tiếp khách quan, khách giàu, còn dân nghèo muốn thấy được mặt quan là cả một vấn đề khó.

UY HẬU NƯỚC TRIỆU

Vua nước Tề sai sứ đem thơ sang hỏi thăm bà Uy Hậu nước Triệu.

Uy Hậu chưa xem thơ đã hỏi sứ rằng:

- Năm nay trúng mùa chăng? Dân bình an chăng? Vua mạnh khoẻ chăng?

Sứ giả nghe hỏi không bằng lòng nói rằng:

- Tôi vâng mạng vua nước tôi sang sứ bên này, thái hậu không hỏi đến vua trước lại hỏi mùa màng, hỏi dân tình sau cùng mới hỏi đến Vua. Ai đời bỏ gốc mà chú vào ngọn là sao?

Uy Hậu nói:

- Không phải vậy! Nếu không có mùa màng thì dân lấy đâu mà sống, không có dân lấy đâu mà có vua? Nên ta hỏi mùa màng trước rồi đến dân sau cùng đến vua, ấy là chú vào gốc ấy chớù!

Nói song Uy Hậu hỏi luôn rằng:

- Chung Ly Tử là sĩ tử bên ấy được bình yên chớ? Người ấy có lương ăn cũng vậy không lương ăn cũng vậy, có áo mặc cũng thế không áo mặc cũng thế, ấy là người giúp vua mà nuôi dân đấy, sao đến bây giờ chưa chịu ra làm quan?

Nghiệp Dương Tử bên ấy cũng bình an chớ? Người ấy thương xót kẻ quan quả, chu cấp kẻ cô độc, chẩn tế kẻ khốn cùng, giúp đỡ kẻ túng quẫn, thế là người ấy giúp vua để sinh tức cho dân, sao đến bây giờ chưa cho ra làm quan? Người con gái ở Bắc cung tên Anh Nhi Tử cũng vẫn bình yên chớ? Người ấy bỏ cả đồ trang sức, đúng tuổi không lấy chồng để lo nuôi cha mẹ. Ấy là người làm gương cho nhân dân làm theo biết lo nuôi cha mẹ. Người con gái ấy mà không được vào chầu thì vua nước Tề làm sao trị dân được ?

À! Còn thằng Tử Trọng ở Ô Lăng vẫn còn đấy chứ? Người ấy trên không chọn ngay, dưới không trị được nhà, giữa không kết giao với ai. Thế là người này dạy dân làm điều vô dụng, sao đến bây giờ chưa chịu giết đi?

Hỏi hết câu chuyện, Uy Hậu mới xem thơ.

Luận

Nho có câu:

“Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên”.

Nghĩa là:

Cây có gốc, nước có nguồn là muốn nói nguồn gốc chung của loài người.Thế mà có lắm khi người ta lấy gốc làm ngọn, lấy suối làm nguồn, làm cho thế lực khuynh nguy nhân dân điên đảo. Ai cũng biết nói nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm cốt nhưng đến việc làm thì lo cho ngọn trước.

Bà Uy Thái Hậu đã nhắc nhở đến dân trước vua sau, nhưng chú trọng là dò xét biết người nào lo cho dân mà tiến cử, người không biết lo còn hại dân là trị tội.

Người biết lo cho dân, chọn người lo cho dân mà giao phó, thì nước mạnh dân an.

Bà Uy Thái Hậu là bậc hiền nhân vậy.

LÝ THÁNH TÔN (1054–1072)

Thái tử Nhật Tôn nối ngôi Thái Tôn hiệu là Thánh Tôn nhà Lý, đổi quốc hiệu là Đại Việt niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054). Ngài là một ông vua nhân từ, thương dân như con.

Những ngày mùa lạnh, ngài thường nghĩ đến tù phạm và kẻ nghèo. Nhân có một năm đến mùa rét hơn thường lệ, Thánh Tôn bảo những quan hầu cận rằng:

- Trẫm ở trong cung ăn mặc như thế này mà còn rét, nghĩ những tù phạm bị giam trong ngục, bị trói buộc, cơm không có ăn áo không có mặc, vả lại có người xét hỏi chưa xong, tội hay oan, lỡ rét quá chết thì thật thương lắm.

Nói rồi liền sai lấy chăn chiếu cho tù nằm và mỗi ngày cho ăn hai bữa đầy.

Lại một hôm Thánh Tôn ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công chúa đứng hầu bên cạnh, ngài chỉ công chúa mà nói rằng:

- Lòng trẫm yêu dân như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm; vậy từ nay về sau, tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi.

Thánh Tôn có lòng từ bi bác như vậy cho nên nhân dân đều mến phục, lại được Thiền sư Thảo Đường ra làm Quốc sư để giúp vua, sự an dân thêm phần đặc sắc.

Luận

Thế là đời vua Lý Thánh Tôn được ích nước lợi dân nhờ biết thương dân vậy, sự thương dân đời nhà Lý có truyền thống do ảnh hưởng đạo từ bi.

Nói chung làø nước Việt Nam qua các triều đại xưa như các thời Đinh, Lê, Lý, Trần, đều áp dụng thuyết từ bi mà trị dân, thời nào cũng có bậc thiền sư ra giúp nước an dân làm cho nhà hưng nước thạnh. Ngày nay dân giàu nước mạnh là nhờ người trên biết lo cho dân.

TRẦN ANH TÔN

Trần Anh Tôn nối ngôi vua Nhân Tôn, học trò của Pháp Loa tôn sư.

Niên hiệu Hưng Long năm 31, thái thượng hoàng Nhân Tôn ngự Chiêm Thành về, vua Anh Tôn thiết một đàn tràng lớn gọi là “Vô lượng Phật pháp” ở chùa Phổ Minh hành lễ và phát chẩn cho dân nghèo khắp cả nước. Nhân dân trong nước đều cảm mến, đều đua nhau một lòng giúp nước.

Được lòng dân là hiền nhân vậy.

PHAN THANH GIẢN

Phan Thanh Giản tự là Tịnh Bá và Đạm Như, hiệu là Lương Khê, biệt hiệu là Mai Xuyên, sanh vào ngày 12 tháng 10 năm Bính Thìn ở làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, hiện nay là làng Bảo Thạnh, quận Ba Tri, tỉnh Kiến Hòa.

Phan Thanh Giản đỗ tiến sĩ vào năm 1826, tháng tám năm ấy được bổ chức Hàn lâm viện biên tu.

Khi ông về quê thăm nhà, nhớ người bạn cũ hiện đang cày ruộng, ông liền đổi y phục như thường dân, đầu đội nón lá tìm đến nhà người bạn. Lúc bấy giờ người bạn đang cày ruộng, ông liền nằm nhà chờ mãi đến xế chiều người bạn mới về.

Thấy Phan Thanh Giản ăn bận như xưa, người bạn không hay biết gì việc quan chức, nên thân thiết mừng rỡ và dọn cơm với bông súng chấm mắm kho. Phan Thanh Giản ngồi chõng tre ăn cơm với bạn ngon lành.

Có lần Phan Thanh Giản đi ngoài đường, có tên dân vác cây tre đi trước xoay trở ngọn tre trúng trán. Người dân ngó lại thấy cụ Phan đổ máu, kinh hồn muốn bỏ chạy. Cụ Phan kêu lại rồi nắm tay ân cần chỉ ngọn tre mà nói rằng:

- Sau có đốn tre chặt rồi lấy búa dần cho tà chót ngọn tre, để lỡ có đụng ai cũng không sao.

Nói xong, cụ Phan bảo tên ấy vác tre đi.

Luận

Đây là một cử chỉ bình dân và thương dân ít có, là bậc hiền nhân.

TỪ DŨ

Từ Dũ tức là đức Từ Dũ, một hiền phụ ở nước ta cuối thế kỷ XIX, tên là Phan Thị Hàng, trưởng nữ của ông Phan Văn Hưng. Bà Từ Dũ là vợ vua Thiệu Trị Hiến Chương hoàng đế.

Bà sinh ngày 19 tháng 5 năm Canh Ngọ, quê quán ở làng Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định, nay là Gò Công.

Ngay từ thuở nhỏ, bà nổi tiếng thông minh và hiền đức, tính tình hiếu thuận. Năm 14 tuổi, bà được Thuận Thiên Cao Thái hoàng thái hậu triệu vào chầu cháu trai là hoàng tử Miên Tông. Năm 1841, Miên Tông lên ngôi tức là Thiệu Trị, bà được phong làm cung tần.

Vua Tự Đức lên ngôi tức là con bà Từ Dũ, mãi đến ngày rằm tháng hai(1849) nhân dịp khánh thành cung Gia Thọ, bà không chịu nhận tôn là hoàng thái hậu, và có lời dụ rằng:

“Ta nay đã được thiên hạ phụng sự thì nên lo những việc thiên hạ đang lo. Năm nay không đặng mùa, nhân dân không được sung sướng chính lúc hoàng đế phải chăm lo, lòng ta nỡ nào thản nhiên. Vả lại ta vốn kiệm ước, chẳng chuộng phù hoa, không ngờ ngày nay đã hưởng được tôn vinh, ta thường e sợ lo tu tỉnh không rồi, huống chi gia thêm hư danh để ta còn nặng cái lỗi thất đức sao, vậy thì sở thính ấy bãi đi, chỉ nguyện chư công và quần thần lo giúp chính trị, giáo dục thế nào cho ta thấy được thái bình thịnh trị an dân thì không chi vui bằng”.

Luận

Xưa người đàn bà thông thường bổn phận trong phạm vi gia đình ít có lo ngoài gia đình. Đức Từ Dũ tỏ ra một đức cao siêu thể hiện nam nữ bình quyền chung lo cho dân cho nước. Bà đã hiểu dụ, dạy vua quan qua bài dụ rất rõ ràng về việc an dân, không trọng hư danh. Bà Từ Dũ thật lòng thương dân thương nước, cho nên nhân dân ai cũng kính mến ca tụng là bậc hiền.

Từ xưa đến nay, thời nào người trên tàn bạo hại dân thì nước mất nhà tan, nhân dân đồ thán. Còn thời nào người trên thương dân lo cho dân thì thường hay được nước thịnh dân an bền vững.

11. BỔN PHẬN NGƯỜI DÂN

Người dân mà có đạo đức tốt có học thức cùng nhau đối xử tốt đẹp, vui từ nơi gia đình hòa đến chòm xóm, bình đẳng với xã hội là do người dân làm tròn bổn phận.

Chánh phận làm dân phải thực hành năm yếu tố thì người trên ngồi không dân cũng an nước cũng mạnh. Năm yếu tố là:

1. Không giết hại:

a) Không giết hại chúng sanh vì nhân giết hại gây căm thù là mầm mống đao binh.

Nếu giết người thì hiện gây căm thù với người sống hiện đời, người chết ôm hận mãi mãi đến đời sau.

Giết vật gây căm thù đời sau vì loài vật hết nghiệp sanh làm người, hẳn sẽ vì hận tiền căn mà gây sự giết hại triền miên.

b) Vô cớ không được sát hại. Đối với loài sinh vật nhỏ cũng không sát hại vô cớ, trừ ra khi nào làm vườn ruộng vô tình va chạm, không nên cố sát.

c) Không sát hại là lòng từ bi nhưng từ bi trong trí huệ: xưa ở Ấn Độ có vị Bồ tát đi chung với đoàn lái buôn, nhân phát giác ra có bọn cướp len lẫn trong đó chờ thuyền ra khơi sẽ giết hết đoàn lái buôn mà cướp của. Bồ tát thương cả hai phe: Nếu để bọn cướp giết người, nó phải chịu tội nhiều đời nhiều kiếp, thương phe lái buôn vô tội mà bị chết oan mất của. Bồ tát nghĩ thế rồi vận dụng quyền tiên hạ thủ vi cường thừa cơ giết chết tên chúa đảng, bọn cướp liền rã không còn cướp được, đoàn lái buôn được yên.

Người ta nói: Không sát sanh thì làm sao cứu nước trị dân? Thì câu chuyện trên trả lời rồi vậy.

Trong giới sát sanh có bài kệ:

“Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp

Thập phương hà xứ động đao binh

Gia gia hộ hộ thường tu thiện

Thiên hạ hà sầu bất thái bình “.

Dịch:

Tất cả chúng sanh không nghiệp sát

Mười phương nào có động đao binh

Nhà nhà chốn chốn đều tu thiện

Làm gì thiên hạ chẳng thái bình.

2. Không tham gian trộm cắp:

Tài vật của cải, lớn quý như vàng bạc châu báu cho đến vật nhỏ như cây kim ngọn nến, trái ớt lá trầu quyền sở hữu của người, không cho không được lấy.

Cho đến những việc tham gian lường thăng tráo đấu cân non dạ thiếu lường công hối lộ, tham nhũng đều thuộc về tội tham cả. Tranh giành tham gian gây căm thù đến chỗ giết hại lẫn nhau, chiến tranh cũng do tham mà ra.

Không tham gian trộm cắp tất nhiên không còn xáo trộn, hết hiềm thù, không thuyết phục mà thiên hạ vẫn hòa bình.

3. Không tà dâm:

Ngoài việc vợ chồng ra, làm việc tà bậy với người khác gọi là tà dâm.

Điều này tai hại rất lớn, người tà dâm đam mê sắc đẹp, làm điên đảo luân thường, sử sách ghi rất rõ nhiều về việc sắc đẹp làm hư nhà hại nước.

“Sắc bất ba đào dị nịch nhân“: Sắc đẹp không phải sóng mà dễ làm chìm đắm người ta. Tất cả người biết giữ lễ không làm việc tà bậy thì nhà sẽ an nước đặng thạnh.

4. Không vọng ngữ: (Vọng ngữ có bốn):

a) Nói láo: việc có nói không, không nói có, thấy nói không, không thấy nói thấy.

b) Nói lưỡi hai chiều: Tới đây nói kia, tới kia nói đây, đâm thọc hai đầu gây sự bất hòa, trước mặt cho là phải, sau lưng cho là quấy, trước mặt khen, sau lưng thì chê.

c) Nói thêu dệt: Chuyện ít nói ra nhiều, việc nhiều bớt ít, chuyện hiền sửa thành dữ, chuyện dữ sửa ra hiền, quấy nói là phải, phải nói là quấy.

d) Nói thô ác: Mắng nhiếc chửi rủa nhục mạ người làm cho người căm tức, hoặc hăm dọa làm cho người sợ sệt.

Nói láo không còn ai tin dùng (nhơn vô tín bất lập), mất sự đoàn kết gây chia rẽ làm lạc hướng chân thật.

Trừ ra khi nào nói để cứu mạng, hoặc nói để có lợi người, không vì mình mà nói láo.

e) Không uống rượu:

Say rượu có những điều tai hại cho mình và người:

1) Thân hay bịnh tật

2) Của cải rơi mất

3) Trí huệ dần kém

4) Hay nghe lời quấy

5) Ưa người tâng bốc xiểm nịnh

6) Hay sanh hận rầy đánh

7) Ưa giết hại

8) Lòng tham dục nổi lên

9) Sự nghiệp không thành

10) Sanh con có con rượu, ưa rượu

Người say rượu không còn ai tin dùng, say không bao giờ làm tròn bổn phận nào được cả.

Trừ khi bị bịnh tạm dùng thuốc rượu.

Nếu người dân mà giữ được năm điều này là tròn cả nhân, lễ, nghĩa, trí và tín.

Nhân bất sát

Nghĩa bất đạo (trộm cắp)

Lễ bất tà dâm

Tri bất ẩm tửu

Tín bất vọng ngữ.

Dân mà giữ trọn như vậy là tròn bổn phận, người cầm quyền không trị cũng không loạn. Tuy nhiên nói là bổn phận làm dân, mà người cầm quyền phải làm cho đầy đủ bổn phận làm dân rồi dạy dân. Người dân mà đủ năm giới là nên tư cách là hiền nhân vậy.

12. ANH ĐỐI VỚI EM

Anh em hòa thuận với nhau là sự an vui hạnh phúc cho gia đình, ảnh hưởng cho quốc dân xã hội không phải nhỏ.

Bổn phận làm anh phải làm trước những gì phải làm trong gia đình, phải gương mẫu để dạy em, khi cha mẹ qua đời phải thay cha dạy em (quyền huynh thế phụ), em nghèo phải giúp đỡ cho em. Dạy không bằng gương mẫu. Nếu làm anh mà không làm tròn bổn phận, làm một người dân rượu chè say sưa, ăn chơi bạc bài bê tha sắc dục, tham lam tật đố thì làm sao dạy em, bảo sao em khỏi những tật xấu đó được. Làm anh mà đủ nhơn, lễ, nghĩa, trí, tín, liêm sĩ nhu hòa rồi lấy đó mà dạy em làm sao em không nghe theo được. Trừ ra một vài đứa quá cừ khôi ngổ nghịch, đứa ngỗ nghịch làm cha cũng phải bó tay, đó là trường hợp bất khả kháng, khỏi phải bàn đến.

Xem sử sách ít gặp những người anh giết em để giành của cướp công, mà em giết anh để giành ngôi đoạt của nhiều hơn. Người anh giành hết của cải không chịu chia gia tài cho em ở chuyện ngụ ngôn “Ăn khế trả vàng” là chuyện một người anh giành hết gia tài không chia cho em, sau bị chết chìm nơi đáy biển.

Thường tình gia đình nào cũng vậy, phần đông anh em trong nhà vẫn lục đục nhau về của cải hoặc địa vị dầu bên ngoài ra vẻ hòa mục, ít ai chịu hy sinh để nhường lẫn nhau.

TRẦN NHÂN TÔN

Trần Nhân Tôn là thái tử Khâm, con vua Trần Thánh Tôn, năm mười sáu tuổi Khâm được lập lên làm hoàng thái tử, ngài cố nhường ngôi cho em nhưng vua cha không chịu.

Một hôm ngài trèo thành trốn đi định vào núi Yên Tử tìm thiền sư học đạo nhưng đến chùa Đông Cứu trời hừng sáng, trong mình quá mệt mới vào nằm nghỉ trong tháp chùa. Sư trụ trì chùa thấy ngài tướng mạo khác thường, liền làm cơm chay thết đãi.

Vua cha hay tin sai các quan tìm gặp, ngài miễn cưỡng phải về và sau phải lên ngôi.

Lòng thật tình tha thiết với tình nghĩa anh em mà ngài muốn nhường ngôi, lại tỏ ra không ham ngai vàng địa vị, làm cho anh em kính phục, quần thần trung hậu mà an dân lợi nước nên bậc hiền nhân đáng gọi là minh quân.

13. EM ĐỐI VỚI ANH

Anh đã làm tròn nghĩa vụ cao cả thì công ơn của người anh, bổn phận người em phải lo cho tròn bổn phận.

Như vậy bổn phận người em phải biết tôn trọng khi người anh đã gương mẫu tốt thì em xem anh như là người thay thế cha, thay quyền cha làm em phải tuân theo.

Những đứa em tệ bạc hay bè đảng lấn hiếp còn anh thì hay nhường nhịn thành ra sự lấn hiếp càng ngày càng nhiều làm cho gia đình xáo trộn, gây ra tệ hại cho quốc dân xã hội rất bi đát.

CUNG THÚC ĐOẠN

Trịnh Trang Công tên là Ngộ Sanh lên ngôi. Em là Cung Thúc Đoạn muốn tranh ngôi với anh, mẹï là Khương Thị lại thương Cung Thúc Đoạn hơn nên thường toan tính cho Cung Thúc Đoạn cướp ngôi.

Khương Thị thấy Trịnh Trang Công làm vua mà em không có quyền hành gì mới nói với Trịnh Trang Công rằng:

- Con được nối ngôi cha làm chúa nước Trịnh, đất đai rộng mấy trăm dặm ngoài mà để em con quản thủ một chỗ nhỏ con đành lòng sao?

Trịnh Trang Công hỏi:

- Ý mẫu hậu như thế nào xin cho con biết?

Khương Thị nói:

- Nếu quả con trọng tình ruột thịt thì việc gì không cắt đất Chế Ấp phong cho em?

Trang Công thưa:

- Chế Ấp là nơi hiểm địa, tiên vương đã có lời di chúc không nên đem phong cho ai. Trừ chỗ ấy ra, mẫu hậu muốn chỗ nào con xin vâng lời.

- Vậy thì phong cho đoạn nơi đất Kinh Thành.

Trịnh Trang Công làm thinh không nói.

Khương Thị giận nói:

- Như vậy thì tốt hơn con đuổi em con ra khỏi nước để kiếm chỗ dung thân.

Trịnh Trang Công nói :

- Thưa mẫu hậu, con đâu dám làm như vậy!

Hôm sau Trang Công cho đòi Cung Thúc Đoạn vào phong cho đất Kinh Thành. Quan Đại phu can:

- Kinh Thành rộng lớn dân đông chẳng kém gì Dinh Vương, nếu phong cho Cung Thúc Đoạn ắt sanh hậu hoạn sau này.

