Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 1: Người Phật tử ngày nay trong thế giới Tây Phương

14/02/201215:04(Xem: 3331)
Chương 1: Người Phật tử ngày nay trong thế giới Tây Phương
NGƯỜI PHẬT TỬ NGÀY NAY
trong thế giới Tây Phương
Fabrice Midal
Hoang Phong chuyển ngữ


PhatGiaoNhapMon
Phật Giáo nhập môn
Thựctập thiền định - Cải thiện chính mình - Mở rộng trái tim
tácgiả Fabrice Midal

Vài lời giới thiệu của người dịch

Dưới đây là phần chuyểnngữ toàn bộ chương I (tr.13-20) của một quyển sách nhỏ về Phật Giáo, mang tựa đề"Phật Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bảnGrancher, 2008). Tuy bàn về những vấn đề rất căn bản thế nhưng tập sách lại đượcviết bởi một triết gia Phật Giáo sâu sắc nổi tiếng hiện nay là Fabrice Midal.Trong chương đầu tiên này, tác giả tìm cách giải thích Phật Giáo là gì và nêu lênmột vài khía cạnh về hiện tình phát triển của Phật Giáo tại Pháp và Âu Châu. Toànbộ quyển sách được tác giả trình bày với một văn phong rất đơn giản và nêu lên cácchủ đề cũng như các nhận xét thật bao quát, thế nhưng chúng ta vẫn nhìn thấy đượcchiều sâu và sự chính xác tàng ẩn phía sau từng dòng chữ thật đơn sơ của ông.

Sinh năm 1967 trong mộtgia đình Do Thái Giáo, năm 20 tuổi Fabrice Midal may mắn gặp được một nhà sưTây Tạng khác thường là Chögyam Trungpa (1939-1987). Ông cạo đầu và tu theo PhậtGiáo Tây Tạng từ khi còn là sinh viên, sau đó thì đỗ tiến sĩ triết học tại đạihọc Sorbonne (Paris). Tuy thấm nhuần các tư tưởng phóng khoáng, cấp tiến và"phi-giáo-điều" của vị thầy Chögyam Trungpa, ông cũng đã chịu ảnh hưởngrất nhiều từ các vị thầy Tây Tạng khác mà ông đã theo học, và đặc biệt nhất làđược nhà thần kinh học nổi tiếng Francisco Varéla (1946-2001) một trong các đệ tửthân cận của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, truyền thụ thêm cho ông về phép thiền định.

Fabrice_Midal

FabriceMidal

Lýdo nào khiến người Tây Phương lại theo Phật Giáo đông đến thế?

Quả thật là đã không hềcó một dấu hiệu nào báo trước sự thành công kỳ lạ của Phật Giáo tại Tây Phương trướckhi Phật Giáo tiếp xúc với miền đất này vào thế kỷ XX. Alfred Foucher (1865-1952, là mộthọc giả uyên bác của Pháp), tác giả một quyển sách thuật lại cuộc đờicủa Đức Phật hiện vẫn còn giá trị, đã viết vào năm 1949 một câu như sau:"Ngoại trừ một số người đặc biệt hiếu kỳ thích quan tâm đến những thứ ngoạilai ra thì Phật Giáo rồi cũng sẽ chỉ thu nạp được một số tín đồ thật ít ỏi trênđất nước của chúng ta". Theo ông thì tín ngưỡng đó không sao hòa hợp đượcvới tâm tính của người Tây Phương.

Ngày nay nhiều khái niệmchủ yếu của Phật Giáo được biết đến và có thể nói rằng đã có rất nhiều người TâyPhương tán đồng các quan điểm ấy: dù đấy là lòng từ bi, sự vững chắc của hiệntượng vô thường (chữ này là một đặc thù của Phật Giáo), các khái niệm về vô-ngã,về nghiệp hay là hiện tượng tương liên (lý duyên khởi). Người ta có thể quả quyết rằng rồiđây Tây Phương sẽ trở thành mảnh đất của Phật Giáo, dù không nhất thiết phải làdưới một hình thức tu tập thật chuyên cần đi nữa.

