Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 1: Người Phật tử ngày nay trong thế giới Tây Phương

14/02/201215:04(Xem: 3386)
Chương 1: Người Phật tử ngày nay trong thế giới Tây Phương
NGƯỜI PHẬT TỬ NGÀY NAY
trong thế giới Tây Phương
Fabrice Midal
Hoang Phong chuyển ngữ


PhatGiaoNhapMon
Phật Giáo nhập môn
Thựctập thiền định - Cải thiện chính mình - Mở rộng trái tim
tácgiả Fabrice Midal

Vài lời giới thiệu của người dịch

Dưới đây là phần chuyểnngữ toàn bộ chương I (tr.13-20) của một quyển sách nhỏ về Phật Giáo, mang tựa đề"Phật Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bảnGrancher, 2008). Tuy bàn về những vấn đề rất căn bản thế nhưng tập sách lại đượcviết bởi một triết gia Phật Giáo sâu sắc nổi tiếng hiện nay là Fabrice Midal.Trong chương đầu tiên này, tác giả tìm cách giải thích Phật Giáo là gì và nêu lênmột vài khía cạnh về hiện tình phát triển của Phật Giáo tại Pháp và Âu Châu. Toànbộ quyển sách được tác giả trình bày với một văn phong rất đơn giản và nêu lên cácchủ đề cũng như các nhận xét thật bao quát, thế nhưng chúng ta vẫn nhìn thấy đượcchiều sâu và sự chính xác tàng ẩn phía sau từng dòng chữ thật đơn sơ của ông.

Sinh năm 1967 trong mộtgia đình Do Thái Giáo, năm 20 tuổi Fabrice Midal may mắn gặp được một nhà sưTây Tạng khác thường là Chögyam Trungpa (1939-1987). Ông cạo đầu và tu theo PhậtGiáo Tây Tạng từ khi còn là sinh viên, sau đó thì đỗ tiến sĩ triết học tại đạihọc Sorbonne (Paris). Tuy thấm nhuần các tư tưởng phóng khoáng, cấp tiến và"phi-giáo-điều" của vị thầy Chögyam Trungpa, ông cũng đã chịu ảnh hưởngrất nhiều từ các vị thầy Tây Tạng khác mà ông đã theo học, và đặc biệt nhất làđược nhà thần kinh học nổi tiếng Francisco Varéla (1946-2001) một trong các đệ tửthân cận của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, truyền thụ thêm cho ông về phép thiền định.

Fabrice_Midal

FabriceMidal

Lýdo nào khiến người Tây Phương lại theo Phật Giáo đông đến thế?

Quả thật là đã không hềcó một dấu hiệu nào báo trước sự thành công kỳ lạ của Phật Giáo tại Tây Phương trướckhi Phật Giáo tiếp xúc với miền đất này vào thế kỷ XX. Alfred Foucher (1865-1952, là mộthọc giả uyên bác của Pháp), tác giả một quyển sách thuật lại cuộc đờicủa Đức Phật hiện vẫn còn giá trị, đã viết vào năm 1949 một câu như sau:"Ngoại trừ một số người đặc biệt hiếu kỳ thích quan tâm đến những thứ ngoạilai ra thì Phật Giáo rồi cũng sẽ chỉ thu nạp được một số tín đồ thật ít ỏi trênđất nước của chúng ta". Theo ông thì tín ngưỡng đó không sao hòa hợp đượcvới tâm tính của người Tây Phương.

Ngày nay nhiều khái niệmchủ yếu của Phật Giáo được biết đến và có thể nói rằng đã có rất nhiều người TâyPhương tán đồng các quan điểm ấy: dù đấy là lòng từ bi, sự vững chắc của hiệntượng vô thường (chữ này là một đặc thù của Phật Giáo), các khái niệm về vô-ngã,về nghiệp hay là hiện tượng tương liên (lý duyên khởi). Người ta có thể quả quyết rằng rồiđây Tây Phương sẽ trở thành mảnh đất của Phật Giáo, dù không nhất thiết phải làdưới một hình thức tu tập thật chuyên cần đi nữa.