Trang Công nói :

- Lệnh của mẹ ta, ta đâu dám cãi.

Cung Thúc Đoạn được phong đất Kinh Thành bèn bái tạ lui ra, vào cung từ biệt Khương Thị để đi nhậïm chức. Khương Thị đuổi hết kẻ tả hữu ra rồi nói:

- Anh con không nghĩ tình cốt nhục bạc đãi con từ lâu. Hôm nay sở dĩ con được phong đất Kinh Thành là nhờ mẹ cố nài nỉ lắm mới được. Nay con đến Kinh Thành phải lo luyện tập binh mã dự bị lương thảo sẵn, lúc nào có cơ hội mẹ sẽ tin con hay để kéo binh về đánh lấy, thì cái ngôi của Ngộ Sanh sẽ về tay con không khó.

Cung Thúc Đoạn lãnh lịnh rồi từ giã đến Kinh Thành ngày đêm luyện tập binh mã, tích thảo đồn lương, chờ cơ hội khởi sự.

Việc ấy thấu tai nhưng Trịnh Trang Công không nói.

Công tử Lữ thấy thế nói với Trang Công:

- Thái Thúc Đoạn ỷ bên trong có mẫu hậu yêu vì, bên ngoài đất Kinh Thành là nơi hiểm yếu luyện binh mã mưu chiếm giang sơn nước Trịnh, xin chúa công cho tôi đem quân đến đó bắt Đoạn đem về trị tội.

- Thúc Đoạn tuy vô đạo, song tội lỗi chưa rõ ràng, nếu ta giết đi không khỏi đau lòng mẹ ta.Hơn nữa trong tình ruột thịt ta không khỏi mang tiếng là bất nghĩa.

Công tử Lữ than:

- Tình ruột thịt làm cho ta không giải quyết được việc lớn. Nếu chúa công trọng tình ruột thịt thì không khỏi tai vạ.

- Nếu Thúc Đoạn có âm mưu tạo phản thì một ngày sẽ rõ ràng hơn. Tội lỗi đã rõ thì dù ta có trừng phạt bằng cách nào mẹ ta không thể trách ta bất nhân bất nghĩa được.

Công tử Lữ cúi đầu nói:

- Kiến thức chúa công rất cao diệu, tôi không thể sánh được. Chỉ e thế lực của Thúc Đoạn mỗi ngày một mạnh thêm, sau này khó trừ được.

Trịnh Trang Công trầm ngâm nói:

- Thế thì bây giờ phải làm sao để mẹ ta khỏi oán trách ta là vô đạo?

Công tử Lữ nói:

- Đã lâu chúa công lo việc Thúc Đoạn không vào chầu thiên tử nhà Châu, nay nhân dịp này chúa công giả cách vào chầu nhà Châu cho Thúc Đoạn ngỡ thật, đem quân đùến làm loạn. Tôi xin đem quân đến phục sẵn ở đất Kinh Thành đợi Thúc Đoạn kéo quân, chừng đó sẽ lẻn vào chiếm giữ. Còn chúa công cũng đem một đạo quân theo đường tắt đánh ụp vào, Thúc Đoạn dầu có cánh cũng không thể trốn thoát được.

Trịnh Trang Công cho là kế hay, hôm sau tuyên bố với quần thần giao Tề Túc coi việc triều chính, rồi sửa soạn vào chầu vua nhà Châu.

Khương Thị hay tin ấy mừng lắm, viết một mật thơ sai người tâm phúc đem đến Kinh Thành trao cho Thúc Đoạn, trong thơ ước hẹn nội trong trung tuần tháng phải đem binh về chiếm đoạt.

Công tử Lữ biết trước, sai người phục nơi yếu lộ, quả nhiên bắt được người đem thơ ấy, bèn giết quách rồi đem thơ về trao cho Trịnh Trang Công. Trang Công rất đau lòng nhưng không thể vì tình máu mủ mà dung tha kẻ phản nghịch được, bèn phong thơ lại như cũ rồi sai người tâm phúc của mình đem thơ đến Kinh Thành giao cho Thúc Đoạn.

Được thơ, Thúc Đoạn hẹn ngày động binh và dặn Khương Thị đến ngày ấy, dựng trong thành một đại kỳ để biết chỗ tiếp ứng.

Đến ngày ấy, Trịnh Trang Công ngấm ngầm đóng quân ở Lẫm Giêng, còn công tử Lữ ngầm kéo quân đến Kinh Thành. Bởi vậy, Cung Thúc Đoạn vừa kéo quân ra khỏi thành thì công tử Lữ liền kéo quân vào chiếm Kinh Thành, nổi lửa đốt cả dinh trại, khói lên mịt trời. Thúc Đoạn biết có biến liền đem quân trở lại tiếp ứng, chẳng ngờ bị Trịnh Trang Công kéo quân đến tiêu diệt. Thúc Đoạn không còn đường chạy phải đem tàn quân đến cung thành là chỗ đất được phong khi trước, nhưng cung thành là một ấp nhỏ làm sao cự lại binh triều nên chẳng bao lâu thành bị phá.

Thúc Đoạn ngước mặt lên trời than:

- Mẹ ta đã gạt ta, còn mặt mũi nào trông thấy anh ta nữa!

Nói rồi rút dao tự vẫn.

Luận

Nếu Thúc Đoạn biết tình cốt nhục, biết bổn phận làm em, biết kính trọng anh thì đâu có xảy ra cảnh nồi da nấu thịt. Tự mình làm không tròn bổn phận phải đền tội đã đành, còn gieo rắc tai hại cho bao nhiêu sinh mạng của quân binh vô tội, ảnh hưởng khổ sở đến dân tình thật là tai hại. Trang Công là bậc hiền nhân vậy.

CÔNG TỬ CỦ VÀ CÔNG TỬ TIỂU BẠCH

Tề Tương Công có hai người con trai lớn là công tử Củ và công tử Tiểu Bạch, hai anh em ruột tuy không phải con dòng đích nhưng Tề Tương Công thấy đã lớn nên cần dạy dỗ. Do đó Bảo Thúc Nha được cử làm sư phó dạy công tử Tiểu Bạch, Quản Di Ngô (Quản Trọng) làm sư phó dạy công tử Củ.

Quản Trọng giao ước với Thúc Nha:

- Tề Tương Công có hai người con, tuy dòng thứ nhưng không có dòng chánh, thì dòng thứ sau nầy cũng được nối ngôi. Bây giờ chúng ta lãnh một đứa mà dạy, nếu sau nầy người nào được nối ngôi thì chúng ta tiến dẫn nhau mà làm quan.

Bảo Thúc Nha khen phải. Quản Trọng lãnh công tử Củ có Thiệu Hốt theo hầu.

Sau Tề Tương Công ham mê săn bắn thường bỏ triều chính, ra nơi đất Chước tư tình với nàng Văn Khương.

Thúc Nha thấy vậy nói với công tử Tiểu Bạch:

- Chúa công dâm loạn dân tình không phục, tôi e trong nước có loạn biến chẳng lâu. Công tử nên tỏ lời khuyên can.

Tiểu Bạch y lời, một hôm vào tâu:

- Phụ thân đi săn bắn nơi đất Chước thiên hạ dị nghị rất nhiều, xin phụ thân tỵ hiềm đừng đến đó nữa.

Tương Công nổi giận xách giày chọi Tiểu Bạch mà hét:

- Mày là con nít biết gì chuyện người lớn mà nói.

Tiểu Bạch thất kinh chạy về nói lại với Bảo Thúc Nha. Thúc Nha buồn bã nói:

- Đã không bỏ được lòng tà thì tai họa đến. Vậy công tử cùng tôi sang nước khác lánh nạn ngày sau sẽ tính.

Tiểu Bạch hỏi:

- Bây giờ phải qua nước nào?

Thúc Nha nói:

- Nước lớn ỷ mạnh, tánh tình hay thay đổi bất thường, còn nước nhỏ thì thủ phận ít sanh chuyện lôi thôi. Vậy ta nên sang nước Cử, gần gũi nước nhà sau có về cũng tiện.

Tiểu Bạch theo Thúc Nha trốn sang nước Cử.

Khi đó Quản Trọng cùng Thiệu Hốt đem công tử Củ sang lánh nạn ở nước Lỗ.

Cách không lâu, Tề Tương Công bị giết, công tử Vô Tri lên ngôi nhưng vì bất tài nhu nhược nên bị quần thần giết đi, làm cho nước Tề rối loạn không vua.

Khi hay tin nước Tề không vua, Quản Trọng sợ công tử Tiểu Bạch về trước giành ngôi, nên vào chầu vua Lỗ, xin cấp cho ba mươi cỗ xe và quân. Lỗ Trang Công y lời cấp quân. Quản Trọng kéo quân đi.

Ngay khi đó nơi nước Cử, công tử Tiểu Bạch đã hay tin liền bàn với Bảo Thúc Nha mượn trăm cỗ xe hộ tống về nước. Quản Trọng hay tin vội vã đuổi theo, vừa thấy Tiểu Bạch, Quản Trọng nói:

- Từ ngày cách mặt nhau công tử vẫn mạnh?

- Nhờ trời, tôi vẫn được mạnh.

- Chẳng hay công tử kéo quân đi đâu mà gấp vậy?

- Tôi về cư tang cho phụ thân tôi.

Quản Trọng nói:

- Việc cư tang có công tử Củ là anh cả, còn công tử là em thì vội gì về, xin đình lại.

Bảo Thúc Nha nói:

- Chúng ta ai vì chúa nấy, xin Quản Trọng chớ nhiều lời.

Quản Trọng muốn cản lại nhưng thấy Tiểu Bạch quân đông hơn mình nên không dám cự, bèn rút tên nhắm ngay Tiểu Bạch mà bắn một mũi. Tiểu Bạch la lên một tiếng trào máu miệng té ngửa trên xe. Thúc Nha thất kinh lật đật đến cứu, bọn tùy tùng xem thấy khóc lên.

Quản Trọng tin chắc Tiểu Bạch đã chết vội vàng quay ngựa chạy về, lòng mừng nghĩ thầm:

- Công tử có phước lắm, thế là ngôi báu không còn lo ai giành nữa.

Nhưng công tử Tiểu Bạch không chết, mũi tên chỉ xuyên qua bâu áo. Lanh trí, Tiểu Bạch biết tài bắn của Quản Trọng, nên giả vờ ngã ngử cắn môi phun máu để Quản Trọng tưởng chết.

Khi rõ Tiểu Bạch không chết và không bị thương tích gì, Thúc Nha liền thay áo cho Tiểu Bạch rồi giấu vào cỗ xe riêng, hối quân về Tề đô.

Quản Trọng về đến Lỗ yêu cầu cử binh đưa công tử Củ về nước, nhưng về đến biên giới hay tin công tử Tiểu Bạch đã lên ngôi lấy hiệu là Tề Hoàn Công. Thế Quản Trọng thua trí Thúc Nha.

Quản Trọng và Thiệu Hốt tức mình phò công tử Củ về Lỗ xin cử binh đánh Tề, để giành lại ngôi cho công tử Củ.

Hai bên đánh nhau, Lỗ Trang Công thua luôn mấy trận liền, cuốn cờ kéo bại binh về nước.

Tề Hoàn Công giành đặng ngôi của anh chưa vừa lòng, lại viết thơ sai sứ sang Lỗ buộc phải giết công tử Củ, bằng không sẽ đem binh sang đánh.

Lỗ Trang Công sợ hãi đã cho giết công tử Củ rồi bắt Quản Trọng, Thiệu Hốt bỏ vào tù xa. Thiệu Hốt tự vận chết, còn Quản Trọng chịu ngồi tù xa về Tề.

Luận

Anh em ruột mà giành ngôi, lỗi tại em vì anh như công tử Củ được thế cha lên ngôi là lẽ phải. Thế mà cướp được ngôi của anh, lại còn sai sứ sang Lỗ buộc giết anh để trị tội. Tội gì? Tội bại binh? Tội cướp ngôi?

Chỉ có địa vị danh lợi, không cần biết gì đạo nghĩa cả. Bảo Thúc Nha và Quản Trọng là bạn thiết của nhau, nói bạn thiết là về mặt sách vỡ xưa phê bình như vậy, nay ta xét thấy chỉ có Thúc Nha mới là một mực nhường nhịn cho bạn thôi. Trái lại Quản Trọng lợi hại mưu mô lấn lướt với bạn, hắn là đứa gian ác chứ không phải bạn gì cả.

Hai người lãnh làm sư phó dạy cho công tử. Họ dạy gì? Đầu tiên là Quản Trọng đưa ra kế độc là hứa hẹn mỗi người dạy để sau này giành ngôi với nhau. Họ dạy gì? Nếu nói dạy chánh trị thì không phải, dạy chánh trị là dạy cho nước nhà được yên trị, dàn xếp cho ngôi thứ trong nước đưọc trật tự, anh em không tranh ngôi nhau, cho khỏi cảnh nồi da nấu thịt, tương tàn tương sát lẫn nhau, dân chúng khỏi khổ quân binh khỏi sát phạt lẫn nhau, cho nước thạnh nhà an mới gọi là chánh trị chớ.

Đằng này họ không dạy gì đạo đức liêm sĩ lễ nghĩa, mà chỉ dạy anh em mưu mô giành giựt để tranh quyền, đoạt lợi gây ra cảnh đầu rơi máu đổ oan uổng, họa chiến tranh dân tình khổ sở, quân binh nội bộ chết chóc, chánh trị lạ thế? Thật là đại ác họ tạo ra hôn quân Tề Hoàn Công.

Còn hai anh em nhà Tề, là anh em với nhau anh phải tự chủ, làm anh không nên nghe kẻ làm thầy là xu thời phụ thế hại em; em cũng phải tự chủ lấy mình đâu nên nghe kẻ mưu cầu danh lợi để giành ngôi hại anh mình, dầu người ấy là thầy học của mình, họ là kẻ ác không phải là thầy nữa.

Giá như hai nhà kia đem đạo đức mà dạy cho hai anh em nhà Tề biết lễ nghĩa trí tín thì anh em hòa mục, anh lên ngôi em làm tướng thì hai nhà thầy kia mất địa vị gì?

Tóm lại bốn nhân vật là ác nhân nếu họ xử sự cho đúng thì nên bậc hiền nhân vậy.

LÊ LONG ĐỈNH

Các hoàng tử anh em nhà họ Tiền Lê là: Đông Thành vương Ngân Tích, Trung Quốc vương Long Kính. Khai Minh vương Long Đĩnh tranh nhau nổi loạn, giành nhau suốt tám tháng trường từ mùa Xuân đến mùa Đông năm 1004, Long Việt mới thực thụ lên ngôi. Còn Ngân Tích bỏ trốn bị người ở là Thạch Hà giết chết.

Long Việt lên ngôi chỉ được có ba ngày thì Long Đỉnh sai người trèo tường vào cung giết đi. Long Đĩnh lại tự lập lên ngôi lấy hiệu là Minh Quang Hiếu hoàng đế.

Long Đỉnh bạo ngược giết hại nhiều tôi trung và tàn hại nhân dân vô tội, lại hoang dâm vô độ đến kiệt sức không ngồi được, thường khi lâm triều nằm mà ngự nên gọi là Ngọa Triều.

Long Đỉnh ở ngôi bốn năm là mất, chấm dứt đời Lê sang đời Lý.

Luận

Cảnh tương tàn tương sát của anh em nhà họ Lê gây tai họa thảm khốc cho nhân dân...… May mà có sự dàn xếp của Thiền sư Vạn Hạnh cùng các cụ quan cựu thần đưa Lý Công Uẩn thay thế lên ngôi giữ vững bờ cõi khỏi phải lọt vào tay nhà Tống bên Tàu.

Tệ hại là em giết anh, tội ương ngạnh của Long Đĩnh nếu không chết sớm thì ngày kia cũng bị tan thân vì sự căm thù của nhân dân, họ là ác nhân.

Làm em mà tròn bổn phận đâu có nông nỗi.

HAI ANH EM NHÀ NÔNG

(Truyện ngụ ngôn)

Hai anh em nhà nông cha mẹ chết sớm, anh em sống nghề làm ruộng gần nhau. Đến mùa gặt hái, anh em có lúa đang đổ đống ngoài đồng.

Đêm đến, người em nghĩ rằng:

- Ta chưa có vợ con, chỉ có một mình không ăn xài bao nhiêu, còn anh ta có vợ con đông sự tiêu xài rất nhiều, vậy ta đem lúa của ta phụ cho anh ta mới phải.

Nghĩ xong bèn gánh lúa của mình lén đem đổ vào đống lúa của anh.

Người anh lại nghĩ rằng:

- Ta lớn có vợ con sẽ có nhiều người lo, còn em ta có một mình không ai lo, vả lại em ta cần có dư dả ra còn lập gia đình, vậy ta nên đem bớt lúa của ta cho em ta mới phải.

Nghĩ xong người anh liền gánh lúa của mình đem đổ cho em.

Gánh lúa giữa đàng gặp nhau, cảm động quá hai anh em ôm nhau khóc.

Luận

Thật là hai anh em lý tưởng, nếu được như vậy thì gia đình hạnh phúc, xã hội yên vui.

Đời nay nhiều gia đình tuy thấy bên ngoài hòa nhã, kỳ thật sự hòa nhã chênh lệch không huân bình được. Vì hòa là do anh quá nhường cho em để cho được tạm yên, nếu tranh cãi sợ người ngoài chê cười, hoặc em chịu thua thiệt để gia đình tạm yên thôi.

Mong sao con người thời nay tiến bộ văn minh hơn, cùng nhau chung sống giữ cán cân quân bình ở gia đình, thì quốc dân xã hội lần lần không còn chênh nghiêng, nếu được như vậy thì thế giới này là Cực lạc vậy.

14. ĐỐI VỚI BẰNG HỮU

Trên đường xa xôi dịu vợi, đoàn người lũ lượt đi và cứ đi mãi. Không lẽ ta cứ lầm lì trôi bước, xung quanh ta hai bên ta đều là kẻ lữ hành, há không chuyện trò nhau, hoặc tạm nghỉ chân, tâm sự cùng nhau, trao đổi nhau, nhờ vả nhau.

An ủi ta không ai hơn bạn, nói thẳng với ta không ai hơn bạn.

Tục ngữ có câu :

“Ăn cơm nhờ canh

Tu hành nhờ bạn“.

Tu là sửa, sửa quấy cho nhau, nhắc nhở cho nhau. Hơn nữa sự học hỏi hẳn là nhờ thầy nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh nhờ bạn.

Nho nói :

“Học sư bất như học hữu“.

Học thầy không như học bạn vì bạn là thân mật với nhau mà trao đổi bàn luận cho nhau, đối với thầy tôn kính trên ta một bực không dám thân mật, còn bạn bè gần gũi thân mật hơn.

Bạn hữu là chỗ thân mật nương tựa nhau bao nhiêu thì cần xét lấy bổn phận, đặt đúng với bổn phận, phải đôi bên bù đắp cho nhau tương xứng quân bình không chênh lệch thì mới có sự ích chung. Giả như ta có khả năng nhẫn trong khi đó bạn ta cứ lấn hiếp mưu mô tranh giành của ta, thế mà ta vui nhẫn để cho bạn ta vui vẻ. Như vậy bạn ta bị ta đầu độc rồi đấy, vì người ta vẫn thấy vẫn biết, họ cho bạn ta là người gian trá lừa phỉnh thì còn gì với đời ?

Nếu được bạn bè đôi bên đối đãi tương xứng nhau, phỏng như ta hơn hay bạn ta hơn thì không còn nghĩa là bạn nữa. Trong chữ bạn đổi nghĩa tương đồng. Xét xưa lừa nay, học trước làm sau.

TÔN TẨN BÀNG QUYÊN

Tôn Tẩn nước Tề đời Xuân Thu, Bàng Quyên người nước Ngụy, đồng thời đều theo học với Quỉ Cốc tiên sanh về môn binh pháp.

Học được ba năm Bàng Quyên tự cho mình là giỏi, một hôm gánh nước gặp người đi đường cho biết nước Ngụy đang chiêu hiền.

Nghe tin này, Bàng Quyên vội muốn sớm lập công danh cho thiên hạ biết tài sức của mình, nhưng chưa tiện nói ra.

Thế mà Quỉ Cốc tiên sanh đã biết ý của Bàng Quyên nên nói:

- Nhà ngươi đã gặp thời, nên xuống núi mà lập công danh phú quí.

Hết sức vui mừng được thầy cho, Bàng Quyên liền quỳ sụp xuống lạy và nói:

- Đệ tử đã nghĩ việc đó, nhưng thời vận chưa biết ra sao?

Tiên sanh nói:

- Ngươi hãy đi bẻ một cành hoa đem vô đây ta đoán cho.