Sự lợi ích do thiền địnhmang lại thì mọi người đều biết và đã có hàng triệu người đang luyện tập hiệnnay.

chuakhanhanh-parisKhoảng hơn bảy-trăm-ngànngười Pháp tự nhận mình là Phật tử (nước Pháp có 65 triệu dân), và do đó Phật Giáo đãtrở thành tôn giáo đứng hàng thứ ba tại quốc gia này. Con số ấy thật ra còn chekhuất một sự thật quan trọng hơn thế nhiều: đấy là có năm triệu người Pháp chorằng Phật Giáo là một tín ngưỡng mà họ cảm thấy gần gũi với mình hơn cả. PhậtGiáo du nhập vào nước Pháp vững chắc hơn so với các nơi khác: hàng nhiều trămtrung tâm thiền định đã được thiết lập trên đất Pháp. Ngôi chùa Tây Tạng lớn nhấtÂu Châu tọa lạc trong vùng Bourgogne (miền đông nước Pháp), trung tâm thiền Zen quantrọng nhất ở Âu Châu được thiết lập tại Touraine (miền tây nước Pháp), và ngôi chùamới của Phật Giáo Việt Nam thì ở Evry (ngoại ô Paris).(hình bên)

Có rất nhiều nguyên nhânđưa đến sự phát triển của Phật Giáo trên đây. Thế nhưng căn cứ vào một vài khíacạnh của tín ngưỡng Phật Giáo đã khiến cho con tim của người Tây Phương phảirung động thì có lẽ chỉ cần nhận ra hai nguyên nhân chính yếu nhất là đủ: trướchết là một nền móng đạo đức xây dựng trên sự khoan dung, lòng nhân ái, sự ý thứcđược trách nhiệm của mình đối với người khác trong cộng đồng xã hội; và kế đó làsự tập luyện về thiền định như là một nghệ thuật sống, giúp làm hiển lộ được bảnchất đích thật nơi con người của mỗi chúng ta trong bất cứ một bối cảnh nàotrong cuộc sống.

Các nguồn tài nguyênthiên nhiên bị tàn phá triệt để khiến cho tương lai của hành tinh này đang bị hămdọa một cách trầm trọng, và nếu nhìn trên một bình diện rộng hơn nữa thì có thểnói rằng bất cứ thứ gì trên hành tinh này cũng đều đang bị khai thác một cách tậncùng - trong đó kể cả con người. Trong bối cảnh đó đối với nhiều người thì PhậtGiáo đã xuất hiện như là một giải pháp cứu tinh mạnh mẽ, mạch lạc và thật cầnthiết.

Đốivới người Tây Phương muốn trở thành một Phật tử thì phải như thế nào?

Đấy là ước vọng được bướctheo bước chân của Đức Phật, thế nhưng đây không phải là cách thâu thập chomình một thứ gì ngoại lai, mà thật ra là để noi theo tấm gương của một Con Ngườicách nay hơn hai-ngàn-năm-trăm năm đã khám phá ra một con đường cho chúng ta bướctheo, hầu giúp cho mình trở thành những con người xứng đáng hơn.

Nếu bắt buộc phải địnhnghĩa Phật Giáo bằng một câu duy nhất thì tôi sẽ nói rằng đấy là một phươngpháp giúp chúng ta sống thật trọn vẹn từng giây phút một trong cuộc đời này.

Tất cả chúng ta đều trảiqua những giây phút khổ nhọc và đau buồn, và cả mọi thứ khó khăn khác mang ítnhiều gay gắt. Thế nhưng Phật Giáo cho thấy là chúng ta có thể triệt tiêu được nhữngthứ ấy một cách hữu hiệu, và còn nhắn bảo với chúng ta không nên đổ lỗi cho hoàncảnh bên ngoài hay cho người khác, vì đấy chỉ là cách ngăn chận không giúp chúngta trưởng thành một cách đúng đắn được.

Phật Giáo khuyên chúngta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trongcuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình. Nếunhìn theo chiều hướng đó thì Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Phật Giáo khôngbắt nguồn từ một thứ đức tin nào cả, và cũng chẳng cần phải chấp nhận một thứ hiểubiết nào mang tính cách giáo điều. Kể cảmột Đấng Tối Cao cũng không có trong tín ngưỡng ấy.