Sự lợi ích do thiền địnhmang lại thì mọi người đều biết và đã có hàng triệu người đang luyện tập hiệnnay.

chuakhanhanh-parisKhoảng hơn bảy-trăm-ngànngười Pháp tự nhận mình là Phật tử (nước Pháp có 65 triệu dân), và do đó Phật Giáo đãtrở thành tôn giáo đứng hàng thứ ba tại quốc gia này. Con số ấy thật ra còn chekhuất một sự thật quan trọng hơn thế nhiều: đấy là có năm triệu người Pháp chorằng Phật Giáo là một tín ngưỡng mà họ cảm thấy gần gũi với mình hơn cả. PhậtGiáo du nhập vào nước Pháp vững chắc hơn so với các nơi khác: hàng nhiều trămtrung tâm thiền định đã được thiết lập trên đất Pháp. Ngôi chùa Tây Tạng lớn nhấtÂu Châu tọa lạc trong vùng Bourgogne (miền đông nước Pháp), trung tâm thiền Zen quantrọng nhất ở Âu Châu được thiết lập tại Touraine (miền tây nước Pháp), và ngôi chùamới của Phật Giáo Việt Nam thì ở Evry (ngoại ô Paris).(hình bên)

Có rất nhiều nguyên nhânđưa đến sự phát triển của Phật Giáo trên đây. Thế nhưng căn cứ vào một vài khíacạnh của tín ngưỡng Phật Giáo đã khiến cho con tim của người Tây Phương phảirung động thì có lẽ chỉ cần nhận ra hai nguyên nhân chính yếu nhất là đủ: trướchết là một nền móng đạo đức xây dựng trên sự khoan dung, lòng nhân ái, sự ý thứcđược trách nhiệm của mình đối với người khác trong cộng đồng xã hội; và kế đó làsự tập luyện về thiền định như là một nghệ thuật sống, giúp làm hiển lộ được bảnchất đích thật nơi con người của mỗi chúng ta trong bất cứ một bối cảnh nàotrong cuộc sống.

Các nguồn tài nguyênthiên nhiên bị tàn phá triệt để khiến cho tương lai của hành tinh này đang bị hămdọa một cách trầm trọng, và nếu nhìn trên một bình diện rộng hơn nữa thì có thểnói rằng bất cứ thứ gì trên hành tinh này cũng đều đang bị khai thác một cách tậncùng - trong đó kể cả con người. Trong bối cảnh đó đối với nhiều người thì PhậtGiáo đã xuất hiện như là một giải pháp cứu tinh mạnh mẽ, mạch lạc và thật cầnthiết.

Đốivới người Tây Phương muốn trở thành một Phật tử thì phải như thế nào?

Đấy là ước vọng được bướctheo bước chân của Đức Phật, thế nhưng đây không phải là cách thâu thập chomình một thứ gì ngoại lai, mà thật ra là để noi theo tấm gương của một Con Ngườicách nay hơn hai-ngàn-năm-trăm năm đã khám phá ra một con đường cho chúng ta bướctheo, hầu giúp cho mình trở thành những con người xứng đáng hơn.

Nếu bắt buộc phải địnhnghĩa Phật Giáo bằng một câu duy nhất thì tôi sẽ nói rằng đấy là một phươngpháp giúp chúng ta sống thật trọn vẹn từng giây phút một trong cuộc đời này.

Tất cả chúng ta đều trảiqua những giây phút khổ nhọc và đau buồn, và cả mọi thứ khó khăn khác mang ítnhiều gay gắt. Thế nhưng Phật Giáo cho thấy là chúng ta có thể triệt tiêu được nhữngthứ ấy một cách hữu hiệu, và còn nhắn bảo với chúng ta không nên đổ lỗi cho hoàncảnh bên ngoài hay cho người khác, vì đấy chỉ là cách ngăn chận không giúp chúngta trưởng thành một cách đúng đắn được.