Bàng Quyên liền ra khỏi động rảo khắp tìm hoa, cố tìm cho được cành hoa tươi đẹp thì quẻ mới tốt. Nhưng gặp mùa hè hoa ít nở lá úa cành khô, tìm mãi gặp được bụi hoa cỏ, Bàng Quyên liền nhổ cả gốc rễ, nhổ rồi nghĩ thầm:

Loại hoa này mềm cành yếu, không phải giống quí nên bỏ đi, rồi tìm mãi không có hoa nào nữa, bèn trở lại lượm cành hoa khi nãy lại giấu trong tay áo trở về động.

Thấy thầy còn ngồi chờ, Bàng Quyên nói :

- Tìm không có hoa.

Tiên sanh nói:

- Đã có hoa trong tay áo sao lại nói không ?

Bàng Quyên liền lấy hoa trình lên.

Tiên Sanh trầm ngâm nhìn hoa vừa nói:

- Hoa này tên gọi Mã Đâu Linh, khi nở một lượt mười hai nụ, là điềm ứng số thời gian ngươi được nên danh phận. Hoa này có ánh sáng mặt trời liền héo, ứng về tính tình ngươi hay ganh hiềm hại người. Vậy nên nhớ việc này sửa mình mới được, ta cho ngươi tám chữ nên nhớ : Ngộ dương thị vinh, ngộ mã vinh thất. Nghĩa là gặp dê thì nên, gặp ngựa là hỏng.

Bàng Quyên lạy tạ nói:

- Lời thầy dạy con không dám quên.

Nói xong từ giã. Tôn Tẩn theo đưa Bàng Quyên xuống tận chân núi, Bàng Quyên thấy vậy nói:

- Tôi và anh lâu nay chung học cùng thầy, vậy sau này làm nên tôi sẽ tiến cử đặng anh em ta cùng nhau chung hưởng.

Tôn Tẩn nói:

- Hiền đệ có nhớ lời dặn chăng?

Bàng Quyên nói :

- Nếu tôi sai lời hứa, sau này sẽ bị muôn ngàn mũi tên mà chết.

Bàng Quyên đi rồi, Quỉ Cốc ra lịnh cho các đệ tử mỗi đêm phải thay phiên thức canh chuột đừng cho khuấy động phòng thầy.

Các đệ tử y theo, thay phiên mà canh chuột, tới phiên Tôn Tẩn canh, tiên sanh liền mở gối lấy ra một quyển đưa cho Tôn Tẩn mà nói:

- Xưa Tôn Vũ là ông nội của ngươi làm ra ba thiên binh pháp này ghi vào quyển sách đem phò Ngô Hạp Lư phá được nước Sở, sau Hạp Lư lấy quyển sách này đựng vào hòm sắt chôn dưới đài Cô Tô, sau bị quân Việt đốt đài quyển sách đó mất luôn.

Ta là bạn thân của Tôn Vũ được xem quyển sách này lại chép ra những phương pháp bí mật tài đều đầy đủ trong đó cả. Nay ta thấy nhà ngươi hiền đức nên giao cho quyển sách này để phò vua giúp nước. Ngươi nên noi gương tổ phụ của ngươi là bậc tài đức, tuy đã qua đời rồi mà danh thơm vẫn còn.

Tôn Tẩn nhớ đó mà học thành tài.

Còn Bàng Quyên xuống núi vào chầu Ngụy Huệ Dương gặp lúc vua đang ăn thịt dê, Bàng Quyên rất mừng nghĩ rằng : thầy ta đã nói trước “gặp dê thì vinh” lời nói ứng vận rất đúng.

Ngụy Vương thấy Bàng Quyên tướng mạo khôi ngô, hỏi về binh pháp Bàng Quyên tự khoe mình là đệ tử của Quỉ Cốc tiên sanh, lại giải bày về binh pháp nghe cũng thông, Ngụy Vương rất vừa lòng liền phong cho Bàng Quyên là tướng soái.

Bàng Quyên sửa sang việc nước làm cho nước Ngụy được cường thạnh, nhưng không bao giờ nhắc đến Tôn Tẩn.

Mặc Địch cùng học với Tôn Tẩn, cảm mến Tôn Tẩn nên đến nước Ngụy, nghe Bàng Quyên không có ý tiến cử Tôn Tẩn, nên vào xin yết kiến Ngụy Vương.

Ngụy Vương đã từng nghe danh hiền sĩ Mặc Địch nên kính nể sai người ra rước vào bàn luận.

Mặc Địch nói:

- Tôi vốn có quen với cháu nội của Tôn Vũ là Tôn Tẩn hiện đang là học trò của Quỉ Cốc tiên sanh, người này có tài đức có thể giúp cho đại vương được, vì Tôn Tẩn được binh phù bí truyền của nội tổ, so với Bàng Quyên thì Tôn Tẩn hơn gấp mười lần.

Nói xong Mặc Địch từ giã ra đi.

Ngụy Vương liền cho đòi Bàng Quyên mà trách rằng:

- Ta nghe Tôn Tẩn có binh pháp bí truyền của tổ phụ, lại là bạn đồng học với tướng soái, sao tướng soái không vì ta mà tiến cử Tôn Tẩn?

Bàng Quyên nói trớ rằng:

- Tôi vẫn biết Tôn Tẩn là người tài, nhưng vì là người của nước Tề nên không dám tiến cử đó thôi.

Ngụy Vương nói:

- Người biết dùng kẻ sĩ thì đâu phải chọn người nước mình mà được.

Túng thế, Bàng Quyên nói:

- Như đại vương muốn dùng Tôn Tẩn, tôi viết thơ sai người đến mời không khó.

Bàng Quyên tuy nói ngoài miệng mà lòng không vui, sợ Tôn Tẩn tài hơn mình, sẽ được trọng dụng hơn, nhưng cũng phải viết thơ mời Tôn Tẩn trao cho Ngụy Vương.

Ngụy Vương rất trịnh trọng lấy vàng ròng và xe tứ mã sai người cầm thơ đi rước Tôn Tẩn.

Tôn Tẩn được thơ liền đem lên trình thầy.

Qủi Cốc tiên sanh thấy trong thơ Bàng Quyên không có một lời thăm thầy, biết là đứa bội nghĩa.

Xét lại Tôn Tẩn không thể nào cùng chung với Bàng Quyên mà làm nên công danh được. Song không phụ lòng Ngụy Vương nên cho Tôn Tẩn đi, lại bảo Tôn Tẩn đi hái cành hoa bói thử.

Tôn Tẩn thấy trên án có cành hoa, bèn rút một cành đem trình thầy rồi đem cắm lại.

Tiên sanh nói:

- Cành hoa này đã bị bẻ không còn nguyên vẹn, tuyết này tháng chín hoa bị tuyết sương đầm đìa nhưng không rơi rụng, bị sự phá hoại nhưngkhông hề chi, hoa lại được cắm trong bình người đều quí mến. Vậy số phận của ngươi truân chuyên thân bị tàn phá nhưng không đến nỗi, sau được nên danh phận ở quê hương.

Tôn Tẩn khi giã biệt, Quỉ Cốc lại giao cho một cẩm nang khi nào nguy khốn hãy mở ra xem.

Tôn Tẩn khi đến Ngụy vào ra mắt Bàng Quyên. Quyên rất ngạo nghễ, tiếp đón Tôn Tẩn như chủ với tớ, rồi dẫn Tôn Tẩn đến ra mắt Ngụy Vương.

Ngụy Vương khi thấy Tôn Tẩn lại bước xuống ngai vàng tiếp đón rất cung kính làm cho Bàng Quyên bất bình thêm.

Tôn Tẩn thi lễ lại Ngụy Vương rồi nói:

- Tôi là kẻ hèn ở thôn dã mà được đại vương dùng đại lễ đón rước thật lấy làm hổ thẹn.

Ngụy Vương nói:

- Ta đã được nghe Mặc Địch nói tài đức của tráng sĩ khiến lòng ta kính mến.

Không đợi bàn luận, Ngụy Vương liền phong cho Tôn Tẩn làm quân sư.

Bàng Quyên kiếm cách cản khéo nói:

- Tôn Tẩn là bạn lại là bậc đàn anh của tôi nay lại giữ chức dưới tôi, xin để Tôn Tẩn lập công rồi tôi nhường chức cho mới phải.

Thế là Tôn Tẩn cũng vẫn là một nhân sĩ trắng tay.

Rồi từ đó đi đi lại lại giả làm thân thiết với Tôn Tẩn, để dò la học trộm binh thư Tôn Võ bí truyền.

Ngụy Vương lại muốn thử tài Tôn Tẩn, nên bày ra cuộc thao diễn cho Bàng Quyên và Tôn Tẩn đấu diễn.

Bàng Quyên lập ra bao nhiêu trận đều bị Tôn Tẩn phá hết, Tôn Tẩn mới lập ra một trận, Bàng Quyên điên đầu không biết lối phá lại hỏi nhỏ Tôn Tẩn là trận gì?

Tôn Tẩn thật tình cứ nói:

- Đó là trận Điên đảo bát môn.

Lại còn giải thích:

- Nếu cần thì trận biến ra trường xà địch tướng khó mà ngừa được.

Bàng Quyên lại đến gần tâu nhỏ với Ngụy Vương như vậy. Ngụy Vương kêu Tôn Tẩn lại hỏi, Tôn Tẩn cũng nói như vậy. Ngụy Vương cho là Bàng Quyên, Tôn Tẩn tài như nhau lòng rất vui mừng.

Bàng Quyên về suy nghĩ thấy mình thua Tôn Tẩn rất xa, lòng ganh ghét bừng bốc, bèn nghĩ ra một kế, viết một bức thư sai Đinh Ất giả làm khách buôn và dặn đem đưa thơ cho Tôn Tẩn phải nói như vầy... như vầy…

Một hôm Tôn Tẩn đi chầu về gặp người nói tiếng nước Tề xưng là Đinh Ất, quê ở Lâm Tri, buôn bán ở đất Châu, Tôn Bình và Tôn Trác có nhờ tôi cầm thơ đến động Quỷ Cốc giao cho Tôn Tẩn nhưng đến đó mới hay Tôn Tẩn đã ra phò Nguỵ rồi, nên tôi phải đến đây trao thơ này .

Nói xong giao thơ, Tôn Tẩn mở thơ ra xem trong thơ nói: Người nhà gặp tai biến nhà cửa tan nát, nay nhờ vua Tề thương cho về làng cũ, nên nay gởi thơ này gọi Tôn Tẩn nên về Tề mà lập nghiệp.

Tôn Tẩn xem thơ của hai anh, lòng cảm xúc khóc ròng lại viết một phong thơ hồi đáp, Đinh Ất lãnh thơ về giao cho Bàng Quyên. Bàng Quyên lại nhái tuồng chữ thêm sau một câu: ”Em tuy làm quan nước Ngụy nhưng lòng riêng vẫn nặng quê hương, một ngày nào em sẽ tìm cách về Tề để cùng nhau sum họp”.

Rồi đem thơ vào dâng cho Ngụy Vương mà tâu rằng:

- Tôn Tẩn phò Ngụy vẫn lo Tề nếu không liệu trước sẽ có hại sau.

Ngụy Vương nói:

- Có lẽ ta chưa trọng dụng nên Tôn Tẩn mới có ý về Tề.

Bàng Quyên nói:

- Tổ phụ của Tôn Tẩn làm tướng nước Ngô, rồi cũng bỏ Ngô về Tề, đất tổ quê cha ai mà quên được, lòng người không muốn ở Ngụy. Đại vương trọng dụng không ích gì. Tôn Tẩn có tài cũng như tôi, nếu để cho về Tề thì vua Tề cậy có người tài sẽ khởi tranh hùng với ta, chi bằng giết đi, thì khỏi lo hậu họa về sau.

Ngụy Vương không bằng lòng, nói:

- Tôn Tẩn nếu không muốn phò Ngụy thì đến đây để làm gì, tội trạng chưa rõ, nếu ta giết đi e oan cho người lại mang tiếng bạo ngược với kẻ sĩ.

Bàng Quyên liền trớ lời:

- Đại vương nói rất phải, vậy để tôi tìm cách khuyên bảo cho Tôn Tẩn bỏ ý định về quê, nếu như thế không đặng sẽ xử sự sau.

Ngụy Vương cho là phải. Bàng Quyên về giả cách hỏi Tôn Tẩn:

- Tôi được nghe đại huynh được thơ nhà gởi đến?

Tôn Tẩn nào biết được lòng thâm độc của Bàng Quyên nên nói thật. Bàng Quyên nói:

- Ai cũng vậy, tình quê hương anh em ruột thịt xa cách nhau, sau đại huynh không tâu với Ngụy Vương xin về vài tháng để thăm quê hương rồi trở lại?

- Tôi sợ đại vương chưa rõ lòng tôi rồi sanh nghi.

Bàng Quyên nói:

- Vậy thì có tôi, đại huynh tâu xin về vài tháng tôi giúp lời cho.

Tôn Tẩn tưởng thiệt hẹn ngày mai sẽ vào tâu xin về.

Đêm đó Bàng Quyên đến yết kiến gấp với Ngụy Vương; Ngụy vương cho vào, Bàng Quyên tâu:

- Tôi vì muốn cho Tôn Tẩn ở lại để đồng lực phò Ngụy Vương nhưng Tôn Tẩn chí quyết về Tề. Như Tôn Tẩn có vào triều xin về thì đại vương hãy bắt tội là tư thông với giặc rồi giao cho tôi trị tội. Tôi sẽ có cách làm cho Tôn Tẩn phải phục Ngụy không về Tề.

Ngụy Vương nghe theo. Hôm sau Tôn Tẩn dâng sớ xin nghỉ hai tháng về thăm quê hương.

Ngụy Vương cả giận, phê vào sớ buộc tội tư thông với giặc rồi sai nội thị bắt trói Tôn Tẩn đem giao cho Bàng Quyên trị tội.

Khi đem đến dinh, Bàng Quyên giả bộ điếng người. Nội thị lại giao cho Bàng Quyên trị tội.

Bàng Quyên nói:

- Đại huynh bị hàm oan, tiểu đệ phải liều chết vào triều minh oan mới đưọc.

Vào triều Bàng Quyên lại tâu với Ngụy Vương rằng:

- Tôn Tẩn tội đáng chết nhưng vì lòng nhân đức của đại vương tha tội chết, phải chặt chân, cho Tôn Tẩn thành phế nhân không còn làm gì được,ta khỏi lo hậu hoạn sau nầy.

Ngụy Vương y lời.

Bàng Quyên trở về nói với Tôn Tẩn:

- Đại vương ra lệnh giết đại huynh, em thiết tha khổ gián lắm mới được tha tội chết nhưng phải chặt chân và thích chữ vào mặt để răn chúng theo luật nước Ngụy.

Tôn Tẩn nói:

- Thầy có nói số tôi phải bị tàn hại thì may sao hiền đệ giải cứu khỏi phải tội chết, ơn đó tôi không dám quên.

Bàng Quyên truyền quân trói Tôn Tẩn lại rồi tự cầm gươm chặt hai bàn chân mất đi phân nửa rồi thích vào mặt bốn chữ “tư thông ngoại quốc”. Tôn Tẩn ngất xỉu.

Bàng Quyên giả bộ kêu khóc, cho người lấy vải băng bó cho Tôn Tẩn, rồi sai khiêng để ở thư quán.

Bàng Quyên giả cho người chăm sóc tử tế, cách hai tháng sau tuy bớt đau nhưng Tôn Tẩn vẫn ngồi một chỗ chưa đi được.

Tôn Tẩn bớt đau, Bàng Quyên đến thăm nói:

- Nay đại huynh bị tàn phế thật uổng công học tập không đem ra sử dụng được nữa. Vậy xinđại huynh có binh thơ bí yếu của Tôn Vũ hãy biên để cho em hầu an bang tế thế.

Tôn Tẩn nhận lời. Bàng Quyên liền trao giấy mực, lại sai Thành Nghi là đứa ở lo cơm nưóc.

Một hôm đứa ở bồng con của Bàng Quyên đến thư quán chơi, đứa nhỏ phát thinh nói:

- Cha ta bảo ngươi viết xong rồi sẽ giết.

Đứa ở thất kinh bồng đứa nhỏ chạy về và giấu nhẹm chuyện đó.

Giờ đây Tôn Tẩn mới rõ Bàng Quyên là đứa nham hiểm sâu độc, muốn thoát thân chưa biết làm sao? Lại nhớ đến cẩm nang thầy cho liền mở ra xem chỉ thấy một chữ “cuồng”.

Liền chiều hôm ấy, Tôn Tẩn xé hết mấy trang giấy đã biên, miệng lảm nhảm khi cười khi khóc, khi chửi rủa bâng quơ.

Thành Nghi đem cơm, Tôn Tẩn không ăn lại đổ đi rồi mắng chửi, chà mắt đỏ hoe lên.

Thành Nghi liền chạy về báo tin, Bàng Quyên vẫn nghi, chờ Thành Nghi đem cơm Bàng Quyên theo đến xem thấy Tôn Tẩn chửi lảm nhảm rồi hất mâm cơm xuống đất lại lượm đất ăn. Ăn xong khóc ngất rồi ôm Bàng Quyên miệng nói:

- Quỉ Cốc tiên sanh cứu mạng con! Cứu mạng con!

Bàng Quyên nói:

- Tôi là Bàng Quyên, đại huynh không nhận ra sao?

Tôn Tẩn không chịu buông, ôm Bàng Quyên miệng la:

- Xin tiên sanh cứu mạng.

Bàng Quyên phải sai kẻ gỡ ra, rồi khiêng bỏ vào chuồng heo để thử.

Tôn Tẩn bị khiêng bỏ vào chuồng heo, cũng chịu khổ nhục kế cứ nằm vùi trong đó.

Thế là Bàng Quyên ngỡ là Tôn Tẩn điên thật nên không để ý nữa. Từ đó thả lỏng mặc ý Tôn Tẩn đi đâu thì đi. Tuy vậy Bàng Quyên vẫn cho người theo dõi rồi về báo tin mỗi ngày coi Tôn Tẩn đi đâu.

Mặc Địch đi chơi ở nước Tề nơi nhà Điền Kỵ, có người học trò tên Cầm Hoạt ở nước Ngụy về, đem việc Tôn Tẩn bị chặt chân nói lại, hiện nay đã điên đi lang thang.

Mặc Địch bèn đem tài năng của Tôn Tẩn mà nói với Điền Kỵ, lại cho biết Tôn Tẩn bị Bàng Quyên ghét ganh mà hãm hại, hiện nay Tôn Tẩn giả điên làm kế thoát thân.

Điền Kỵ liền vào tâu với Tề Uy Vương, Uy Vương muốn đem Tôn Tẩn về, Điền Kỵ bày kế:

- Nên sai người đem trà ngon đến cho Ngụy Vương, Cầm Hoạt giả làm quân hầu rồi lén tìm Tôn Tẩn mà định đoạt.

Tề Uy Vương liền sai Thuần Vu Ý làm sứ dâng trà, Cầm Hoạt làm quân hầu.

Khi vào yết kiến Ngụy Vương, Cầm Hoạt giả dạo chơi tìm Tôn Tẩn, thấy Tôn Tẩn đang ngồi dựa bờ giếng cạn, áo quần rách rưới bẩn thỉu, mặt mày tiều tụy lem luốc, Cầm Hoạt lại gần nói nhỏ:

- Tôn huynh khổ đến thế sao? Còn nhớ tôi không? Thầy tôi là Mặc Địch hay tôn huynh mắc nạn nên lập kế với vua Tề sai Thuần Vu Ý làm sứ dâng trà, còn tôi theo tìm tôn huynh tính kế rước về.

Tôn Tẩn ứa nước mắt nhìn Cầm Hoạt nói:

- Bàng Quyên nham hiểm hại tôi đến thế này và còn định giết nên tôi giả điên tìm kế thoát thân nhưng chưa được vì hắn còn cho người nhà theo dò nên chưa đi đặng.

Cầm Hoạt nói:

- Không sao, vì chúng tôi có kế sắp đặt rồi, xin tôn huynh yên lòng.

Đêm đến Cầm Hoạt đem Tôn Tẩn giấu kín trong cổ xe rồi cho Dương Nghĩa giống tợ Tôn Tẩn ăn mặc rách rưới đi lang thang ra chợ. Người ta ngỡ Tôn Tẩn, không để ý xem làm chi.

Hôm sau Thuần Vu Ý từ biệt Ngụy Vương rồi lên xe về nước một cách êm xuôi.

Dương Nghĩa giả điên đến ba hôm biết Tôn Tẩn ra khỏi nước rồi mới cởi bỏ đồ rách mà trốn về theo dễ dàng.

Quan địa phương không thấy Tôn Tẩn đâu nữa liền về báo với Bàng Quyên. Bàng Quyên cho là Tôn Tẩn đã nhảy xuống giếng chết rồi nên không cần gạn hỏi nữa.

Thuần Vu Ý đưa Tôn Tẩn về đến Lâm Tri mới tắm rửa và lấy y phục thay cho Tôn Tẩn rồi đưa về ra mắt Tề Uy Vương.