Giáo huấn của Đức Phậtlà những lời chỉ dạy giúp chúng ta tiếp cận trực tiếp với những kinh nghiệm sốngthật mà chúng ta cảm nhận được. Dầu sao thì chữ kinh nghiệm (experience) không hàmchứa đầy đủ được ý nghĩa cần thiết để diễn đạt được những gì nói đến trên đây, bởivì ngày nay chữ kinh nghiệm đã quen được sử dụng trong khoa học và mang ý nghĩanhư là một sự thử nghiệm, không còn là một sự lắng nghe với tất cả sự cảnh giácnữa.

Bước theo vết chân củaĐức Phật trước hết có nghĩa là khám phá ra rằng thực tại không hề hiển hiện rađúng thật của nó, thế nhưng chúng ta thì lại không sẵn sàng để chấp nhận điều ấy.Vì thế phải cần đến một sự tập luyện cần thiết nào đó để giúp chúng ta tiếp cậnthật gần, đúng thật với những gì đang hiển hiện ra. Thí dụ như khi viếng thăm mộtthành phố nào đó mà trước đây ta chưa hề biết, thì trong trường hợp ấy ta cũng cầnphải có một thời gian để cảm nhận được các đặc điểm của nơi ấy, và khung cảnhsinh hoạt của nơi ấy. Thế nhưng vẫn có thể là ta không thể nào quả quyết là mình đã cảmnhận được một cách đích thậttất cả những gì trong bối cảnh cá biệt ấy hay không, do đó ta cần phải có thêm thìgiờ để kiểm chứng lại. Nếu nhìn theo khía cạnh ấy thì sẽ hiểu rằng Phật Giáokhuyên chúng ta phải tập luyện thiền định. Đức Phật ngồi xuống để thiền định vàđã tiếp cận trực tiếp và thật sát với tất cả mọi sự vật đúng với những gì chúnghiển hiện ra, đồng thời thì Ngài cũng đã nhìn thẳng vào những kinh nghiệm cảmnhận của chính Ngài với một sự sắc bén thật cao độ. Trở thành một người Phật tửchỉ đơn giản có thế, tức có nghĩa là biết hành xử như thế.

Tuy nhiên không phải dễđể thực hiện được điều ấy. Nếu nhiều người cùng tập luyện chung với nhau thì cóthể sẽ dễ dàng hơn, nhất là biết tuân theo một số quy tắc được thiết đặt rõ rệtvà biết cố gắng giữ sự thành tín mang tính cách "tôn giáo" trong lòngmình, phải tự tin rằng mình là một người tốt và mình có lý - không nên đổ lỗi chongười khác về các khó khăn của chính mình. Con người luôn bị thúc đẩy thật mạnhbởi một niềm mong muốn tạo lập được một cơ sở nào đó và dồn tất cả trí thôngminh của mình vào đấy, và sau đó thì hy sinh tất cả cho lý tưởng ấy - thí dụ nhưthành lập một xí nghiệp, một hội đoàn, một cơ sở hành chánh, hay theo một Giáo Pháinào đó mà vì hoàn cảnh đưa đẩy đã trói buộc mình vào với nó. Tất cả những thứ ấythật vô cùng khủng khiếp.

Đức Phật khuyên chúngta phải biết tận hưởng, biết cảm nhận và biết sống trong từng giây phút một quasự hiện hữu của chính mình, thế nhưng không phải vì thế mà phải loại bỏ trí thôngminh của chính mình, và bắt buộc mình phải giao sự tự do của chính mình vào trongtay của bất cứ ai khác.

Cácđiều ấy có khác với những gì đang xảy ra ở các nước Tây Phương hay không?

Đúng là có, bởi vì tại ÁChâu thông thường thiền định không được xem là tâm điểm của Phật Giáo. Thiền địnhchỉ được thực thi bởi một số người đặc biệt quan tâm đến nó mà thôi. Phật Giáo tạinhững nơi này đã hòa nhập một cách tự nhiên với cuộc sống thường nhật. Tại TâyPhương, chúng ta cũng thấy một hiện tượng tương tự như thế đối với Thiên ChúaGiáo, và cũng nên hiểu rằng nhiều người xem tất cả những thứ ấy chỉ là một khungtrời thấm đượm văn hóa và các tập quán lâu đời mà thôi, không phải là một conđường tâm linh đích thật.