Phật Giáo khuyên chúngta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trongcuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình. Nếunhìn theo chiều hướng đó thì Phật Giáo không phải là một tôn giáo. Phật Giáo khôngbắt nguồn từ một thứ đức tin nào cả, và cũng chẳng cần phải chấp nhận một thứ hiểubiết nào mang tính cách giáo điều. Kể cảmột Đấng Tối Cao cũng không có trong tín ngưỡng ấy.

Giáo huấn của Đức Phậtlà những lời chỉ dạy giúp chúng ta tiếp cận trực tiếp với những kinh nghiệm sốngthật mà chúng ta cảm nhận được. Dầu sao thì chữ kinh nghiệm (experience) không hàmchứa đầy đủ được ý nghĩa cần thiết để diễn đạt được những gì nói đến trên đây, bởivì ngày nay chữ kinh nghiệm đã quen được sử dụng trong khoa học và mang ý nghĩanhư là một sự thử nghiệm, không còn là một sự lắng nghe với tất cả sự cảnh giácnữa.

Bước theo vết chân củaĐức Phật trước hết có nghĩa là khám phá ra rằng thực tại không hề hiển hiện rađúng thật của nó, thế nhưng chúng ta thì lại không sẵn sàng để chấp nhận điều ấy.Vì thế phải cần đến một sự tập luyện cần thiết nào đó để giúp chúng ta tiếp cậnthật gần, đúng thật với những gì đang hiển hiện ra. Thí dụ như khi viếng thăm mộtthành phố nào đó mà trước đây ta chưa hề biết, thì trong trường hợp ấy ta cũng cầnphải có một thời gian để cảm nhận được các đặc điểm của nơi ấy, và khung cảnhsinh hoạt của nơi ấy. Thế nhưng vẫn có thể là ta không thể nào quả quyết là mình đã cảmnhận được một cách đích thậttất cả những gì trong bối cảnh cá biệt ấy hay không, do đó ta cần phải có thêm thìgiờ để kiểm chứng lại. Nếu nhìn theo khía cạnh ấy thì sẽ hiểu rằng Phật Giáokhuyên chúng ta phải tập luyện thiền định. Đức Phật ngồi xuống để thiền định vàđã tiếp cận trực tiếp và thật sát với tất cả mọi sự vật đúng với những gì chúnghiển hiện ra, đồng thời thì Ngài cũng đã nhìn thẳng vào những kinh nghiệm cảmnhận của chính Ngài với một sự sắc bén thật cao độ. Trở thành một người Phật tửchỉ đơn giản có thế, tức có nghĩa là biết hành xử như thế.

Tuy nhiên không phải dễđể thực hiện được điều ấy. Nếu nhiều người cùng tập luyện chung với nhau thì cóthể sẽ dễ dàng hơn, nhất là biết tuân theo một số quy tắc được thiết đặt rõ rệtvà biết cố gắng giữ sự thành tín mang tính cách "tôn giáo" trong lòngmình, phải tự tin rằng mình là một người tốt và mình có lý - không nên đổ lỗi chongười khác về các khó khăn của chính mình. Con người luôn bị thúc đẩy thật mạnhbởi một niềm mong muốn tạo lập được một cơ sở nào đó và dồn tất cả trí thôngminh của mình vào đấy, và sau đó thì hy sinh tất cả cho lý tưởng ấy - thí dụ nhưthành lập một xí nghiệp, một hội đoàn, một cơ sở hành chánh, hay theo một Giáo Pháinào đó mà vì hoàn cảnh đưa đẩy đã trói buộc mình vào với nó. Tất cả những thứ ấythật vô cùng khủng khiếp.