Tề Uy Vương muốn phong quan cho Tôn Tẩn nhưng Tôn Tẩu tâu:

- Tôi chưa có công gì không dám nhận chức, lại sợ Bàng Quyên hay tôi làm quan nước Tề sẽ sanh chuyện lôi thôi, chi bằng giấu nhẹm hay hơn.

Tề Uy Vương nghe theo, liền cho Tôn Tẩn về ở nhà Điền Kỵ, Điền Kỵ rất quý trọng Tôn Tẩn.

Nước Tề có lệ đua ngựa, Điền Kỵ bị ngựa dở bị thua luôn. Điền Kỵ lại đưa Tôn Tẩn đến trường đua để xem cuộc. Tôn Tẩn thấy ngựa của Điền Kỵ không phải yếu lắm mà thua, Tôn Tẩn nói:

- Ngày mai đua ngựa tôi sẽ giúp ngài thắng.

Điền Kỵ nói:

- Nếu mai tiên sinh giúp cho tôi thắng thì tôi sẽ xin cuộc mười đồng vàng để gỡ thua hôm nay.

Tôn Tẩn nói:

- Điều đó chắc được, xin ngài cứ thi hành.

Hôm sau Điền Kỵ tâu với Uy Vương xin thi cuộc với các công tử mười đồng vàng mỗi một vòng.

Tề Uy Vương y lời, ra lệnh các công tử biết đem nạp mười đồng vàng mỗi một vòng rồi dắt ngựa ra trường.

Tôn Tẩn bảo Điền Kỵ rằng:

- Cả thảy đều chọn ngựa khỏe để đua vòng nhất, vậy ngài chọn ngựa ba để đua vòng nhất, ta thua vòng nhất để thắng hai vòng sau còn lời chán. Rồi vòng hai ta đem ngựa nhất ra mà chọi với ngựa nhì của họ, cuối cùng ta đem ngựa hạng nhì chọi với ngựa hạng ba của chúng, như thế là hai vòng sau ta chắc thắng vậy.

Điền Kỵ vỗ tay khen hay và y theo đó mà làm. Vòng thứ nhất Điền Kỵ thua sau xa quá sức, khán giả vỗ tay cười ầm lên, cho Điền Kỵ thua cả đời.

Vòng thứ hai Điền Kỵ lại thắng, khán giả vỗ tay reo lên hơn nữa, đến vòng thứ ba Điền Kỵ lại thắng chưa từng có, khán giả ngạc nhiên vỗ tay reo dữ dội, tiếng vang suốt cả giờ.

Vua Tề lấy làm lạ hỏi:

- Hôm nay sao ngựa nhà ngươi khỏe lạ lùng vậy?

Điền Kỵ tâu:

- Không phải sức ngựa mà thắng là do mưu của Tôn Tẩn.

Và kể lại cho Uy Vương nghe. Tề Uy Vương rất khen và để ý Tôn Tẩn.

Bàng Quyên không còn lo ngại gì Tôn Tẩn nữa nên tâu với Ngụy Vương xin đem quân đánh Hàm Đang nước Triệu để lấy uy thế rồi lần đến nước Tề.

Ngụy Vương nhận lời, Bàng Quyên liền kéo hùng quân đến vây đánh Hàm Đang. Quân Triệu thua luôn mấy trận, Triệu Thành hầu sợ hãi bèn đem vàng và đất Trung Sơn đút lót cho Tề xin cầu cứu.

Tề Uy Vuơng liền phong cho Tôn Tẩn làm đại tướng kéo binh cứu Triệu, Tôn Tẩn từ chối nói:

- Tôi là kẻ bị hành hình mà được sống thừa, nếu làm đại tướng không khỏi bị chê cười là nước Tề hết người, xin đại vương cử Điền Kỵ làm đại tướng là hay.

Tề Uy Vương liền cử Điền Kỵ làm đại tướng, còn Tôn Tẩn làm quân sư.

Tôn Tẩn theo Điền Kỵ nhưng luôn giấu mặt, chỉ bày mưu cho Điền Kỵ. Điền Kỵ rất tin tưởng Tôn Tẩn nên nói đâu nghe đó không có ý kiến khác.

Điền Kỵ đem quân đi cứu Hàm Đang, Tôn Tẩn nói:

- Tướng nước Triệu không địch nổi Bàng Quyên, ta đem quân đến đó ắt thành bị hạ rồi còn gì mà cứu, chi bằng đóng quân giữa đuờng ra lệnh đi đánh Tương Lăng, Bàng Quyên nghe hay đặng hoảng sợ tức khắc rút quân về ngă giữ, như vậy Hàm Đang không cứu cũng không mất.

Điền Kỵ nghe theo lời, quả nhiên Bàng Quyên chưa hạ Hàm Đang lại nghe tin tướng nước Tề là Điền Kỵ đem quân đi đánh Tương Lăng. Hoảng sợ Bàng Quyên phải rút quân về. Về đến Quế Lăng còn vài mươi dặm lại gặp quân Tề, Bàng Quyên sai Bàng Thống ra đánh trước.

Tôn Tẩn biết trước, sai tiểu tướng là Viêm Đạt đem quân phục sẵn, Bàng Thống vừa kéo quân tới bị Viêm Đạt ồ ạt ra đánh thắng giết nhiều quân Ngụy nhưng rồi bỏ chạy, Bàng Thống sợ kế không dám đuổi theo liền rút quân về.

Bàng Quyên nổi giận mắng vang, rồi dẫn đại binh đến nơi thấy quân Tề bày trận tại Quế Lăng, Bàng Quyên nhìn biết là trận “Điên đảo bát môn” lúc trước Tôn Tẩn bày ra liền sợ toát mồ hôi nghĩ thầm:

- Có lẽ Tôn Tẩn đã về Tề chăng? Không lẽ Điền Kỵ lại biết trận này? Còn đang suy nghĩ chợt thấy Điền Kỵ cỡi ngựa xông ra.

Bàng Quyên kêu to tiếng:

- Ta đánh Triệu có can chi đến Tề mà ngươi sanh sự gây rối?

Điền Kỵ nói:

- Vô can mà ngươi đánh Triệu là gây chiến, còn ta cứu Triệu là nghĩa khí. Nay bọn ngươi là kẻ tiểu nhơn tham lợi ỷ mạnh hiếp yếu, còn ta là bậc quân tử há dễ ngồi yên để bọn tiểu nhơn tung hoành sao?

Bàng Quyên không biết xấu hổ, mắng rằng:

- Ngươi chớ ngu muội không biết lượng sức mình dám vô lễ với ta như thế!

- Ngươi chớ lớn lối hãy xem thử có biết trận này là trận gì không?

Bàng Quyên nói:

- Đó là trận đồ chơi con nít ở xứ ta cũng biết, đó là trận “Điên đảo bát môn” ngươi mau xếp trận mà lui binh cho sớm để ta ra oai rồi ăn năn không kịp.

- Bọn phách lối chỉ nghe lóm nói càn, ta không thèm đấu miệng với ngươi, ta biết bộ miệng của ngươi chỉ nói được mà làm không được. Vậy mau đầu hàng kẻo chết uổng mạng.

Bàng Quyên kinh sợ nghĩ thầm: Tôn Tẩn đã dàn trận này sẽ biến thành trường xà hai đầu đánh úp lại không khéo bị vây, liền phân ba đạo binh giao cho ba tướng Bàng Thông, Bàng Anh, Bàng Mao dặn hễ khi thấy trận biến thì xông ra một lượt làm cho trận hai đầu không tiếp ứng nhau, tức nhiên là phá được trận.

Còn Bàng Quyên tự kéo năm ngàn quân xông vào mặt trận, liền thấy tám hướng mỗi hướng có một lá cờ màu sắc khác nhau, bốn bên chỗ nào cũng có gươm giáo san sát. Bàng Quyên sợ hãi, lại thấy gươm giáo rẽ ra, có một lá cờ từ đàng xa đi lại nhìn thấy ba chữ: ”Tôn quân sư”.

Bàng Quyên kinh khủng mồ hôi ra ướt đầm. Trong cơn nguy cấp, may có Bàng Anh và Bàng Thông hộ tống lui ra. Còn Bàng Mao bị Điền Anh chém rơi đầu, năm ngàn quân của Bàng Mao chết sạch.

Bàng Quyên chạy thoát biết có Tôn Tẩn trong quân Tề nên sợ quá rút quân trốn về.

Bàng Quyên chạy rồi Điền Kỵ cũng rút quân về tâu lên vua Tề công việc thắng trận và cứu được nước Triệu.

Từ đó Tề Uy Vương rất kính trọng Điền Kỵ và Tôn Tẩn.

Sô Kỵ lại ganh tỵ sợ ngôi tướng quốc sau này về tay Điền Kỵ và Tôn Tẩn, lại đưọc Bàng Quyên sai người đem lễ vật tư thông, thúc đẩy Sô Kỵ tâu với vua Tề đừng dùng Điền Kỵ và Tôn Tẩn.

Sô Kỵ liền nghĩ ra kế sai Công Tôn Duyệt giả làm tâm phúc của Điền Kỵ ra chợ nhờ bốc sư bói giùm một quẻ coi khởi cuộc đại sự được chưa? Bốc sư nghe vậy sợ không chịu bói nhưng chưa biết nói sao, Công Tôn Duyệt bước ra vừa khỏi thì bọn quân Sô Kỵ ào vào bắt bốc sư giao cho Sô Kỵ.

Sô Kỵ liền vào chầu, tâu việc Điền Kỵ sai người đi bói như vậy có dẫn bốc sư về làm chứng.

Tề Vương tuởng thiệt nhưng không bắt tội Điền Kỵ, chỉ lãnh đạm ngờ vực thôi.

Hay được việc như vậy, Điền Kỵ liền cáo bệnh xin từ chức, Tôn Tẩn cũng xin từ chức về quê an dưỡng.

Bàng Quyên hay tin như vậy rất yên lòng, liền vào tâu với Ngụy Vương xin đem quân đánh nước Hàn vì nước Hàn là một nước yếu, đánh lấy Hàn để thêm oai danh, Tề có đến cứu sẽ đánh luôn nước Tề.

Ngụy Vương liền cho Bàng Quyên và thái tử Thân đi đánh nước Hàn.

Nước Tề bây giờ Uy Vương đã mãn phần, Tề Tuyên Vương lên ngôi nghe Bàng Quyên đánh Hàn bèn nghị sự cứu nước Hàn. Sô Kỵ cản không nên cứu.

Tề Tuyên Vương lại triệu Điền Anh, Tôn Tẩn, Điền Kỵ. Điền Kỵ thì bàn xin cứu nước Hàn, còn Tôn Tẩn không nói gì hết. Tuyên Vương hỏi, Tôn Tẩn phải nói:

- Cứu cùng không cứu cũng phải. Nước Ngụy ỷ mạnh đánh nước Hàn nếu không cứu thì nước Hàn bị mất, thì Tề dễ gì yên thế nên cứu Hàn là phải. Nhưng Ngụy đánh Hàn, Hàn chưa tổn một tên quân một tấc đất mà ta đến cứu là rước lấy tổn thất về mình. Hàn được yên, ta chịu thiệt cứu Hàn không nên.

Cứ theo ý tôi thì hứa cứu Hàn, cho sứ giả về báo tin ấy, Hàn hầu sẽ hăng hái mà đánh chờ hai bên kiệt sức, ta sẽ kéo binh đánh Ngụy là hay.

Tề Tuyên Vương đắc ý liền cho sứ giả về báo tin sẽ đem binh cứu Hàn.

Hàn hầu hay tin mừng rỡ ra sức chống Ngụy nhưng thế yếu cứ thua luôn, liền sai sứ sang Tề thúc giục cứu viện.

Bây giờ Tề Tuyên Vương sai Điền Kỵ làm tướng soái, Điền Anh làm phó, Tôn Tẩn làm quân sư kéo binh cứu Hàn.

Tôn Tẩn bàn rằng:

- Kéo binh cứu Hàn là đương đầu với Ngụy phải mệt nhọc nhiều mới thắng, chi bằng ta kéo quân qua thẳng kinh đô Ngụy. Bàng Quyên hay tin ắt hẳn rút binh về, thế nào cũng đuổi sau đuôi đoàn quân ta, ta sẽ dụ Bàng Quyên lâm trận.

Điền Kỵ hỏi dụ thế nào?

Tôn Tẩn nói:

- Ta đã kéo quân qua Ngụy trước, Bàng Quyên rút quân về đuổi theo sau ta, ta cứ vừa chạy vừa tiến về Ngụy, Bàng Quyên cứù theo dấu ta trên đường về, hắn sẽ dò xét, ta cứ mỗi ngày dồn quân một chỗ đào mười vạn cái bếp nấu ăn, ngày sau chỗ đồn quân ta đào năm vạn cái bếp và cứ mỗi ngày ít đi như vậy Bàng Quyên cứ ngạo nghễ không đề phòng, sẽ lâm trận của ta.

Điền Kỵ khen hay, cho quân làm theo.

Bàng Quyên trên đường về đến chỗ trú quân của Tề thấy bếp núc lạnh tanh, cho đếm có cả mười vạn cái bếp, Bàng Quyên sợ sệt nghĩ: quân Tề đông như vậy ta phải đề phòng mới được.

Hôm sau đến chỗ trú quân Tề, Bàng Quyên tra cứu thấy còn năm vạn cái bếp, sau thấy ít hơn chỉ còn hai vạn cái bếp. Cả mừng, Bàng Quyên kêu thái tử Thân nói:

- Quân Tề hèn nhát vùa kéo quân đến đây đã trốn đi hơn bốn phần, cứù xem số bếp đó thì biết. Bọn Điền Kỵ bị quân tình bỏ trốn, nếu hay tin chặn hậu thì chỉ còn bó tay chịu chết.

Nói xong chia cho thái tử Thân hai vạn quân tinh nhuệ đuổi gấp theo quân Tề, còn mình cùng Bàng Thông kéo đại binh theo sau tiếp ứng.

Điền Kỵ và Tôn Tẩn kéo quân tới Mã Lăng, Tôn Tẩn liền bảo Điền Kỵ cho quân đốn cây chẹn đường chỉ chừa lối nhỏ rồi cho quân mai phục hai bên chỉ dùng cung nỏ không dùng gươm giáo vì cây cối ngổn ngang không xông pha được. Đường bị chẹn nhỏ, quân Ngụy phải kéo quân giãn ra chen mà đi ở giữa đường chừa một cây lớn chạm vào đó chữ ”Bàng Quyên chết tại Mã Lăng”, lại sai hai tướng thiện xạ là Độc Cô Trần và Việt Đại dẫn hai vạn quân cung nỏ phục tại đây ban đêm hễ thấy đèn đuốc dưới gốc cây thì cứ bắn ngay vào đó. Còn lại bao nhiêu quân chia ra làm hai, Điền Kỵ phục đoạn hậu, Tôn Tẩn và Điền Anh phục đoạn tiền, chờ nghe giữa quân nổi xạ thì hai đầu nổi lên đánh úp vào.

Bàng Quyên dẫn quân gấp đuổi theo đến Mã Lăng trời sẫm tối thấy cay cối chẹn cả đường chỉ còn lối nhỏ ở giữa. Thái tử Thân thấy thế dừng lại, Bàng Quyên nói lớn rằng:

- Quân Tề sợ ta nên đốn cây chặn đường để tìm lối trốn.

Nói rồi cho quân giãn ra đi hàng nhỏ chen vào giữa cấp tốc mà đi, đến gốc cây quân sĩ thấy chữ lờ mờ báo tin, Bàng Quyên truyền nổi đuốc xem coi chữ gì ? Đuốc sáng lên thấy rõ hàng chữ ”Bàng Quyên chết tại Mã Lăng”, kinh hồn nhớ điềm thầy đoán xưa, Bàng Quyên la lên :

- Thôi rồi! Ta bị thằng què lừa rồi!

Vừa dứt lời thì quân Tề ùa ra loạn xạ. Bàng Quyên bị cả ngàn mũi tên, biết mình không sống nổi liền rút gươm tự vận. Bàng Anh bị chết giữa đám loạn quân. Quân Nguỵ lớp chết lớp hàng lớp chui vào rừng trốn. Thái tử Thân bị Điền Anh bắt giao cho Điền Kỵ. Tôn Tẩn chặt đầu Bàng Quyên treo trên xe rồi cùng Điền Kỵ thâu quân về.

Sau Tôn Tẩn vào núi Thạch Lư tu đắc quả.

Luận

Bàng Quyên phản bạn gây ra cảng đao binh kinh khủng, quân binh chết chóc, dân chúng điêu linh. Bàng Quyên phải đền tội không chạy đâu khỏi. Trái lại nếu tình bằng hữu giữa Tôn Tẩn và Bàng Quyên chân thật thì Ngụy Tề hai nước tương thân tương ái nhân dân sẽ an lạc mà an hưởng thái bình. Chỉ vì quyền lợi danh vọng mà Bàng Quyên phản bạn.

Tôn Tẩn quá tin bạn mà chịu khổ suốt đời. Đời cần có bạn nhưng biết được lòng bạn rồi mới tin chớ. Đành rằng biết được lòng người bạn là khó, dẫu khó cũng phải biết mới được, chưa biết thì chớ vội tin, nhưng cũng không khắt khe làm mất lòng bạn. Một khi biết được bạn không tốt nên tránh xa thà không bạn còn hơn, nhưng đời không phải hết người, Tôn Tẩn đã mất Bàng Quyên còn Mặc Địch với Điền Kỵ.

Tôn Tẩn là bậc hiền nhân vậy.

BẢO THÚC, QUẢN DI NGÔ

Trở lại vấn đề Bảo Thúc Nha và Quản Di Ngô (Quản Trọng). Bảo Thúc Nha và Quản Trọng là hai người cùng nhau làm bạn tri kỷ từ thuở nghèo nàn. Hai người hùn vốn đi buôn khi được lời. Quản Trọng giành phần nhiều hơn, người ta nói với Thúc Nha: Quản Trọng là nguời xấu, tham lam.

Thúc Nha nói:

- Không phải thế đâu! Quản Trọng rất tốt, chỉ vì nhà nghèo không đủ chi dùng mới giành phần nhiều.

Thúc Nha và Quản Trọng vào quân ngũ, cứ ra trận thì Quản Trọng lùi lại sau, người ta chê Quản Trọng là hèn nhát, Thúc Nha binh rằng:

- Quản Trọng vì còn mẹ già nên phải giữ lấy thân thể để bảo dưỡng.

Sau Quản Trọng làm chức thái phó dạy công tử Củ, còn Thúc Nha làm chức thái phó dạy công tử Tiểu Bạch, hai công tử là anh em ruột con vua Tề.

Về sau Tề có loạn, Thúc Nha phò công tử Tiểu Bạch sang nước Cử lánh nạn, còn Quản Trọng phò công tử Củ sang Lỗ lánh nạn.

Khi vua Tề chết, công tử Vô Tri lên ngôi nhưng cũng bị loạn chết. Bấy giờ quần thần chỉ chờ hai công tử về lên ngôi là yên.

Hay được tin lành Thúc Nha phò công tử Tiểu Bạch về bị Quản Trọng đón đường bắn Tiểu Bạch để giành ngôi cho công tử Củ. Tiểu Bạch thoát chết về nước lên ngôi lấy hiệu là Tề Hoàn Công .

Tề Hoàn Công lên ngôi rồi sai Thấp Bằng sang Lỗ giết công tử Củ, khi đi Thúc Nha dặn nên đem Quản Trọng về.

Thấp Bằng sang Lỗ xin giết công tử Củ, vua Lỗ sợ oai nước Tề liền để cho Thấp Bằng giết công tử Củ, Thiệu Hốt cũng phò công tử Củ thấy vậy tự sát mà chết, còn Quản Trọng chịu ngồi tù xa về Tề.

Thúc Nha lại lấy hết lời lẽ binh vực Quản Trọng và tiến cử vua Tề phong Quản Trọng làm chức tướng quốc do Thúc Nha nhường lại.

Về sau Quản Trọng đau yếu sắp chết, Tề Hoàn Công xin Quản Trọng tiến cử người thay thế, Quản Trọng tiến cử người khác không hề nói tới Thúc Nha.

Tề Hoàn Công hỏi:

- Sao không tiến cử Thúc Nha?

Quản Trọng nói:

- Thúc Nha không thể giữ chức ấy.

Luận

Đôi bạn thân của Quản Thúc được êm xuôi không xảy ra việc tranh hại lẫn nhau kỳ thật không tốt đẹp gì cả, người sau không thể nào học theo đó được.

Về phần Bảo Thúc Nha thì từ thỉ chí chung một mực nhường nhịn nhờ vậy mà được êm xuôi và trên đời có một Bảo Thúc Nha không bao giờ có người thứ hai.