Phật giáo tại Tây Phươngtrước hết phải được xem là một sự truyền thụ tâm linh. Phật Giáo không phải làmột thứ tổng hợp gồm các tín điều, nghi lễ và các thái độ hành xử. Quả thật tấtcả là nhờ vào những vị "anh hùng" (đây là cách "mượn chữ" trong kinh sách Phật Giáo,nhất là kinh sách Phật Giáo Tây Tạng, chữ "anh hùng" dùng để chỉ những vị Bồ-tát xả thân cho lý tưởng của mình,và trong trường hợp này là những nhà sư Tây Tạng đã trốn thoát khỏi quê hương củahọ để sống lưu vong tại Âu Châu)đã mang Phật Giáo vào Tây Phươngcho chúng ta vào hậu bán thế kỷ XX, đấy là những người bị gạt ra khỏi các thểchế xã hội trên chính quê hương của họ. Họ ý thức được Phật Giáo đang trở thànhmột thứ hóa thạch (địa khai - fossil) trên quê hương họ, và khi đã đến được mảnhđất phương Tây thì họ cũng hiểu được rằng đấy cũng là một cơ hội để giúp cho PhậtGiáo tồn tại, và hơn nữa đấy cũng là một dịp để phát huy cho mọi người biết đếncác tiềm năng quý giá vô ngần của Phật Giáo. Những tiềm năng ấy không nhất thiếtđề cao một nền luân lý hay quảng bá một thứ giáo điều nào cả, mà đúng hơn đấy lànhững gì giúp chúng ta có thể nhìn thấy được một thể dạng hiện hữu nào đó (thể dạng thanhcao, an vui và giải thoát của một người tu tập).

Đối với các thế hệ trẻtại Á Châu, Phật Giáo bị xem như là một thứ gì lạc hậu, và cũng chẳng giúp íchgì được cho họ trong cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu mà họ đang muốn nhập cuộc đểtham gia. Trong thế giới Tây Phương thì chúng ta may mắn hơn và đã ý thức được nhữnggiới hạn của chủ thuyết toàn cầu hóa đó cũng như của sự đua đòi tiện nghi vậtchất. Kinh nghiệm bản thân giúp chúng ta chứng nghiệm được tính cách đích thậttrong những lời giáo huấn của Đức Phật. Các lời giáo huấn ấy giúp chúng ta ý thứcđược là dù luôn cố tìm cách thỏa mãn sự ham muốn thế nhưng thực sự ra thì chúngta sẽ không bao giờ hết thèm khát cả. Chúng ta nào có biết tìm lấy cho mình sựan vui sẵn có mà luôn chỉ muốn tìm cách để đuổi theo những thứ khác hơn.

Dầu sau thì vấn đề vẫncòn hàm chứa một khía cạnh khác nữa. Trong thế giới Đông Phương, Phật Giáo đã ănsâu vào toàn bộ nền văn hóa và thấm nhuần trong từng sinh hoạt cụ thể của cuộcsống thường nhật. Con người hít thở bầu không khí Phật Giáo một cách thật tựnhiên - hành động của họ đều thấm đượm tinh thần Phật Giáo, từ cách ăn ở, cáchchào hỏi, cách ngắm nhìn muôn thú, núi đồi hay bất cứ một sự vật nào khác. Cácnền văn hóa Đông Phương không hề gây chiến chống lại bất cứ gì chi phối bởi mộtthứ trật tự duy lý mang tính cách tính toán - mà luôn giữ được ý nghĩa của sựthiêng liêng và nghi lễ, biết quan tâm đến thân xác và cả tình yêu thương. Và đấychính là những gì mà chúng ta không có. Muốn thực hiện được những điều ấy thì nhấtđịnh phải cần đến một sự cố gắng thật lớn lao. Nếu không thiết lập được một nềnmóng văn hóa Phật Giáo đích thực tại Tây Phương thì cũng sẽ khó lòng mà giúpcho Phật Giáo bắt rễ vào mảnh đất ấy.