Đức Phật khuyên chúngta phải biết tận hưởng, biết cảm nhận và biết sống trong từng giây phút một quasự hiện hữu của chính mình, thế nhưng không phải vì thế mà phải loại bỏ trí thôngminh của chính mình, và bắt buộc mình phải giao sự tự do của chính mình vào trongtay của bất cứ ai khác.

Cácđiều ấy có khác với những gì đang xảy ra ở các nước Tây Phương hay không?

Đúng là có, bởi vì tại ÁChâu thông thường thiền định không được xem là tâm điểm của Phật Giáo. Thiền địnhchỉ được thực thi bởi một số người đặc biệt quan tâm đến nó mà thôi. Phật Giáo tạinhững nơi này đã hòa nhập một cách tự nhiên với cuộc sống thường nhật. Tại TâyPhương, chúng ta cũng thấy một hiện tượng tương tự như thế đối với Thiên ChúaGiáo, và cũng nên hiểu rằng nhiều người xem tất cả những thứ ấy chỉ là một khungtrời thấm đượm văn hóa và các tập quán lâu đời mà thôi, không phải là một conđường tâm linh đích thật.

Phật giáo tại Tây Phươngtrước hết phải được xem là một sự truyền thụ tâm linh. Phật Giáo không phải làmột thứ tổng hợp gồm các tín điều, nghi lễ và các thái độ hành xử. Quả thật tấtcả là nhờ vào những vị "anh hùng" (đây là cách "mượn chữ" trong kinh sách Phật Giáo,nhất là kinh sách Phật Giáo Tây Tạng, chữ "anh hùng" dùng để chỉ những vị Bồ-tát xả thân cho lý tưởng của mình,và trong trường hợp này là những nhà sư Tây Tạng đã trốn thoát khỏi quê hương củahọ để sống lưu vong tại Âu Châu)đã mang Phật Giáo vào Tây Phươngcho chúng ta vào hậu bán thế kỷ XX, đấy là những người bị gạt ra khỏi các thểchế xã hội trên chính quê hương của họ. Họ ý thức được Phật Giáo đang trở thànhmột thứ hóa thạch (địa khai - fossil) trên quê hương họ, và khi đã đến được mảnhđất phương Tây thì họ cũng hiểu được rằng đấy cũng là một cơ hội để giúp cho PhậtGiáo tồn tại, và hơn nữa đấy cũng là một dịp để phát huy cho mọi người biết đếncác tiềm năng quý giá vô ngần của Phật Giáo. Những tiềm năng ấy không nhất thiếtđề cao một nền luân lý hay quảng bá một thứ giáo điều nào cả, mà đúng hơn đấy lànhững gì giúp chúng ta có thể nhìn thấy được một thể dạng hiện hữu nào đó (thể dạng thanhcao, an vui và giải thoát của một người tu tập).

Đối với các thế hệ trẻtại Á Châu, Phật Giáo bị xem như là một thứ gì lạc hậu, và cũng chẳng giúp íchgì được cho họ trong cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu mà họ đang muốn nhập cuộc đểtham gia. Trong thế giới Tây Phương thì chúng ta may mắn hơn và đã ý thức được nhữnggiới hạn của chủ thuyết toàn cầu hóa đó cũng như của sự đua đòi tiện nghi vậtchất. Kinh nghiệm bản thân giúp chúng ta chứng nghiệm được tính cách đích thậttrong những lời giáo huấn của Đức Phật. Các lời giáo huấn ấy giúp chúng ta ý thứcđược là dù luôn cố tìm cách thỏa mãn sự ham muốn thế nhưng thực sự ra thì chúngta sẽ không bao giờ hết thèm khát cả. Chúng ta nào có biết tìm lấy cho mình sựan vui sẵn có mà luôn chỉ muốn tìm cách để đuổi theo những thứ khác hơn.