Làm như Bảo Thúc Nha thì có khả năng nhẫn nhưng bạn là để trao đổi xây dựng cho nhau. Thúc Nha làm thế là để cho bạn mình, thiên hạ đều chê và như vậy đã vô tình chơi với người bạn xấu.

Về phần Quản Trọng đối với Thúc Nha không có tình nghĩa gì cả, trọn từ trước đến sau hoàn toàn là tính hơn giành đặng, không có chút gì đáp lại một tí gọi là.

Quản Trọng nói Thúc Nha không tham làm tướng quốc là sao? Bảo là Thúc Nha thua mình, đó là lời nói bướng thôi, còn về sự làm ta thấy Thúc Nha ăn đứt Quản Trọng về mọi mặt: Quản Trọng dạy công tử Củ là anh đặng phần nắm ngôi mà không phò lên ngôi được để cho chịu chết đau đớn thật là làm không nên thân gì cả.

Khi đi lánh nạn Thúc Nha biết trước nên sang nước Cử để phòng khi về nước đường cho tiện. Còn Quản Trọng lại dại dột đưa công tử sang Lỗ là bị hai việc sai lầm mà không biết : Một là lầm vua Lỗ là ông ngoại của công tử Củ sẽ bảo hộ cho công tủ Củ, hai là lầm đường xa về không kịp. Nếu như Quản Trọng hay Tiểu Bạch về giành ngôi rồi thì phải có trí đưa công tử Củ tìm nước khác lánh nạn hoặc qua nhà Châu chẳng hạn có thể sau giúp binh về đòi ngôi cho công tử Củ mà thị oai chư hầu được vì Tử Củ là anh. Thế mà Quản Trọng không làm gì được cả chỉ chịu nhục về Tề mà thọ hưởng giàu sang bất chánh, nay lại cho mình là hơn Thúc Nha.

Đáng lý ra khi được Thúc Nha tiến cử, thì nên từ chức tướng quốc để cho Thúc Nha làm còn mình giữ chức dưới để hiến kế như Tôn Tẩn khi về Tề mới phải.

May mà Thúc Nha nhanh trí đem công tử Tiểu Bạch về trước rồi lại y lời hứa mà bảo bọc cho Quản Trọng khỏi chết lại nhường cho địa vị cao tột bực, nếu Thúc Nha thất bại thì Quản Trọng phò Tử Củ lên ngôi chưa chắc gì Thúc nha yên tâm, có yên thân là tha tội chết cho về làm dân là Thúc Nha đội ơn mãn đời rồi.

Đời nay chúng ta đáng chê Quản Trọng mà cũng không thể bắt chước Thúc Nha được. Tình bằng hữu tương thân tuơng ái thì hai bên phải bù đắp với nhau, nếu không bù đắp thì phải chân thật không nên lường gạt nhau mà nên được. Họ là ác nhân.

BÁ NHA, TỬ KỲ

Bá Nha người nước Tống làm quan chức Thượng đại phu, có tài chơi đàn rất giỏi, thường phàn nàn trong thiên hạ chưa ai có thể thưởng thức tiếng đàn của mình. Một hôm đi sứ nước sở về đến Hàng Dương nhân đêm trăng sáng gió mát cảnh vật nên thơ, Bá Nha liền cho thuyền ghé vào bờ lấy đàn ra gảy, trên bờ Tử Kỳ đốn củi về ngang đứng dừng nghe trộm tiếng đàn.

Cung đàn trầm bổng lại đứt dây, Bá Nha cho rằng có người rình nghe, nhưng lại nghĩ nơi đây rừng núi non chập chùng chắc là đạo tặc, liền cho quân rẽ sào vào bờ tìm bắt, Tử Kỳ lên tiếng đáp:

- Tôi là người đốn củi chợt qua đây nghe đại nhân gảy đàn hay nên trộm nghe, chớ không phải là kẻ bất lương.

Bá Nha không tin một kẻ tiều phu nhỏ tuổi lại biết nghe đàn tuyệt diệu của mình liền hỏi:

- Ta đàn bản gì ban nãy đó?

Tử Kỳ không chút chần chừ đáp:

- Ngài đàn bản Khổng Tử thương tiếc Nhan Hồi.

Bá Nha nghe có ý trọng người am hiểu tiếng đàn, liền mời xuống ghe trà nước, và lên dây gảy một bản đàn khác, tâm trí đang nghĩ ngợi chốn non cao - Tử Kỳ khen:

- Tiếng đàn cao vút, chí của người vời vợi như chốn non cao (nga nga hồ chí tại sơn cao).

Bá Nha lại đàn một bản khác, để tâm theo dòng nước chảy.

Tử Kỳ lại khen:

- Chí ngài cuồn cuộn như dòng nước chảy (dương dương hồ chí tại lưu thủy).

Bá Nha nhìn nhận Tử Kỳ là bạn tri âm của mình biết thưởng thức tiếng đàn nên rất quý mến liền cùng nhau kết tình bằng hũu gọi là tri âm. Bá Nha mời Tử Kỳ theo mình về Tống để chung hưởng, Tử Kỳ cho biết mình còn cha mẹ già phải phụng dưỡng. Bá Nha liền lấy ba nén vàng giao cho Tử Kỳ để lo phụng dưỡng cho cha mẹ, khi từ biệt nhau hẹn sang năm ngày này sẽ tương hội tại bến Hàm Dương.

Y hẹn, năm sau Bá Nha vào triều tâu về thăm quê hương, đến bến cũ đem đàn ra gảy bản đàn nghe sao như oán như than, Bá Nha sanh nghi liền tìm đến nhà Chung Lão là cha của Tử Kỳ mới hay Tử Kỳ đã chết. Bá Nha thương tiếc không nguôi, xin đến mả để thăm người bạn tri âm lần cuối cùng. Đến bên mồ, Tử Kỳ bày ra đồ tế lễ, Bá Nha lấy đàn ra gảy một bản điếu nghe thê thảm. Bá Nha khóc thảm thiết khi đàn xong liền đập nát cây đàn thề trọn đời không đàn nữa. Rồi Bá Nha xin rước ông bà Chung về Tống thay thế Tử Kỳ nuôi trọn đời.

Luận

Như trên ta nhận thấy, tình bằng hữu phải có sự tương thân tương trợ quân bình với nhau, nhưng sự quân bình không hẳn là tài của vật chất, mà quân bình tôn trọng nhau về tài đức, hẳn không có sự lường gạt nhau. Bằng hữu tri âm của đôi bạn Bá Nha - Tử Kỳ về mặt tinh thần rất cao, Tử Kỳ chỉ biết nghe tiếng đàn mà Bá Nha thỏa mãn về tài nghệ của mình mà đôi bên nên nghĩa kim bằng. Tử Kỳ không vì tài lợi mà chỉ tài đàn và đức độ cuả Bá Nha, còn Bá Nha suốt đời chưa ai nghe được tiếng đàn của mình, nay Tử Kỳ nghe đặng nên cho là người bạn tri âm duy nhất. Bá Nha đã chung thủy đối với Tử Kỳ phụng duỡng thay bạn nuôi cha mẹ bạn suốt đời. Bá Nha - Tử Kỳ là bậc hiền nhân vậy.

Thời nay thấy tình bạn như Thúc Nha - Quản Trọng, như Bàng Quyên - Tôn Tẩn thì có, còn tình bạn như Bá Nha - Tử Kỳ thì ít có lắm.

Xưa là sao nay là sao?

Trăm năm tình nghĩa dạt dào còn đây.

LƯU BÌNH, DƯƠNG LỄ

Lưu Bình con nhà giàu có, cha mẹ chết sớm, cùng Dương Lễ làm bạn. Dương Lễ vốn nhà nghèo khổ, nhờ Lưu Bình rất mật thiết ra tiền nuôi dưỡng cho Dương Lễ ăn học. Đến khoa thi, hai anh em đều lên đường ứng thí.

Dương Lễ nhờ chăm học nên thi đỗ, được bổ nhậm ra làm quan. Còn Lưu Bình vì hay ăn chơi học kém nên thi rớt trở về, rồi ngày ngày cứ ăn chơi, sự học chỉ lấy lệ nên thi rớt luôn. Lưu Bình buồn bực ăn chơi mãi cho đến khi sự nghiệp sạch trơn, lại gặp thời loạn lạc phải bỏ xứ đi lang thang vất vả đói khát.

Cùng khổ quá, Lưu Bình tìm đến Dương Lễ nhưng Dương Lễ không tiếp sai quân ra bảo: Quan lớn không có anh em với kẻ nghèo, nay tạm cho ngươi ở nhà ngoài ăn cơm hẩm canh rau, uống nước lã. Nghĩ thân phận thầm tủi thẹn giận người bạn vong ân bội nghĩa, Lưu Bình liền bỏ ra đi.

Ra ngoài đường, Lưu Bình gặp người đàn bà trẻ đẹp, nàng ấy gợi chuyện hỏi thăm, Lưu Bình đem chuyện mìmh nói hết cho nàng nghe.

Nàng ấy tỏ ra lòng thương hoàn cảnh Lưu Bình, xin tình nguyện nuôi Lưu Bình rồi cho ăn học thành tài, làm cho kẻ bội nghĩa vong ân sáng mắt và xin Lưu Bình ăn học cho thành tài sẽ tính việc trăm năm. Lưu Bình cùng quẫn và căm hận nên quyết chí học hành. Nhờ đó mà Lưu Bình học hành ngày đêm không xao lãng, sau đến kỳ thi đậu, liền trở về nhà người đẹp đại ân đã đi mất, Lưu Bình rất sầu não vì in trí rằng thi đậu sẽ làm vui lòng người ân. Lưu Bình cố tìm nàng ấy mãi không gặp.

Bây giờ Lưu Bình định đến Dương Lễ xem coi còn hành động gì nữa và xỉ mạ vào mặt cho bỏ ghét.

Vừa đến thì thấy Dương Lễ ra đón tiếp rất nồng hậu, Lưu Bình mặt giận phừng phừng, vừa muốn mắng cho hả giận liền thấy người đàn bà nuôi mình đứng phía sau chắp tay xá chào!

Lưu Bình còn ngạc nhiên. Dương Lễ giới thiệu đây là vợ lẽ của tôi. Lưu Bình mặt tái nhợt và cảm động ôm Dương Lễ mà khóc lại thốt ra lời:

- Ôi! Đến nay tôi mới biết tôi chỉ là hạt sỏi nằm bên núi Thái Sơn!

Luận

Bằng hữu như Lưu Bình Dương Lễ thật là chung thủy, chơn thật, không tranh giành, chỉ nâng đỡ cho nhau.

Khi Dương Lễ nghèo, Lưu Bình nuôi cho ăn học đến khi thành tài, đến lượt bù lại muốn nâng đỡ cho bạn mình làm nên danh phận nên chọc tức rồi cho vợ lẽ nuôi cho ăn học thành tài để bù lại công ơn nuôi dưỡng mình khi trước.

Bằng hữu ta đã hiểu thêm nghĩa chữ ”bằng” và đôi bên đều thương và lo cho nhau, thế nên cả đôi bên đều tròn ân nghĩa.

Bằng hữu với ta nên noi gương Lưu Bình và Dương Lễ. Họ là bậc hiền nhân vậy.

15. ĐỐI VỚI BÀ CON XÓM GIỀNG

Nho nói: “Nhứt cận lân nhì cận thân”.

Câu này ta dịch ra : Bà con xa không bằng xóm giềng gần.

Sống chung trong xã hội quan hệ với người gần và lấy đó làm môi giới đến xa.Thân cận thường ngày giao tiếp với ta, nếu làm tròn bổn phận đối xử quân bình thì người chòm xóm gần gũi là thân thiết; nhưng làm không tròn bổn phận thì thường hay gây gổ sanh thù hiềm hơn người xa.

Ca dao có câu: “Xa thì thương, gần thì thường”.

Bằng cách nào ở chòm xóm phải có sự hòa nhã nhau, không thể oán ghét nhau mà gần nhau cho được. Không nên oán thù với người xung quanh mà cần thân thiết với người xung quanh ta.

ĐÔNG GIA THỰC PHẠN TÂY GIA MIÊN

Điển tích thành ngữ này là nhà ở giữa gây bất hòa hai nhà hai bên Đông và Tây. Câu trên có nghĩa ăn cơm nhà phía Đông, ngủ nhà phía Tây.

Theo điểm này là nhà ông già ở giữa có một con gái đẹp, hai chàng trai ở hai bên đồng dạm nói, nhà phía Tây có chàng trai đẹp mà nghèo, nhà phía Đông giàu mà có chàng trai xấu. Người cha hỏi ý con mình ưng bên nào?

Người con gái tham cả của lại cả sắc, nên nói: ăn cơm nhà phía Đông ngủ nhà phía Tây. Như vậy là gây oán thù đôi bên.

BÁ NGUNG

Bá Ngung đời Đường làm quan huyện đối với chòm xóm thật là thân thiết, có lần người hàng xóm đau, ông một ngày thăm hai lượt nhưng khi hay tin con đau vì nhà xa vì bận việc dân không về thăm được. Người thời ấy rất kính trọng cử chỉ Bá Ngung.

Ông Bá Ngung vẫn biết rằng: Mình vì chòm xóm gần là vì bên ngoài thôi, còn thâm tâm thương lo cho con nhiều hơn. Nhưng ít ra bên ngoài cũng làm được như vậy để gây cảm tình nhau. Và như vậy là tròn tư cách đối với chòm xóm. Đối với chòm xóm mà gây thù oán là tai hại rất nhiều, không khác nào ở chỗ đất đầy chông gai chung quanh chỉ là hầm hố, có ngày cũng phải đạp gai lọt hố.

Trái lại đối với chòm xóm xây dựng được tình thương thân mật ví cũng như ở chỗ đất bằng rộng đi lại thong thả bình an vô sự.

TƯỚI DƯA CHO XÓM GIỀNG

Tống Tựu làm quan doãn ở biên thùy nước Lương giáp ranh nước Sở.

Người đình trưởng ở nước Lương và người đình trưởng nước Sở hai người hai bên cùng trồng dưa. Người nước Lương chăm làm và tưới luôn nên dưa tốt. Còn bên nước Sở ít chăm sóc ít tưới nước nên dưa xấu.

Người đình trưởng thấy dưa bên nước Lương tốt hơn dưa mình nên sinh ra ghen ghét. Đêm đến lén sang cào phá dưa nước Lương héo chết đi một tí.

Sau người đình trưởng nước Lương biết nói với trưởng lại ý muốn đem dân qua cào dưa nước Sở trả thù, trưởng lại nói lên. Tống Tựu bảo:

- Ôi! Sao làm thế được, làm như vậy chỉ gây oán chuốc vạ mà thôi. Nay ta bảo đừng sang cào dưa người mà nên đêm đến lẻn sang tưới dưa người ta mà đừng cho biết thì việc sẽ tốt đẹp.

Người đình trưởng nghe lời Tống Tựu cứ vậy mà làm. Sau dưa bên Sở mỗi ngày một tốt, người đình trưởng ở bên Sở lấy làm lạ, xét mãi mới biết người bên nước Lương tưới giúp.

Quan doãn nước Sở biết việc đó, tâu lên vua Sở. Vua Sở có ý buồn thẹn, nghĩ rằng: Ngoài cái tội đi cào dưa, chắc còn nhiều việc khác rắc rối đáng tội với người ta nữa. Vua bèn lấy của sai người sang nước Lương để tạ tội và giao hảo.

Vua Lương cũng cũng tin lòng thành thật nên hai nước giao hòa bền lâu.

Luận

Cổ ngữ có câu:

“Chuyển bại nhi vi công, nhân họa nhi vi phúc“

Nghĩa là:

Xoay cái bại làm thành cái thắng, nhân cái họa làm nên cái phúc.

Lão Tử nói:”Báo oán dĩ đức” nghĩa là đem đức báo oán.

Người ta đã làm không phải, sao lại bắt chước người ta?

Tuy là ở biên giới,nhưng hai bên giáp nhau thành xóm giềng, tuy xóm giềng mà khác nước cho nên ở biên giới thường hay xảy ra tranh giành phá hoại xung đột lẫn nhau. Đôi bên nếu có xảy ra chiến tranh đao binh thì hẳn có nhiều nguyên nhân nhỏ gây ra lớn, khi lớn rồi thì ai cũng bảo thủ nước mình đến chừng đó chỉ mạnh đặng yếu thua không còn lấy ân báo oán gì được.

Ngay ban đầu có xảy ra việc nhỏ nhặt mà người ta biết lấy ăn báo oán như Tống Tựu thì rất tốt đẹp không xãy ra việc lớn, hay ít có xảy ra. Còn người ở chòm xóm trong một nước, tỉnh, huyện, xã là thân mật hơn như cùng nhau cứ giữ phương châm: lấy ân báo oán thì làm gì chòm xóm không được an vui.

Trong chòm xóm nên có bổn phận chung nhau lo cho xóm, tùy khả năng giúp đỡ kẻ nghèo khổ, người đau ốm, trẻ mồ côi không ai nuôi dưỡng chăm lo cho trẻ em thất học được vào trường.Ta thường sợ trong xóm mà có kẻ lưu manh mà kẻ lưu manh đó chính do đám trẻ vô chủ thất học mà ra. Những trẻ thơ vô tội đáng thương tại ta không lo để rồi sau này chúng thành ra đáng ghét.

Ta đã thấy:

Mất cha xa mẹ ở cùng bà

Tuổi mới lên năm chịu xót xa

Sáng sớm không cơm bà đến chợ

Buổi mơi bụng đói bé ngồi nhà

Trông người ném lá còn thừa bánh

Chờ kẻ quăng bao dính chút quà

Thấy mà thêm chạnh lòng chua xót

Trách kẻ ngồi trên kể giọng ca.

Trong xóm mà có kẻ thất học nghinh ngang ăn nói tục tĩu, trẻ lưu manh là trách nhiệm ở xóm không lo. Đối với chòm xóm rất quan trọng với quốc dân xã hội, vì thế ở đây ta có một ít phương châm căn bản:

1) Không tham lam còn bố thí giúp đỡ:

Gặp của cải tiền bạc của chòm xóm để sơ hở khôøng nên lấy, cần lấy cất giữ giùm lên tiếng cho người biết trả lại chủ. Vật nhỏ cho đến cây kim, lá trầu, trái ớt, cọng rau ta không nên tự lấy mà phải hỏi chủ cho rồi mới lấy. Đồ vật dụng chòm xóm cần vui vẻ cho mượn, nếu có mượn làm xong mau đem trả. Nếu có của cải dư dả nên thí cho chòm xóm hoặc cho mượn nếu mượn phải y hẹn hoàn trả không nên thất hẹn.

2) Phải lễ phép:

Chòm xóm ra vào gặp mặt nhau chào hỏi cung kính, đến nhà xóm giềng thăm nom phải nói thật lời phải ngồi có chỗ không vì thân thiết mà xông pha. Nam nữ cùng nhau phải giữ lễ phép phân biệt, tiền bạc cho mượn qua lại phải phân minh, không nên mượn hay cho mượn riêng với người chồng hay người vợ, y hẹn không thất tín.

Chòm xóm cùng nhau đôi bên muốn nên chồng vợ phải có hôn lễ đàng hoàng, không nên nam nữ trêu cợt lả lơi mất phép lịch sự.

3) Phải thủ tín:

Không nên nói láo, chuyện có nói không , chuyện không nói có, không nói thêu dệt, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung dữ thô lỗ. Nhất là hứa hẹn với ai điều gì phải giữ lời hứa.

Người mà thất tín không còn ai tin dùng được nữa. Nho có câu: “Nhơn vô tín bất lập“ nghĩa là: Người không giữ chữ tín không còn làm nên.

Phải cẩn thận lời nói, khi lỡ lời nói ra khó đuổi theo lấy lại, một lời nói ra bốn ngựa khó đuổi theo “Nhứt ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy“.

4) Phải sáng suốt:

Cần sáng suốt biết lẽ phải quấy, không nên say sưa chửi bới lông bông, la lối om sòm mất trật tự, phải thường bình tĩnh đối với chòm xóm, không nên nóng nảy hấp tấp, phải nhẫn nại.

5) Có nghề nên chỉ cho nhau:

Phải nâng đỡ sự làm ăn cho chòm xóm, có nghề nên tận tâm chỉ bảo cho nhau, trong xóm có thể chung nhau làm một nghề cho phát đạt như: xóm ruộng, xóm rẫy, xóm làm vườn, xóm chiếu, xóm đệm...

Đối với chòm xóm mà quân bình không chênh nghiêng, không gây căm thù đó là môi trường xây dựng hạnh phúc cho quốc dân xã hội rất trọng đại vậy. Có như vậy mới đáng bậc hiền.

16. BỔN PHẬN CHỦ ĐỐI VỚI NGƯỜI LÀM CÔNG

Xưa nay phần này người ta coi thường, kẻ có tiền tung ra mướn người, mua người rồi thì tha hồ sai khiến, mặc tình đánh đập hành hạ, người làm công thành ra con vật hy sinh cho họ.