Sau hết cũng cần phảinêu lên thêm một sự khác biệt nữa giữa Phật Giáo Á Châu và Phật Giáo TâyPhương: đấy là vai trò của những người xuất gia. Tại Đông Phương nhất là ở các nướcĐông Nam Á, vị thế của người tu hành được nâng lên rất cao. Người thế tục thuộcmọi thành phần đều phải cung cấp các tiện nghi vật chất cho các nhà sư trong cuộcsống thường nhật, và họ xem bổn phận ấy quan trọng hơn cả việc tu tập để hướngvào sự giác ngộ cho chính mình.

Ở Tây Phương thì lại khác,các người thế tục chỉ biết lo tu tập, tham gia vào các khóa ẩn cư hay các buổithực tập. Họ tìm cách bước thẳng vào lãnh vực cao thâm nhất và linh thiêng nhấtcủa Phật Giáo.

Nguyênnhân nào đã thúc đẩy ta trở thành người Phật Giáo?

Con người càng đa dạngbao nhiêu thì những nguyên nhân thúc đẩy cũng càng phức tạp bấy nhiêu.

Các nguyên nhân ấy cóthể là sự bất an gay gắt trong lòng, sự bất toại nguyện dai dẳng (vì khổ đau mà tu),chấp nhận tự gánh vác tất cả mọi khó khăn của mình (ý thức được nguyên nhân của khổ đau là do chínhmình gây ra), hay đấy là tinh thần thượng võ, lòng ước vọng giúp đỡtất cả chúng sinh (lý tưởng của người bồ-tát).

Hoặc cũng có thể là vìcảm nhận được ý nghĩa sâu xa trong những lời giảng huấn của Đức Phật, luôn vanglên trong lòng mình một cách thật thiết tha.

Dầu sao đi nữa thì đến mộtngày nào đó, người ta cũng sẽ cảm thấy mình muốn được uống những ngụm nước tuônra từ con suối ấy (tức Phật Giáo). Nếu muốn đến được con suối thì phải sẵn sàngtừ bỏ các thói quen chỉ biết hành xử nhắm vào quyền lợi cá nhân của mình. Quảthật chẳng có gì hẹp hòi hơn. Đấy chỉ là một cách chạy quẩn chạy quanh. Chính vìthế mà đến một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ muốn được nhìn thấy các sự vật gầnhơn, đúng thật hơn với cách mà chúng hiển hiện ra.

Đấy chính là cách giúpchúng ta bước vào "con đường".

Các nguyên nhân khiếnchúng ta tìm đến với Phật Giáo tất nhiên cũng phải biến đổi. Những nguyên nhân thúcđẩy hẹp hòi rồi sẽ dần dần biến thành những nguyên nhân cao rộng hơn, sự ích kỷrồi một lúc nào đó cũng sẽ chuyển thành lòng quyết tâm hy sinh vì sự lợi ích củakẻ khác.

Dù được thúc đẩy bởi bấtcứ một động lực nào đi nữa thì luôn luôn ta cũng phải cần đến một con đường giúpcho ta theo đó mà đi.

Quả đấy là một thứ gìthật khó. Con người lúc nào cũng muốn che chở mình bằng một lớp vỏ bên ngoài thậtcứng nhắc mà chẳng bao giờ nghĩ đến là phải biến cải chính mình từ bên trong.

Thế nhưng đấy lại là mụcđích của Phật Giáo. Phải tu tập mà thôi, thế nhưng không phải tập để đơn giản trởthành một người Phật tử - chữ ấy mang một ý nghĩa thật đáng thương hại, bởi vìđấy chỉ là cách gán thêm cho mình một thứ cá tính nào đó để tự nâng cao giá trịcủa mình, hầu để tự trấn an lấy mình - mà đúng hơn tu tập có nghĩa là phải đi theo những bước chân của Đức Phật.

PhậtGiáo có nghi lễ nào tương tự như lễ rửa tội hay lễ Bar Mitsva (lễthụ giới của Do Thái Giáo lúc con gái vừa đúng 12 tuổi và con trai thì 13 tuổi)hay không?