Mặc dù chủ và tớ trong đó phải có phần bù đắp cho tương xứng, nhưng chủ là người có tiền của còn tớ là kẻ nghèo hèn, chủ phải rộng rãi bao dung cho tớ. Chủ nhà có độ lượng quân tử hay tiểu nhơn thường tình ở điểm này.

CHÂU HẮC MẶC

Tương truyền ông Châu Hắc Mặc là nhà phú hộ không tin thuyết nhơn quả, lại xem đầy tớ là con vật hy sinh cho mình. Muốn thử nghiệm xem thuyết nhơn quả có hay không, một hôm Châu Hắc Mặc gạt tên đầy tớ vào rừng rồi bất thần xô xuống hố lấp đá lại cho chết mất tích đi. Hắc Mặc lại thề rằng: Chừng nào ngựa có sừng ta mới khai việc này. Rồi bỏ ra về xem như không có việc gì hết.

Lâu ngày vợ của người đầy tớ ở nhà cứ trông chồng biền biệt, rồi bồng con đi lang thang, lại đến quan kiện ngớ ngẩn không ai biết manh mối gì cả. Suốt năm trời không ai biết được gì cả, Châu Hắc Mặc cho rằng không có nhân quả gì, không còn bận tâm nghĩ đến việc giết người vô cớ nữa, vả lại có ai biết mà lo.

Năm sau quan quận cũ đổi đi, quan mới về, người vợ của tên đầy tớ cũng đến quan kiện về chồng mất tích. Ban đầu quan ngỡ là có bằng cớ cầm bút để ghi, nhưng lời cáo không có gì ghi được, lại vô tình quan lại nghiêng châu tạt vào nghiên mực. Quan lại liền ghi ba chữ: Châu Hắc Mặc. Có nghĩa là nghiêng châu tạt vào nghiên mực thế là quan cho đây là thủ phạm giết người, liền viết trát gởi về làng cho đòi tên Châu Hắc Mặc.

Khi bị mời, Châu Hắc Mặc kinh hồn nhưng nghĩ rằng có gì làm cớ để trị tội, nên thản nhiên đến gặp quan.

Quan hỏi:

­­- Ngươi là Châu Hắc Mặc có phải là thủ phạm giết chồng của bà này không?

Châu Hắc Mặc chần chờ nghĩ thầm: Không lẽ ông này biết được sự làm bí ẩn của mình, không có gì làm bằng cớ, nên một mực chối dài.

Quan nói:

- Ta là Mã Hữu Giác, ai cũng nghe danh xử án rất công minh, không bí ẩn nào giấu được. Nay việc này ngươi làm cứ khai gặp ta không chối cãi được.

Châu Hắc Mặc nghe tên quan là Mã Hữu Giác liền cả sợ thầm nghĩ: Mã Hữu Giác là ngựa có sừng như vậy là ứng điềm thề khi trước, vậy nay đâu còn chối cãi được nữa. Nghĩ như vậy rồi, Châu Hắc Mặc liền khai rõ đầu đuôi tự sự muốn thử xem có nhân quả hay không mà ra.

Quan liền xử tịch thu hết sự nghiệp của cải của Châu Hắc Mặc giao cho người đàn bà kia nuôi con.

Đến lượt hết của còn mình không, Châu Hắc Mặc phải đi ăn xin làm đầy tớ cho người, khi biết được cái khổ của người ăn năn thì đã muộn.

Bậc hiền nhân phải thấy cái khổ của người.

ÔN CÔNG

Ông Ôn Công biệt hiệu là Tư Mã Quang, thi đỗ tiến sĩ, làm quan cho ba triều Tống Nhân Tôn, Anh Tôn và Thần Tôn, vốn là người có lòng nhân từ biết thương kẻ dưới. Thường hay thức khuya xem sách, mặc dầu có tên tớ già nhưng Ôn Công có việc cần cứ đi làm lấy để tên tớ già ngủ yên giấc.

Về sau Ôn Công làm đến tể tướng vẫn đối xử tử tế đối với lão bộc. Thật là bậc đại hiền.

TRƯƠNG THỊ

Thiếu nữ Trương Thị về nhà chồng ở xứ Tô Thành, khi về nhà thăm cha mẹ ruột có tên tì nữ mang hộp đồ nữ trang theo hầu, chẳng may giữa đường làm rơi lâu sau mới hay liền trở lại tìm, thấy người tật chơn còn trẻ tuổi ăn mày, ôm hộp đồ ngồi chờ, tên tì nữ hoảng hốt hỏi thì người ấy giao trả lại và nói:

- Tôi đã cùng khổ thế này mà còn tham thêm của vô cớ thì sẽ rước thêm tội khổ nữa, còn mong sao khá được.

Tì nữ mừng lắm, lấy chiếc thoa ra tạ ơn.

Người ăn mày cười nói:

- Bao nhiêu của kia mà còn không lấy lại lấy chiếc thoa sao?

Tì nữ nói:

- Tôi làm rớt mất hộp này thì phải chết chứ không làm sao được. May mà người trả lại là cứu mạng sống cho tôi vậy, dầu người không mong báo đáp tôi cũng không quên ơn. Nhà chủ tôi ở đường đó, chỗ đó về sau người đến cửa tôi sẽ để phần cơm của tôi cho người ăn.

- Nhưng cô ở trong nhà, tôi làm sao thấy được?

- Trước nhà có cây trúc cao, người cứ rung cây là tôi biết.

Người ăn mày sau cứ làm y lời, người tì nữ cứ đem cơm cho. Lâu ngày người nhà biết được, chủ hỏi, tên thị tì nói thiệt, người chủ gọi tên ăn mày vào nhà nuôi và sau gả tên tì nữ cho và cho vợ chồng nên nhà nên cửa.

Luận

Người giàu sang nên phòng xa: “Ai mà giàu ba họ“.

Kẻ nghèo khổ hy vọng tương lai: “Ai lại khó ba đời“.

Ai cũng biết vui biết khổ chẳng qua người tốt số nhờ nhân lành đời trước, kẻ vô phần ấy tại nhân xấu kiếp xưa.

Nên xót thương kẻ dưới không nên bắt làm thái quá phải biết khi nóng lạnh, đói bệnh của người ở. Nâng đỡ cho người tôi tớ là nâng đỡ cho xã hội bình đẳng ấy là bậc hiền nhân vậy.

Ông Ôn Công thương người lão bộc.

Ngôi thượng quan lòng vẫn trọng người.

Họ Trương thương đứa tì gia.

Giúp cho xum hợp cửa nhà làm nên.

Xét ra lẽ người trên kẻ dưới

Là trợ nương giúp đỡ lẫn nhau.

Tánh nhơn hiền chí sơn cao

Mà dòng lưu thủy dạt dào trong veo.

17. NGƯỜI LÀM CÔNG ĐỐI VỚI CHỦ

Một người tớ trung thành đối với chủ là một tên tớ lý tưởng của cụ Đồ Chiểu ai nghe cũng cảm động:

“Một mình ở chốn đại đề

Người đi khuyên giáo tối về quây đơm

Dốc lòng trả nợ áo cơm

Sống cho trọn thảo thác thơm danh hiền “

Một khi chủ biết thương tớ, tất nhiên tớ phải biết bổn phận làm tròn với chủ. Khi cùng quẫn đã lãnh thọ tiền của, của người thì có bổn phận phải đền bù lại bằng công, Nho nói: “Thọ tài như thọ tiễn“ nghĩa là: Thọ lãnh tiền của nặng nề như mang lấy mũi tên.

Tuy là cơn nghèo cũng tạm phải làm cho người để nhờ hột cơm manh áo, nhưng ai cũng hy vọng tương lai sẽ làm nên sự nghiệp của cải. Chớ hy vọng mong cầu đó muốn được người tớ phải gieo nhân đức phải có bổn phận, làm xong bổn phận với chủ, lãnh việc phải làm tròn, phải giữ gìn tài vật của chủ, phải ngay thật…

Khi làm nên sự nghiệp riêng vẫn nhớ ơn chủ, nghĩa xưa với chủ. Làm tròn bổn phận người tớ đối với chủ nhà là một đơn vị nhỏ trong xã hội, nhưng không thể xem thường được, vì là tự thân của người đó không có tánh xấu đối với quần chúng, là một đơn số để thành đại số, không thể thiếu được cũng đáng gọi là hiền nhân vậy.

18. NAM NỮ ĐỐI VỚI NHAU

Nam nữ phân biệt giữ lễ cho nhau có thể “tương trợ bất tương thân“.

Giúp đỡ nhau của cải lời nói, không nên gần gũi thân mật nhau. Tồi phong bại tục, tệ hại cho xã hội do xem thường việc này mà ra. Không phải riêng cho trai tơ gái góa mà chung cho cả nam nữ, trai tơ gái góa có xảy ra việc đê hèn cũng chưa tệ hại mà trai có vợ, gái có chồng trong bà con thân tộc mà giao tiếp thân mật ắt có nguy hại xảy ra những việc xấu xa không thể tránh thù hận chết chóc do đây nhiều hơn hết.

VĂN KHƯƠNG VỚI THẾ TỬ NHƯ NHI

Tề Hy Công có hai người con gái rất xinh đẹp, người lớn tên Tuyên Khương đã gả cho Vệ Hầu, còn người nhỏ tên là Văn Khương, nhan sắc tuyệt trần lại học hành thông thái. Thái tử Như Nhi là anh cùng cha khác mẹ với Văn Khương, diện mạo khôi ngô, lớn hơn Văn Khương hai tuổi.

Hai anh em tới lui nhau từ khi nhỏ lần cho tới lớn. Tề Hy Công vì thương con không bắt buộc giữ lễ phép. Khi Văn Khương bệnh nằm trên giường, Như Nhi tới lui thăm viếng rồi ngồi luôn trên giường trò chuyện thành ra tiêm nhiễm, bây giờ tình anh em đổi ra thành loạn đạo vô liêm sỉ. Đến khi Tề Hy Công hay được thì hai anh em ra tình si mê hết giải cứu.

Kịp đến Lỗ Hoàn Công sai sứ cầu hôn với Tề, Tề Hy Công liền gả Văn Khương về Lỗ. Nhưng Văn Khương và Như Nhi vẫn thương nhớ nhau. Cách ít lâu Hy Công chết, Như Nhi lên ngôi lấy hiệu là Tề Tương Công.

Bây giờ Lỗ Hoàn Công về thăm Tề có đem vợ là Văn Khương theo. Khi đến sông Lạc Thủy đã thấy Tương Công đón rước, hai bên tay bắt mặt mừng về kinh đô đãi đằng rất trọng hậu.

Tiệc mãn, Tề Tương Công xin phép Hoàn Công cho đưa Văn Khương vào hậu cung thăm viếng các cung phi, Lỗ Hoàn Công chịu cho. Tề Tương Công dẫn Văn Khương vào phòng kín đã đặt sẵn, hai anh em vui vầy đến sáng.

Lỗ Hoàn Công ở ngoài đợi mãi sanh buồn, nghi chẳng biết chuyện gì ở bên trong tường kín lầu cao. Lỗ Hoàn Công hỏi thăm dò xét mới hay Tương Công không có chánh phi, chỉ có thứ phi là Liên Thị mà Tương Công đã ghét bỏ.

Bây giờ trưa lắm, Văn Khương mới từ trong đi ra. Lỗ Hoàn Công liền vào từ biệt rồi ra về.

Tề Tương Công nghĩ việc làm tồi bại của mình sợ không giấu được liền sai Thạch Chi theo dò hỏi biết Hoàn Công đã rõ việc đó, Tề Tương Công liền sai người đặt tiệc rượu nơi quán dịch bên ngoài rồi sai mời Lỗ Hoàn Công tới đó để uống chén chia tay. Nhưng lúc quá buồn tức, Lỗ Hoàn Công không biết gì nguy hiểm cứ uống giải sầu, vào tiệc cứ uống không cần nói chuyện gì cả, uống cho đến say gục tại chỗ, Tề Tương Công sai Bành Sanh phò để Hoàn Công lên xe đưa đi dặn nhỏ bảo giết đi.

Bành Sanh có cựu thù với Hoàn Công, thấy Hoàn Công bất tỉnh bèn thò tay vào hai bên be sườn bóp thật mạnh, Lỗ Hoàn Công la lên một tiếng to hộc máu mà chết, rồi phao tin Lỗ Hoàn Công cảm chết cho đưa xác về nước, còn Tề Tương Công lưu Văn Khương tại Bối Khâu cất cung để ở đó, từ đó lấy cớ đi săn thường ra ở nơi đó.

Hai tướng của Tề Tương Công là Liêm Xứng và Quản Chi có mối thù với Tương Công, chờ Tương Công ra Bối Khâu phục binh bắt Tương Công chặt làm hai liệng xuống ao.

Luận

Cái tệ hại của anh em nhà Tề là do ban sơ không giữ lễ độ mà ra, lại nữa vua cha là Tề Hy Công không nghiêm khắc để cho lửa gần rơm thì thú tính không ngăn, làm con người mà lòng xấu hơn ác thú, gây cho xáo trộn cả nước khổ sở cũng vì chút tình vui của thú tính.

NGƯỜI NƯỚC LỖ

Người nước Lỗ có người đàn ông ở một mình, bên xóm cũng có người đàn bà góa ở một mình.

Nửa đêm giông to gió lớn, nhà cửa của người đàn bà bị sập bèn sang xin ngủ nhờ, người đàn ông đóng cửa không cho vô, người đàn bà đứng ngoài cửa nói:

- Người sao bất nhân không cho ta vào trú mưa?

Người đàn ông đáp:

- Ta nghe nói đàn ông, đàn bà sáu mươi tuổi trở lên mới ở chung được, nay ngươi còn trẻ mà ta cũng còn trẻ cho nên ta không cho ngươi vào được.

Người đàn bà nói:

- Sao ngươi không làm theo Liễu Hạ Huệ ủ người con gái vào lòng mà không tai tiếng gì?

Người đàn ông nói:

- Liễu Hạ Huệ làm như thế mà không tai tiếng, còn ta không làm như thế thì cũng không tai tiếng gì. Cái bằng nhau là đồng không tai tiếng gì, còn việc làm phải tùy khả năng mình không bắt chước ai được.

Khổng Tử nghe câu chuyện khen rằng: Phải lắm, kẻ muốn học hạnh của Liễu Hạ Huệ nhưng không nên bắt chước cách làm, nhưng bằng cách nào mà không hoen ố thì cũng như Liễu Hạ Huệ, đồng bậc đại hiền vậy.

Luận

Sức lực thắng nội tâm của người có hạn, tuy gần sắc lòng không lay động, nhưng gần gũi lâu ngày gây ra sự bồng bột quá hạn, đến chừng đó còn thắng được nữa không?

Không gì hơn là nam nữ phải giữ lễ độ không nên thân mật mà gây tai hại. Thà giữ chắc như anh chàng nước Lỗ hay hơn bắt chước Liễu Hạ Huệ, mà không làm được như Liễu Hạ Huệ. Từ xưa đến nay chỉ có một không hai Liễu Hạ Huệ, cho đến Quan Công bị Tào Tháo cho ở chung với hai chị dâu, Tháo muốn làm cho Quan Công sanh lòng tà để sau này ở luôn với Tàu không về Lưu nữa. Thế mà nghĩa khí như Quan Công còn phải chong đèn đọc sách suốt đêm không dám làm như Liễu Hạ Huệ thay, huống gì người nay hơn sao?

Sắc đẹp là lửa dữ đốt cháy tất cả mà giỡn với lửa không tài nào khỏi bị cháy. Những tội ác tày trời về sắc dục do không giữ lề mà ra.

Trong kinh Di Giáo có đoạn Phật dạy:

“Cận sắc như ngũ vật cận bàng hỏa

Nhứt như khô thảo tài xúc tắc thiêu

Nhị như khô mộc hư chi tắc nhiên

Tam như thiết nhiên chi tắc dong

Tứ như thủy bức chi khả hạt

Ngũ như hư không nhậm kỳ hỏa phần"

Nghĩa là:

Gần với sắc như năm vật gần lửa

1) Như cỏ khô chạm lửa liền cháy

Dụ cho người thường gần sắc liền si

2) Như cây hơ lửa liền cháy

Dụ cho người có học thức nhưng gần sắc lâu một chút rồi cũng đắm mê

3) Như sắt lửa đốt cũng chảy

Dụ cho người dày công tu tập rèn luyện thế mà cứ xông pha với sắc đẹp dù lâu nhưng cũng xiêu ngã.

4) Như nước đốt riết cũng khô

Dụ cho bậc tu chứng ngũ thông mà chạm sắc cũng ngã.

5) Như hư không mặc cho lửa cháy.

Dụ cho bậc chứng được tánh chơn không tam muội (kiên cố) không còn cách nào bị lay chuyển nữa.

Sám văn:

Sắc đẹp dữ lửa nhạy ghê!

Như cỏ gần lửa vừa xê cháy liền

Dụ cho thông thường chòm giềng

Hửng hờ nam nữ khó tuyền yên thân

Lại như củi khô kề gần

Lửa phà cũng cháy muôn phần tiêu tan

Như người có học lo toan

Nhưng gần với sắc khó toàn thân danh

Kìa như sắt thép vững vàng

Nhưng vào trong lửa khó toan đặng còn

Như người hiền đức vuông tròn

Thế mà gần sắc lâu lần hư vong

Còn như nước lạnh hơn đồng

Lửa đốt cũng phải cạn dòng khô khan

Như người tu đã bền gan

Khinh lờn với sắc muôn vàn uổng công

Đặng như trống rỗng hư không

Mặc cho lửa đốt có hồng hại chi

Ví như người chứng chơn qui

Y nơi Phật tánh không vì chuyển lay

Khó thay! Người ơi! Nguy thay!

Thà nên xa lánh còn hay hơn gần.

Trong các bổn phận, phần nào cũng quan hệ thận trọng, nhưng bổn phận làm cha mẹ coi như phần sơ khởi nuôi con nói riêng, nuôi con dạy con cho xã hội sau này nói chung. Bổn phận làm cha mẹ phải làm tròn sứ mạng đó nếu được tròn là lợi lớn cho xã hội, trái lại không làm tròn sứ mạng đó thì là tai hại lớn cho xã hội.

Bổn phận mà dạy con cho nam nữ không xảy ra tai hại xấu xa thì là tốt đẹp như dòng nước trong thấm lòng đất mẹ. Trái lại để cho hoen ố tai hại xảy ra thì không khác nào rừng lửa bừng lên một ngày kia sẽ thiêu rụi vũ trụ.

19. ĐỐI VỚI CẦM THÚ

Dựa theo khoa học mà nói: Người và vật có thể như nhau, cắt cổ lột da nó biết đau biết giãy, lấy đó biết nó đau khổ; chim xổ lồng vỗ cánh cao bay, cá gặp nước trương vi bơi lội; người ra khỏi ngục tù vội vã về quê, lấy đó mà biết đồng khổ đồng vui.

Trên đời chí hỉ là sống, chí thâm là chết, lòng tham sống sợ chết người vật như nhau.

Sách Lễ Ký viết: “Vô cố bất sát“. Khổng Phu Tử dạy: “Câu nhi bất vòng, qua bất xạ túc“. Nghĩa là câu mà không lưới, bắn không bắn chim ngủ đêm, Mạnh Tử nói: Nghe tiếng la không nỡ ăn thịt, thấy nó sống không nỡ thấy chết, Tử Sân đào ao thả cá không ăn thịt thánh hiền xưa có lòng thương vật như vậy.

Các giống vật trong trời đất, giống nào cũng tham sống sợ chết, thế mà chúng ta lại muốn ăn ngon miệng, nở đem giết hại chúng, làm việc thê thảm như thế sao?

Ta nên lấy lòng nhân từ đừng giết hại chúng tìm đủ mọi cách cứu mạng chúng sống, thì phước đức ấy mà ta được sống.

Kinh Dịch có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh“, trời đất lấy việc hiếu sinh mà làm đức lớn, thế mà người ta không theo luật trời đất mà giết hại, há chẳng phải nghịch thiên bội địa sao? Thật là trái nhân đạo mất lòng từ bi.

Ngài Liên Trì có làm bài văn răn việc sát sanh mỗi câu thắm thiết, mỗi dòng cảm thương thông cảm muôn loài.

Người đời bảo nhau: Ta ăn thịt các loài vật đó là lẽ đương nhiên phải vậy, nên tự ý sát sanh tích trữ oan nghiệp lâu thành thói quen mà không tự biết sự mê lầm.

“Phàm tri giả viết đồng thể“ Nghĩa là: phàm có giác tri là đồng thể mà còn ăn thịt lẫn nhau thật là quái dị, nhưng không cho đó là quái dị, là vì trước kia có người làm rồi, người lân cận làm theo lần lần thành quen nên không còn biết ghê tởm, không biết việc đó là quấy mà lại còn cho là phải. Nếu như bây giờ có người giết con để ăn thịt thì ta lấy làm ghê tởm, tại sao vậy? Tại chưa quen thôi, nếu quen không còn ghê tởm nữa, như loài vật ăn tươi nuốt sống lẫn nhau mà không ghê tởm là vì quen vậy.

Những điều lầm lẫn giết hại rất nhiều nhưng đây rút ra có bảy điều:

1) Ngày sinh nhựt không nên sát sanh, nên ăn chay làm thiện, muốn cầu thọ mà sát sanh chỉ giảm thọ mà thôi.

Xưa Dưỡng Thái Tông ngày ăn sinh nhựt nhà vua vẫn không vui làm mặn cổ bàn linh đình, chỉ chay lạt đơn giản, thế mà anh nhà giàu mới thâu đặng mười thùng thóc đã ăn mừng sinh nhựt long trọng, anh ta hơn vua sao ?

Ngày sinh nhựt ta được sinh thì ta nên làm cho chúng được sống, ta sống vui ta nên để cho chúng vui sống là lý nhân đạo.

2) Đầy tháng cho con không nên sát sanh hại vật. Vì ngày sanh đứa con cho đến được đầy tháng là vui, ta yêu quý con ta như thế nào, giống vật yêu quý con như thế đó, sao ta nỡ vì con mà giết chúng sao đành.

Xưa có người đi săn, một hôm say rượu thấy đứa con mình tưởng là con dê cứ giết ăn thịt, hôm sau tỉnh rượu mới hay con mình liền ngã ra chết giấc. Lòng thương con như thế, vật thương con cũng như thế, sao nỡ giết hại?

3) Tế lễ tổ tiên không nên giết hại, theo lệ người ta thường giết sanh vật để tế lễ, nhưng thử hỏi ngày giỗ kỵ mà ta bày cổ linh đình tổ tiên ông bà ta có về hưởng không? Nếu nói là vì lòng thành kính mà dâng cúng, sao ta không cúng chay đơn giản mà tinh khiết hơn không? Người trí không nên sát hại để cúng.

Xưa Lương Võ Đế giỗ tổ tiên bằng lúa mì, xem thế ta biết cúng tế không phải dùng thịt cá ngon lạ, mà nên dùng rau cải thành tâm cúng giỗ là tốt.

4) Ngày cưới hỏi không nên sát sanh, ai cũng mong đôi lứa cùng nhau đến bạc đầu không nỡ chia ly gián đoạn, vậy thì thử hỏi giết sanh vật để chúng chịu chia ly chết chóc, làm như thế sẽ bị ảnh hưởng chết chóc chia ly không tốt cho việc trăm năm đôi lứa,

5) Đãi khách không nên giết hại, mà chỉ nên dùng rau dưa để mời bạn, vì ngày gặp gỡ là ngày vui mà giết hại, làm việc đau đớn thảm thiết là không trái lương tâm sao ?

6) Tế thần không nên sát sanh, vì tế thần cầu thần phù hộ cho đặng phước đức, mà trước khi tế ta đã làm việc thất đức rồi, thiện thần không chứng sự sát hại cúng tế, ác thần thì lại ưa. Vậy thử hỏi ta cầu với thiện thần hay cầu cạnh với ác thần?

7) Trong việc mưu sinh không nên làm nghề săn bắn lưới bẩy mổ xẻ, vì mưu sanh mà làm việc hại tử thì bị ảnh hưởng làm sao mưu sinh cho kết quả. Chúng ta đối với mọi loài nên có tình thương không nên vô cớ mà sát hại chúng sanh.

ĐIỀN TỬ PHƯƠNG

Điền Tử Phương là người đời Chiến Quốc, có tánh yêu thương loài vật một cách tha thiết. Một hôm Tử Phương đi đường thấy con ngựa già ốm ăn cỏ khô ngoài đồng liền hỏi người cày ruộng, người cày nói:

- Con ngựa đó già không còn kéo xe nổi, lại già ốm quá không còn làm thịt được nên chủ bỏ không nuôi nữa.

Tử Phương nói:

- Sao tệ bạc với loài thú quá như thế? Khi nó còn sức khoẻ làm việc cho mình thì còn chăm nuôi, đến khi nó già yếu lại muốn làm thịt, không làm thịt lại bỏ đi.

Nói xong Tử Phương tìm đến người chủ con ngựa để mua đem về nuôi cho tới chết.

Tử Phương thường nói:

- Loài vật khi còn khoẻ mạnh làm lụng giúp cho ta được việc, đến khi chúng già yếu bệnh tật ta không thể săn sóc chúng được sao?

Tử Phương lại khuyên con cháu nên đối xử tử tế với loài vật như đối xử với người vậy. Trâu, bò, ngựa, chó già yếu ông vẫn nuôi đến chết là lòng thương bao la cao hơn bậc hiền.

SƯ VĨNH MINH

Việt Vương phục quốc khi đó Sư Vĩnh Minh chưa đi tu còn làm chức giữ kho cho Việt Vương. Ông lấy của kho đem ra mua cá, tôm, chim chóc, các vật phóng sanh sau bị phát giác mất của kho ông bị cầm tù. Việt Vương nghe được việc ông lấy của kho phóng sanh, nên khi dặn quân đem ông ra hành hình mặt không đổi sắc thì đừng giết. Lúc đem ra pháp trường, mặt ông vẫn vui, quân hỏi, ông đáp:

- Tôi đem của kho ra làm việc phóng sanh cứu được nhiều mạng sống, nay chết sẽ sanh về Cực lạc có gì buồn.

Nghe vậy Việt Vương tha, ông liền đi tu.

Có một nhà sư ngủ mê thấy xuống âm phủ gặp vua Diêm vuơng ra chầu xem giống Sư Vĩnh Minh lắm hỏi ra quả là Sư Vĩnh Minh,Việt Vương nghe lấy làm kính phục cho là phóng sanh việc hiền ít có.

TỐNG GIAO

Tống Giao và Tống Kỳ là hai anh em ruột đi thi trên đường thấy lũ kiến bị nước ngập Giao lấy cây trúc làm cầu cho kiến bò lên gò khỏi chết. Có thầy tướng số xem cho Giao nói Giao đã cứu muôn mạng sống. Giao nói:

- Nhà nghèo làm gì có tiền cứu được người?

Thầy tướng nói:

- Không phải vậy, phàm cứu vật gì có mạng sống đều gọi là mạng.

Thầy tướng bảo làm gì Giao cũng chiếm được thủ khoa kỳ thi này.

Đến khi thi, Kỳ là em lại đỗ đầu mà Giao đỗ vào hạng thứ mười, song quan trường nghĩ rằng em không đứng trên anh nên sửa cho Giao đậu thủ khoa, còn Kỳ hạng mười. Tống Giao mới tin thầy tướng nói đúng.

MAO BỮU

Mao Bữu đời nhà Tấn khi còn hàn vi thấy có người đem bán con rùa bèn mua thả đi, sau làm võ tướng đánh thua trận, bí quá phải nhảy xuống sông để trốn. Khi gần bị chìm, dưới chân có vật gì đỡ lên cho đến lúc lên được bờ bên kia, xem lại là con rùa mình thả khi trước.

KHỔNG DU

Khổng Du làm quan nhỏ đời Tấn, khi phóng sanh con rùa, rùa bơi đi còn ngoảnh lại nhìn Du rồi mới lặn đi. Sau Khổng Du bỗng được phong tước hầu gọt ấn lấy kiểu con rùa, nhưng lạ thay tên thợ gọt ấn thay đi sửa lại mấy lần mà hình con rùa đầu ngoảnh lại, túng thế tên thợ phải đem ấn dâng lên. Khổng Du lấy ấn nhìn thì rõ là hình con rùa đầu ngoảnh lại nhìn mình khi xưa. Chợt hiểu ra Khổng Du biết là nhờ phóng sanh mà được phong tước hầu.

ÔNG KHUẤT SƯ

Ông Khuất Sư có mua một con cá chép đỏ đem thả. Sau nằm mộng thấy Long Vương mời xuống Long cung nói rằng:

- Ngươi đoản mạng đến khi gần chết, nay vì cứu được con rồng nên sống thêm một kỷ nữa.

TÙY HẦU

Tùy Hầu đi sứ sang Tề, trên đường đi thấy một con rắn nằm trong đống cát đầu rướm máu, Tùy Hầu lấy cây khều con rắn đem xuống nước thả đi.

Khi đi sứ về đến chỗ đó thấy rắn ngậm chuỗi ngọc dâng, Tùy Hầu e dè không dám lấy. Đêm đến ngủ chân đạp trúng rắn, chợt tỉnh rắn đi mất còn để lại xâu chuỗi ngọc, Tùy Hầu biết đó là rắn đền ơn mình.

TRƯƠNG ĐỀ HÌNH

Trương Đề Hình thường hay mua các giống vật rồi đem thả. Khi lâm chung kêu con cháu đến bên giường mà trối lại rằng:

- Bình sinh ta làm được nhiều phước lành, nay thiên sứ đến đây rước ta lên thiên đình các con hãy ở lại.

Nói rồi nhắm mắt chết nhẹ nhàng.

LÝ CẢNH VĂN

Cảnh Văn thường mua cá của thợ chài rồi đem thả xuống sông.

Ông làm nghề luyện thuốc lâu năm, vì gần lửa lâu năm phát bệnh ung thư không cứu chữa được. Khi mê man trên giường bệnh thấy cá đến nhả nước dãi, thoa vào chỗ đau mát mẻ dễ chịu rồi bệnh lần lần hết hẳn.

DƯ TẢ TỪ

Đài Loan năm Hàm Phong có loạn. Tả Từ làm quan dẹp giặc, anh em mỗi người đóng quân một nơi không thông được thư từ cho nhau. Một hôm có hai người khiêng con giải (ba ba) to đem bán đòi giá bốn đồng, Dư trả hai đồng người đó không bán khiêng đi, con giải chảy nước mắt. Dư thấy thương tình bèn trả đủ giá rồi đem thả. Khi tới sông, Dư nói với nó rằng:

- Mầy là con vật tinh khôn, vậy đưa giùm phong thơ này tới em ta, đó là mầy trả ơn.

Con giải lãnh thơ, sau một tháng có thơ của em phúc đáp rằng đặng thơ con giải trao.

HỨA CHƠN NHƯ

Hứa Chơn Như tánh ưa săn bắn. Một hôm đi săn bắn trúng một con hươu con ngã lăn ra, hươu mẹ liếm vết thương cho hươu con, một lát sau hươu con chết, hươu mẹ cũng ngã chết theo.

Lấy làm lạ, Hứa Chơn Như lấy dao mổ bụng hươu mẹ ra thấy đứt ruột. Hươu mẹ đứt ruột vì thương con, Hứa Chơn Như cảm động hối lỗi bẻ nát cung tên, bỏ vào núi tu, về sau đắc đạo.

VUA THÀNH THANG

Vua Thành Thang đời nhà Thương đi chơi gặp thợ săn, giăng lưới đón bắt thú và khấn rằng:

- Mọi vật trên trời bay xuống, dưới đất chui lên bốn phương kéo đến vướng vào lưới ta.

Nhà vua nghe vậy, bảo mở ra ba mặt lưới chừa một mặt, rồi bảo đổi lời cầu như vầy:

- Muôn vật muốn sang trái thì sang trái, muốn sang phải thì sang phải, muốn bay lên cứ bay lên, muốn xuống cứ chui xuống, không cần bắt buộc cũng vào lưới ta.

Do đó người ta nói Thành Thang mở lưới thả chim.

CON VOI CỦA VUA LÊ

Đời nhà Lê vua có nuôi một con voi ngự rất khôn, vua làm cho nó ba cái dai bằng vàng đeo vào cổ. Khi vua thăng, voi không chịu ai sử dụng nên bỏ vào rừng ở trong đáy thùng, viên quan giữ voi gọi là quản tượng tên Mậu. Bây giờ cũng về hưu già yếu, cửa nhà sa sút, quản tượng Mậu sống trong cảnh nghèo túng. Một hôm nhân vào rừng tìm rễ cây về làm thuốc uống. Trong khe Mậu đang lom khom đào rễ cây, con voi từ từ trong rừng đi ra nhìn thấy người chăn cũ của nó. Mừng rỡ, voi liền lấy vòi quấn vào mình Mậu. Kinh hãi, Mậu nghĩ rằng trước mình chăn giữ, bắt buộc nó, nay nó trả thù chắc phải chết, nhưng voi cắm hai ngà xuống đất nước mắt chảy ra, tỏ tình thương nhớ quản tượng. Voi lại lấy vòi quấn vào tay Mậu để lên mấy cái đai vàng, cốt ý biểu Mậu đem về mà dùng. Mậu bùi ngùi cảm động vì cử chỉ của con voi, nhưng cạy đai vàng làm cho voi đau đớn, nên Mậu lắc đầu tỏ ý không nỡ. Voi biết ý cứ quấn tay Mậu để luôn lên mấy cái đai vàng. Cực chẳng đã Mậu phải cạy, lấy cố sức cậy đến tối mà không được. Mậu ra dấu với voi cho mình về, voi lại không chịu, Mậu lại cạy nữa đến vã mồ hôi ra như tắm mà cái đai vàng không ra, đến khuya Mậu sợ nói với voi rằng:

- Ông Quận ơi, thân tôi già nua sức yếu không cạy được, nơi rừng núi nguy hiểm xin ông tha cho tôi về.

Rồi cúi đầu tỏ ý van lơn voi. Voi tỏ ý hiểu biết rồi quỳ hai chân trước xuống để cho Mậu leo lên. Voi đưa Mậu về nhà, cả nhà thấy toan bỏ chạy, Mậu xua tay nói lớn:

- Đừng sợ, đây là ông Quận theo hầu đức vua ngày trước, nay gặp ta vào núi nên đưa ta về.

Để thiết đãi voi, Mậu sai vợ con đi ra vườn đốn mía cho voi ăn, trời gần sáng voi muốn đi lại, dùng vòi đặt cha con Mậu lên lưng rồi đi vào rừng, đến chỗ cũ hôm qua thì trời sáng hẳn, voi lấy tay Mậu để lên mấy cái đai vàng. Mậu hiểu ý, hai cha con cạy được hai cái thì cổ voi đổ máu, Mậu bảo thôi rồi kiếm cỏ thuốc thoa cho voi, rồi ôm chân voi mà khóc, voi cũng bịn rịn khóc theo, rồi voi vào rừng, hai cha con đi về.

Nhờ hai cái đai vàng mà gia đình quản tượng Mậu sống sung túc cho đến khi qua đời.

Khi vua Quang Trung ra Bắc Hà, nghe chuyện con voi có nghĩa, liền cho người tìm mua nhưng tìm khắp nơi vẫn không thấy đâu. Từ đó về sau không ai thấy voi đâu nữa. Vật có tính khôn, hiền nhân thương vật là phải.

Luận

Sống trong vũ trụ trời đất mênh mông: người vật, núi sông, đất đai cây cối, mây nước, gió lửa...…

Kể không thể hết được chung quy lại theo Kinh Lăng Nghiêm có bảy đại:

1) Thủy đại: là nước, nước từ hư không mây, sông, biển hồ, suối bên trong của người là vạn vật là nước mắt mồ hôi, máu mủ, nhựa cây, nước tiểu, nước miếng…

2) Thổ đại: là đất, tất cả vật chất có hình sắc, xương thịt, cây đá, đồng sắt, vàng bạc..., chung qui về đất.

3) Hỏa đại: lửa bên ngoài, lửa cháy bên trong cơ thể người và muôn lòai là độ nóng.

4) Phong đại: gió trong cơ thể hơi thở và sự cử động.

5) Không đại: hư không chỗ trống trong cơ thể.

6) Kiến đại: là sự thấy.

7) Thức đại: Nhận biết.

Gọi chung là bảy đại (thất đại). Người và vật hữu tình có tánh biết, khi sanh mượn chất đất biến thành nhân, nước biến thành máu, nước mắt, mồ hôi, nước miếng, nước tiểu. Lửa tự sự ấm áp hư không là buồng phổi, gió làm hơi thở và cử động. Kiến là sự thấy, thức là sự biết của người và vật. Loài hữu tình gồm có bảy đại, loài vô tình không có hai đại sau.

Đức Tông Bổn nói rằng: Người và vật gốc chỉ có một chỉ khác là mê với ngộ, thô với tế, cho nên có bậc thánh phàm có làm người có làm vật.

Xét ra loài vật cũng một gốc như loài người, cho nên xem những điển tích trên ta thấy loài vật biết trả ơn người, biết thương người, người cứu vật, vật cứu người. Trái lại người hại vật, vật hại người, nếu kiếp nầy không hại thì đời sau khi chúng hết nghiệp được sanh làm người, thì sẽ hại lại người có oán thù với nó. Theo luật nhân quả tự nhiên của vũ trụ là luật huân bình không sai chạy, Nho đã nhận: “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu“, nghĩa là: “Trời đất mênh mông mà nhơn quả một mải lông cũng không lọt“.

Như vậy người ta đối với cầm thú, vật có công với người không nên sát hại, mà xét theo đây thì ta nên thương tất cả muôn loài có tánh biết, không sát hại vì vạn vật đều có tánh biết đều đồng với người một gốc như nhau.

Có người hỏi:

- Trời sanh muôn vật cốt để nuôi người, nếu chẳng giết nó mà ăn thì càng ngày càng chật đất sao?

Đáp: Nếu như vậy thì cứ nên sát hại người đi, để càng ngày càng chật đất sao?

Đức Tông Bổn nói:

- Bởi người giết vật mà ăn rất nhiều tội sa đọa nhiều phải sanh làm vật thêm nhiều, bằng chẳng giết hại loài vật lần lần hết nghiệp sanh lên không có người sanh trở xuống vật sẽ bớt lần đi. Chẳng giết vật thì chẳng có người đọa địa ngục sẽ thành thiên đường, loài vật sẽ sanh làm người, người lần lần chứng thánh.

Như trên nói rằng trời sanh ra vật. Vậy trời nào sanh ra vật, cách sanh ra sao? Và sanh hồi nào? Nếu nói trời sanh ra vật lẽ tất nhiên người cũng trời sanh. Vậy người và vật đồng một cha, người và vật là anh em, ta là đàn anh vật là đàn em, sao anh không có bổn phận thương em. Giết hại mà ăn lại luận điệu nói trời sanh cho ta ăn, thà là ăn cứ làm thinh mà ăn chớ đỗ lỗi cho trời. Trời nói sanh cho ta hồi nào sao không thấy sách sử ghi chép? Trái lại sách sử có những câu: “Nhơn vật giữ đồng“, “Vạn vật nhứt thể“, “Thiên địa hát sanh“, “Nguyên lai đồng tánh“, “Kiến kỳ sát bất thực kỳ nhục”.

Bổn phận đối với cầm thú là biết nghĩ đến loài vật có công với ta như : chó giữ nhà, trâu cày ruộng, bò ngựa kéo xe, gà gáy sáng mà thương nuôi nó còn các loài khác ta không nuôi nhưng không sát hại nó. Về tình thương là nhơn vật đồng thể, nó cũng biết thương yêu biết đau khổ, biết ưa, biết ghét, biết lo biết sợ như ta không khác, vì vậy ta không nở sát hại nó.

Về nhân quả nếu ta giết hại chúng, gây căm thù nhiều đời nhiều kiếp chúng sẽ cộng nghiệp báo oán gây binh đao giết hại ghê tởm. Ta không nên giết hại mà còn phóng thả cứu mạng nó để tạo phước chung cho thế gian.

Bài kệ giới sát của Đức Tông Bổn:

Súc sanh vật thể vốn người xưa

Người vật xây vần kiếp rước đưa

Chẳng muốn mang gông cùng đới giác

Sát sanh xin khá nới tay chừa

Nếu cả chúng sanh không sát hại

Mười phương nào có động binh đao

Nhà nhà trai giới đều tu thiện

Thiên hạ lo gì chẳng thái bình.

Phật dạy giới sát đứng đầu, muốn nên bậc thánh hiền phải có lòng từ bi quảng đại.

Tự thân bổn phận.

Phần nầy thay cho phần kết luận của quyển sách nầy.

Nếu tự thân mình giữ lễ là đủ luật, thì tất cả bổn phận của một đời từ trẻ đến già đều đầy đủ.

Đại ý trong quyển sách nầy, lấy chữ lễ làm luật quân bình tương ứng với luật quân bình của vũ trụ, dung hòa giữa người với người và vật, do sự đối đãi phản ứng mà tìm ra lẽ phải để xử sự với nhau gọi là luật chớ không ai lập ra.

Chữ lễ là gồm đủ cả, thiếu nhơn, nghĩa, tín, trí thì không ra lễ được. Đối với tự thân phải đủ năm điều đó, người đủ năm điều đó thì không bao giờ còn đụng chạm với ai, chẳng những không đụng chạm mà còn làm cho người chung quanh rất vui lòng.