Khi sinh ra chúng ta khôngđương nhiên là người Phật Giáo, tương tự như trường hợp của Do Thái Giáo, hay làtrường hợp của Thiên Chúa Giáo nhờ vào phép rửa tội. Chúng ta trở thành ngườiPhật Giáo bằng một sự tự nguyện mang tính cách cá nhân gọi là "quy y Tam Bảo"tức là nương tựa vào Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn: đấy là tấm gương để tanoi theo (tức ĐứcPhật), con đường giúp ta bước theo (Đạo Pháp), và tập thể những người đảmtrách việc truyền giáo (Tăng Đoàn).

Tạisao lại gọi là "quy y"?

Quyết tâm trở thành một người PhậtGiáo là một cách (giántiếp)chứng tỏ cho thấy là các mục tiêu trước đây không đáp ứng đượcnguyện vọng của mình. Các mục tiêu ấy không đủ vững chắc để cho ta có thể nươngtựa vào đấy. Tìm kiếm lạc thú, lợi lộc, uy quyền thì rốt cuộc cũng chỉ là cáchchạy theo những thứ phù du. Sự nương tựa đích thật mang lại lợi ích thực sự chínhlà cái không gian mở rộng - cái không gian mà Đức Phật đã trỏ cho chúng ta thấy.Chỉ có Đức Phật là vững bền và không có bất cứ một thứgì có thể làm cho Ngài bị ô uế được.

Đức Phật cũng như Đạo Pháp và Tăng Đoàn tất cảđều hiển lộ một cách thật xác thực, và được xem như ba viên ngọc quý giá khônggì có thể so sánh được. Những viên ngọc vô giá đó có thể giúp chúng ta chữalành những vết thương sâu kín nhất. Chúng ta có thể mạnh dạn nương tựa vào nhữngviên bảo châu ấy mà không e ngại gì cả. Đấy là những viên bảo châu không bao giờphản bội chúng ta và cũng không bao giờ làm cho chúng ta phải bị lạc hướng...

Việc quy y thường đượcdiễn ra trong một buổi lễ với sự chủ tọa của một vị thầy, có thể tổ chức ở chùahay tại nhà. Thể thức thật giản dị, chỉ cần xướng lênba lần:

Tôi xin quy y Phật

Tôi xin quy y Pháp

Tôi xin quy y Tăng

Để chính thức hóa sự kiện ấy, ngườichủ lễ sẽ cắt một lọn tóc của người tân đồ đệ, tương tự như khi Đức Phật rời bỏcung điện vua cha đã cắt tóc để tỏ sự quyết tâm đi theo con đường mà mình đã chọn.

Ngay cả ở Phương Đông, tục lệ này đôikhi cũng không còn giữ được tính cách long trọng như xưa nữa, và tiếc thay đấy lạilà những gì thật cần thiết. Người tân đồ đệ dù có xướng lên những lời ước nguyệnthế nhưng cũng chẳng cần biết đấy có ý nghĩa gì, và cũng chẳng cần phải đem rađể áp dụng trên con đường tu tập của mình. Vì thế nên ngày nay tại Tây Phương thiếtnghĩ cũng nên tổ chức lễ quy y thật long trọng và nên chờ đến khi nào người tutập thật sự sẵn sàng để quy y và quyết tâm tuân thủ những điều nguyện ước của mìnhthì mới làm.

Hành động quy y không phải chỉ có ýnghĩa và giới hạn trong buổi lễ. Người tu tập trong từng ngày phải nhớ đến hànhđộng quy y của mình, và phải xem đấy như là một phép tu tập đích thật, và đấy cũnglà một cách nhắc nhở mỗi người chúng ta không được quên cái lý tưởng mà chúngta hằng mong muốn là mang lại cho sự sống của chính mình. Mặc dù không hề ý thứcđược, thế nhưng thực ra thì lúc nào chúng ta cũng bám víu quá nhiều vào nhữngthứ vô ích và phù du, vì thế tốt hơn hết chúng ta nên tìm cho mình một hướng đi(tức là PhậtGiáo) để gởi gắm con tim của chính mình.

Bures-Sur-Yvette,27.01.12

Hoang Phong chuyểnngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2019(Xem: 10671)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11089)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 15869)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3468)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 12617)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7468)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6600)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 79210)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 10955)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5211)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567