Ví như người không mang gai góc đi đâu, cũng dễ dàng không bị vướng mắc; trái lại không giữ năm điều đó có những thói tham, sân, si nổi lên như mang gai đi đến đâu vướng mắc đó.

Đối với tự thân phải biết thương thân tha thiết, phải bồi dưỡng thân bằng tinh thần đạo đức.

Ai cũng trọng thân sống người ta thường nói: Người sống hơn đống vàng câu thì như vậy nhưng lối hiểu, giải và làm khác nhau. Người ta cho sống là quý mà chỉ thiên sống về vật chất không nghĩ gì về sống tinh thần. Vì vậy họ lo cho đời sống tự thân của họ, lo ăn cho đầy đủ món ngon vật lạ, lo mặc cho xa hoa lộng lẫy xinh đẹp. Lo giành giựt lấy của để ăn mặc giết hại sinh vật cho ngon béo để bồi dưỡng. Họ quý thân chừng nào lại gây ra tội lỗi nhiều chừng ấy. Kinh Di Giáo nói: “Thân vi tội tẩu“ thân là ở tội.

Người giữ tròn bổn phận cũng trọng xác thân này, cần sống để tu hành và học thêm, vì như sống mà tu tạo phước đức thì rất cần sống, còn như sống mà tạo ác thà chết sớm còn hơn.

Sống lo tu tạo thì sống cho xác thân rất đơn giản, chỉ cần có sức khoẻ để sống thôi, đạm bạc cơm rau cũng đủ sống nhưng lấy tinh thần nuôi xác thân căn bản hơn. Người ta nói: “Ăn để mà sống không phải sống để mà ăn“.

Người ta cứ tưởng ăn cho nhiều để mà sống, họ đâu có biết nuôi sống bằng tinh thần.

Theo khoa học mà luận:

Như ta thấy ở đồng ruộng có những con: rùa, cua, ếch, ốc mùa nước nổi từ tháng sáu đến tháng mười đầy rau cỏ cho nó ăn, nước đầy khỏa cho nó đi, nhưng khi đó người ta bắt được thấy nó ốm là tại sao?

Đến tháng nắng từ 11 đến tháng 4, 5 là nước cạn khô, rùa và ốc chém dè xuống đất đưa mũi lên hít dưỡng khí, ếch cua thì đào hang xuống sâu để có nước mà sống, không đi được không có vật ăn. Thế thì khi người ta bắt được thấy nó mập.

Không ăn mà mập còn ăn lại ốm là tại sao?

Theo khoa học mà giải thích:

- Các thứ ấy mùa nước nổi mà nó ốm là vì tâm nó ham muốn quá nhiều: nó biết có đủ thứ rau cỏ để nó ăn, cho nên nó muốn ăn món nầy rồi tìm món khác, nó biết đi được nên muốn đi đây rồi đi đó, bạn bè gặp được nên nó muốn gặp đây rồi gặp đó, vì sự ham muốn nổi lên thành dục vọng nóng bốc thành lửa (tâm hồn) đốt hết chất bổ nên nó ăn nhiều mà vẫn ốm.

Còn khi mùa khô cạn chúng phải chui xuống đất, đào hang xuống sâu ở một chỗ không có món ăn, chúng biết như vậy cho nên không mong mỏi vì sự ăn, không nghĩ tưởng vì sự gặp bạn bè,tâm thản nhiên không có dục hỏa, cho nên chúng hít được bao nhiêu dưỡng khí nuôi trọn cho cơ thể nên chúng mập.

Xét như vậy cho ta thấy nuôi thân ăn là phần phụ mà phần chính là diệt dục trừ tham muốn.

Vậy đối với tự thân ta chỉ ăn đơn giản để mà sống cần nuôi dưỡng tinh thần thanh tịnh.

Bổn phận tự thân ta cần phải kiểm điểm hành vi của mình như nho nói: “Nhàn trung kiểm điểm bình sanh sự, tịnh lý tư lương nhựt sở vi“.

Nghĩa là: Cơn nhàn kiểm điểm việc làm của mình tốt hay xấu, nơi nhà vắng suy nghĩ việc làm trong mỗi ngày phải hay quấy. Nhờ kiểm điểm suy xét như vậy để tự biết mà sửa mình như các bậc hiền xưa.

QUAN TÀI CON

Tại chùa Tô Châu có nhà sư tên Viên Thủ Trung tu hành đắc đạo.

Nhà sư thường bày trên án thư gần chỗ ngồi một cỗ quan tài bằng gỗ bạch đàn, độ ba tấc có cái nắp đậy mở được. khách đến chơi trông thấy cười rằng:

- Ngài chế ra cái này để làm gì?

Sư đáp:

- Người ta sống ắt có chết, mà chết thì vào ngay cái nầy. Ta thật lấy làm lạ người đời ai cũng chỉ biết phú quý, công danh tài sắc, lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì? Như ta đây mỗi khi có việc không vừa ý, ta cầm lấy cái nầy mà ngắm xem, là tức khắc trong tâm ta được yên ổn, muôn ngàn tư lự đều được lâng lâng sạch không. Cái quan tài con này đủ thay lời dạy lời răn của bậc nghiêm sư, là bài trăm bài minh treo lên chỗ ngồi vậy.

Luận

Người ta sở dĩ say mê theo danh vọng tài sắc, hay liều lĩnh làm việc gian ác tàn nhẫn là vì hay nghĩ cái sống ở trước mặt mà quên cái chết ở sau lưng. Cái chết là con ma ai cũng sợ, cũng ghét nhưng cái chết là ông thầy, là bài thuốc chữa bao nhiêu bệnh tật xấu xa ở đời.

Muốn sửa mình nên bậc hiền luôn nhớ đến cái chết.

Tự thân anh hùng.

Anh là chúa loài hoa, hùng là chúa loài thú nhưng nội tâm là: “Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng“, nghĩa là: Tự mình biết là anh, tự thắng được dục vọng nội tâm là hùng.

Ngoại cảnh dễ thắng nội tâm khó thắng, người tuy có sức mạnh như Hạng Võ trăm trận trăm thắng, nhưng nội tâm rất tự kiêu tự đại không nghe lời phải của ai, không thắng được tự tâm kiêu làm cho bao nhiêu sự nghiệp công cán tiêu tan, cuối cùng phải cắt đầu trao cho đình trưởng. Thế nên sức mạnh không phải anh hùng, mà anh hùng là phải biết tự thắng dục vọng nội tâm.

Bổn phận tự thân phải thắng lòng tham muốn, đừng để lòng tham muốn làm chủ, một khi thắng đặng lòng tham muốn rồi thì xem như sẽ làm tròn được tất cả bổn phận bậc hiền nhân.

BẤT SĨ HẠ VẤN

Tự thân phải “bất sĩ hạ vấn“, nghĩa là: học hỏi kẻ dưới không có gì xấu hổ. Bực hiền triết xưa thường hỏi kẻ dưới mình để có một ý niệm chính xác về một vấn đề nào đó, không coi đó là việc xấu hổ mà cho là việc tốt lắm vậy. Trái lại kẻ dốt nát lại tự kiêu cho mình là đủ không cần học hỏi ai đó chỉ là:

“Ếch ngồi đáy giếng xem trời hẹp“.

Bổn phận tự thân phải quên mình cầu học mới mong tròn được.

BỐN HAY

Dương Chấn người đất Quảng Tây, đời nhà Hán làm quan thái úy, tánh thanh liêm chánh trực. Lúc làm thứ sử có tên Vương Mật làm lệnh doãn ở huyện Xương Ấp. Mật lén đem mười lượng vàng để đền ơn trước. Dương Chấn trách rằng:

- Ta biết tài ngươi mà không biết lòng ta.

Vương Mật cố năn nỉ:

- Đêm hôm khuya khoắt có ai hay biết, ngài ngại gì?

Dương Chấn nghiêm nét mặt nói:

- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần hay, ta biết ngươi biết. Chỗ hay biết có bốn như vậy sao gọi là không ai biết?

Luận

Tự nơi thân nhiều khi lòng tà nổi lên rồi còn biết tự thẹn; chiêm bao thấy mình làm điều xấu nào ai hay biết, mà vẫn tự thẹn nơi lòng thay. Huống gì thọ của hối người, lượm của rơi có nhiều nơi biết không thẹn lắm sao?

Nho nói: “Nhân gian tư ngữ thiên văn như lôi, ám thất khuy tâm thần mục như điển". Nghĩa là người thế gian nói riêng lời nhỏ trời nghe như sấm, trong nhà tối làm việc tà gian, mắt thần thấy sáng như điển, tự tâm tự thẹn tự sửa lấy mình, không đợi người biết, đợi người biết mới thẹn là xấu hổ nhiều lắm rồi, sứt mẻ uy tín cả rồi.

Làm sao ngó xuống không thẹn cùng muôn loài cây cỏ, ngước lên không thẹn cùng quỷ thần trời đất, như vậy là mới ngang với hiền thánh.

THẠCH CỦNG GIỮ TRÂU

Tổ Bá Trượng hỏi Thạch Củng rằng:

- Ngươi thường làm nghề gì?

Thạch Củng thưa:

- Làm nghề giữ trâu.

- Giữ thế nào?

- Dây vàm thường nắm nơi tay, mỗi khi trâu muốn hoang dẫm lúa mạ của người ta liền nắm dây vàm kéo lại.

Bá Trượng khen:

- Phải vậy! Phải vậy!

Luận

Vẫn biết Thạch Củng đâu có giữ trâu nhưng Tổ hỏi Củng đáp như vậy, ý tứ thầy trò rất tương đắc:

Chỗ tu tâm sửa thân của Thạch Củng là luôn luôn lúc nào cũng kềm chế vọng tâm; lấy giới luật làm giàm mũi cho con trâu dục vọng, mỗi khi con trâu nầy muốn phóng túng buông lung là dùng giàm kéo nó lại.

Tự thân lấy đó mà sửa mình, giờ phút nào cũng xét nét cân nhắc cái tâm mình biết là chơn vọng, như vọng là trừ ngay, biết được chơn thì bồi dưỡng thêm lớn căn lành nên bậc hiền.

TRÌNH TỬ SỬA MÌNH

Trình Tử sau khi học đạo liền áp dụng phương pháp sửa mình hằng ngày bằng hai cái lọ nhỏ. Cứ mỗi lần làm điều gì quấy ác, là lấy một hột đậu đen bỏ vào cái lọ bên này, mỗi lần làm được điều lành là lượm hột đậu trắng bỏ vào lọ bên kia.

Độ chừng vài tháng sau đổ ra xem, đậu đen nhiều đậu trắng ít, ông liền cẩn thận tránh điều ác cố làm lành, sau đổ đậu ra xem đậu đen ít đậu trắng nhiều, về sau cố sửa mãi chỉ còn đậu trắng không còn đậu đen. Bây giờ Trình Tử đã thành bực hiền.

Luận

Tự thân tu sửa không phải học với ai, tuy nhiên cũng phải cần học, học là cốt để hiểu rõ rồi tự sửa mình.

Không học mà biết không phải Thánh là gì?

Học mà biết không phải Hiền là gì?

Học mà không biết không phải ngu là gì?

Những điều thiện ác lớn thì ai cũng biết, còn những điều thiện ác nhỏ thì ít ai quan tâm đến. Nho nói: “Không vì việc ác nhỏ mà làm, không vì việc lành nhỏ mà không làm “.

Hằng ngày xung quanh ta biết bao việc ác nhỏ và việc thiện nhỏ: chà đạp một con kiến là ác rồi, thấy con kiến chới với trên mặt nước bỏ qua là ác rồi, thấy vật bị khổ không cứu được, không để lòng thương là ác rồi, nước sôi đổ vãi xuống đất là ác rồi.…

Khi đi cố tránh con kiến là thiện rồi, vớt một con kiến đang chết chìm là thiện rồi, thấy loài bé nhỏ biết trọng thương là thiện, lượm một miểng chai ngoài đường là thiện, biết tâm niệm loài bé nhỏ là thiện.

Con chim bé nhỏ

Chú nhái tí hon

Chim hót chíp chíp

Nhái kêu en en

Bỗng nó nhìn ta

Ông gì lớn tổ bố!

20. NHỮNG ĐIỀU PHẢI CÓ ĐỂ LÀM NGƯỜI HIỀN

Nho nói: “Vi nhơn nan!Vi nhơn nan!". Làm người khó! Khó được làm người!

Do nhơn duyên lành nào đời trước, nay ta được làm người đây? Thần thức tùy theo nghiệp thiện hay ác mà thọ sanh: địa ngục ngạ quỷ, súc sanh, chim bay thú chạy, cá nước thú rừng, bò bay máy cựa, giòi thây, lằn phẩn, khó sanh đặng làm người mà ta đặng làm người đó là một việc quá khó khăn mà ta được “vi nhơn nan“.

Biết bao người sanh ra lớn lên bị tật nguyền mẻ sứt, đui, điếc, câm, ngọng khó được toàn vẹn mà ta được toàn vẹn.

Biết bao người vô phước mở mắt chào đời ở nơi thâm sơn cùng cốc, gành biển hẻo lánh cam sống nơi rừng biển hiu quạnh, âm u, làm lụng quần quật đầu tắt mặt tối, thiếu học, lạc hậu, khó sanh được chốn tụ lạc làng ấp đầy đủ tiện nghi, văn minh mà ta được.

Đã sanh nơi chốn tập trung, tiện nghi mà người quyết chí học hỏi lại khó, mà ta được học hỏi thông minh.

Đã thông minh mà bị biện thông thế trí thành ra thiển cận, chỉ thấy lợi trước mắt mà không thấy cái hại sau lưng, chỉ biết lợi kiếp nầy không thấy hại kiếp sau, đó là việc khó mà ta biết được.

Đến như biết được thì ai cũng biết, nhưng làm là việc khó đó mới là thiên nan vạn nan.

Ta đang dừng lại chỗ khó nầy và muốn cho tròn tư cách con người, một bổn phận của người hiền, những bổn phận mà bổn phận tự thân ta phải làm cho kỳ được trước đã.

Những điều kiện tự thân không thể thiếu được như sau:

1. Phải có một thân thể tráng kiện:

Người có kẻ đau ốm liên miên, ốm gầy khô khan, xanh xao vàng võ, mập mạp khỏe mạnh sung túc. Những điều đó không phải ngẫu nhiên mà chính là do lấy mọi người tạo nghiệp đời trước.

Đời trước đã lỡ tạo rồi nay phải buông tay mà chịu sao? Không, ta phải cải tạo cho đời sau. Đời người trôi qua rất mau, không bao lâu đâu, ta sẽ có một thân sau, giờ đây ta lo cải sửa là vừa còn sợ trễ nữa.

Vì nhân sát hại thái quá nên bị quả báo xấu ốm đau tàn tật; không sát hại mà còn phóng sanh thì đời nầy nghiệp xấu nhẹ bớt đi, đời sau sẽ được thân hình đầy đủ sức khỏe không bệnh tật và sống lâu.

2. Phải có của cải để xử sự và sống:

Con người nghèo nàn cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm là do nhân trước tham lam bỏn sẻn mà ra, không tham lam bỏn sẻn mà còn bố thí, thì đời nầy vơi đi nổi khổ, đời sau sẽ được giàu có sự nghiệp của cải dư dật để cho mặc tình làm việc phước thiện, nên danh mạnh thường quân, một nhà từ thiện.

3. Phải có một thân hình oai nghi tốt đẹp:

Người mà có thân hình xấu xí ai thấy cũng ghê tởm, là do đời trước làm việc tà dâm, tồi phong bại tục mà ra. Giờ đây ta được thân hình trang nghiêm là nhờ không tà dâm và nên giữ cho trong sạch để đời sau có một tướng mạo vừa oai nghi vừa đẹp ai cũng kính quý.

4. Phải có giọng nói rõ ràng:

Người bị câm, ngọng, liệu, trệ khẩu là do nhân đời trước vọng ngữ: đời nay ta được giọng nói trong suốt rõ ràng, là nhờ không vọng ngữ lại hay nói lời nói chánh mà đặng và cố gìn giữ mãi cho đời sau.

5. Phải thông minh:

Người quá mê tối là do đời trước say sưa thái quá mà ra, ngay những đời nầy ta thấy người khi tỉnh, sáng suốt mà khi quá chén không còn biết gì nữa; đời này ta đã tỉnh và còn giữ mãi cho đời sau nữa.

Bổn phận tự thân năm điều kiện trên không thể thiếu được, dầu bây giờ chưa đủ thì nên tạo cho tương lai không phải xa vời đâu, mà nên làm kẻo trễ.

Bổn phận ta phải thương ta trước, rồi người mới thương ta sau, bởi tự hủy rồi người mới hủy ta.

Thương ta không phải chấp ngã, mà phải phá ngã chấp.

Ta thương ta thật vô ngần

Muốn cho tồn tại phải cần nghĩ xa

Thương người, người lại thương ta

Ấy tròn bổn phận hiền hòa thế gian

Xét về hiền xử thế là đối xử với nhau cho quân bình tốt đẹp, trong đó ta làm tròn bổn phận tự thân là xong hết bảy phần làm tròn các bổn phận khác rồi vậy.

Bổn phận đối với nhau là người đối với người được quân bình tự do.

Phàm mình muốn tự do thì đừng làm cho người và vật mất tự do vì mình là nên bậc đại hiền vậy.

Bạn thấy không khắp phương trời cao rộng

Là hiện thân đại thiên thế giới

Quét mây mờ đem nắng mới thơm hơn

Nhân sinh chờ bước hẹn hò(1)

Hiền là son thắm dành cho nụ cười.

Viết xong ngày 15 tháng Mạnh Hạ năm Giáp Tý (1984)

Bản sao xong ngày 10 tháng Quý Hạ năm Mậu Thìn (1988)

THÍCH NHỰT LONG

---o0o---

Nguồn: chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2010(Xem: 7671)
Từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế, đạo Phật được truyền bá một cách sâu rộng khắp trên lưu vực sông Hằng cũng như qua các thị trấn và những quốc gia thời bấy giờ của xã hội Ấn Độ, quê hương của Phật. Phật pháp được tuyên thuyết bởi Đức Phật, cũng như các hàng Thánh chúng đến từng nhà, từng người, từng cộng đồng trong xã hội. Phật pháp đã tạo sự bình an cho con người, đã xây dựng một nếp sống đạo đức, lễ nghi hướng thượng cho tất cả.
15/10/2010(Xem: 7981)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
15/10/2010(Xem: 8520)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
10/10/2010(Xem: 6765)
Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
10/10/2010(Xem: 4126)
Đức Phật thuộc dòng dõi vua chúa nên đương nhiên có liên hệ với các bậc quan quân và đại thần. Mặc dù mối liên hệ và giao tiếp đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng quyền uy chính trị để quảng bá giáo lý của Ngài. Ngài cũng không cho phép giáo lý của Ngài được lạm dụng để đạt uy quyền chính trị…
30/09/2010(Xem: 4154)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
30/09/2010(Xem: 3049)
Từ khi nhân loại xuất hiện trên trái đất này cùng với những sinh vât khác, chúng ta cùng mọi sinh vật đã chỉ sống và sử dụng mọi thứ trên trái đất để tồn tại. Người ta có thể nghĩ rằng trái đất là một vật thể không có sự sống. Người ta không cần biết điều gì cuối cùng sẽ xãy ra với những gì chúng ta hành động để sinh tồn. Cho đến bây giờ, những nhà khoa học đã cho mọi người biết rằng mỗi hành đông của con người ảnh hưởng sâu đậm đến trái đất. Thêm nữa, chúng ta đang sống trên trái đất, một hành tinh sống, những gì chúng ta hành động cho đời sống của chúng ta đã làm nên sự hâm nóng địa cầu, hiệu ứng nhà kính, và đấy là một đe dọa nghiêm trọng đến môi trường, và nó cũng đặt sự sống của chúng ta trong một tình thế nguy hiểm.
30/09/2010(Xem: 4570)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
29/09/2010(Xem: 7523)
Đức Phật đã hằng dạy cho chúng ta rằng: "Vạn pháp giai không; nhưng nhân quả bất không". Nếu nhân tạo ra tốt thì chắc chắn quả kia không thể xấu được.
28/09/2010(Xem: 3116)
Tín ngưỡng, triết lý, và thực hành của Á châu đang ảnh hưởng mọi thứ từ cung cách mà chúng ta đối phó với bệnh tật đến việc chúng ta chế tạo xe hơi như thế nào. Bây giờ, một giáo sư Thương Mãi Đại Học Harvard đang hướng về phương Đông như một phương thức cho việc phát triển những lãnh đạo thương nghiệp mạnh mẽ. Bill George, một chuyên gia về bồi dưỡng phát triển lĩnh đạo, mới đây phối hợp với một vị thầy thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche để tổ chức một hội nghị về “lĩnh đạo tỉnh thức,” một tiến trình thế tục để khám phá những vai trò của sự tự tỉnh giác và tự từ bi trong sự phát triển những lĩnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567