Dầu sau thì vấn đề vẫncòn hàm chứa một khía cạnh khác nữa. Trong thế giới Đông Phương, Phật Giáo đã ănsâu vào toàn bộ nền văn hóa và thấm nhuần trong từng sinh hoạt cụ thể của cuộcsống thường nhật. Con người hít thở bầu không khí Phật Giáo một cách thật tựnhiên - hành động của họ đều thấm đượm tinh thần Phật Giáo, từ cách ăn ở, cáchchào hỏi, cách ngắm nhìn muôn thú, núi đồi hay bất cứ một sự vật nào khác. Cácnền văn hóa Đông Phương không hề gây chiến chống lại bất cứ gì chi phối bởi mộtthứ trật tự duy lý mang tính cách tính toán - mà luôn giữ được ý nghĩa của sựthiêng liêng và nghi lễ, biết quan tâm đến thân xác và cả tình yêu thương. Và đấychính là những gì mà chúng ta không có. Muốn thực hiện được những điều ấy thì nhấtđịnh phải cần đến một sự cố gắng thật lớn lao. Nếu không thiết lập được một nềnmóng văn hóa Phật Giáo đích thực tại Tây Phương thì cũng sẽ khó lòng mà giúpcho Phật Giáo bắt rễ vào mảnh đất ấy.

Sau hết cũng cần phảinêu lên thêm một sự khác biệt nữa giữa Phật Giáo Á Châu và Phật Giáo TâyPhương: đấy là vai trò của những người xuất gia. Tại Đông Phương nhất là ở các nướcĐông Nam Á, vị thế của người tu hành được nâng lên rất cao. Người thế tục thuộcmọi thành phần đều phải cung cấp các tiện nghi vật chất cho các nhà sư trong cuộcsống thường nhật, và họ xem bổn phận ấy quan trọng hơn cả việc tu tập để hướngvào sự giác ngộ cho chính mình.

Ở Tây Phương thì lại khác,các người thế tục chỉ biết lo tu tập, tham gia vào các khóa ẩn cư hay các buổithực tập. Họ tìm cách bước thẳng vào lãnh vực cao thâm nhất và linh thiêng nhấtcủa Phật Giáo.

Nguyênnhân nào đã thúc đẩy ta trở thành người Phật Giáo?

Con người càng đa dạngbao nhiêu thì những nguyên nhân thúc đẩy cũng càng phức tạp bấy nhiêu.

Các nguyên nhân ấy cóthể là sự bất an gay gắt trong lòng, sự bất toại nguyện dai dẳng (vì khổ đau mà tu),chấp nhận tự gánh vác tất cả mọi khó khăn của mình (ý thức được nguyên nhân của khổ đau là do chínhmình gây ra), hay đấy là tinh thần thượng võ, lòng ước vọng giúp đỡtất cả chúng sinh (lý tưởng của người bồ-tát).

Hoặc cũng có thể là vìcảm nhận được ý nghĩa sâu xa trong những lời giảng huấn của Đức Phật, luôn vanglên trong lòng mình một cách thật thiết tha.

Dầu sao đi nữa thì đến mộtngày nào đó, người ta cũng sẽ cảm thấy mình muốn được uống những ngụm nước tuônra từ con suối ấy (tức Phật Giáo). Nếu muốn đến được con suối thì phải sẵn sàngtừ bỏ các thói quen chỉ biết hành xử nhắm vào quyền lợi cá nhân của mình. Quảthật chẳng có gì hẹp hòi hơn. Đấy chỉ là một cách chạy quẩn chạy quanh. Chính vìthế mà đến một lúc nào đó chúng ta cũng sẽ muốn được nhìn thấy các sự vật gầnhơn, đúng thật hơn với cách mà chúng hiển hiện ra.

Đấy chính là cách giúpchúng ta bước vào "con đường".

Các nguyên nhân khiếnchúng ta tìm đến với Phật Giáo tất nhiên cũng phải biến đổi. Những nguyên nhân thúcđẩy hẹp hòi rồi sẽ dần dần biến thành những nguyên nhân cao rộng hơn, sự ích kỷrồi một lúc nào đó cũng sẽ chuyển thành lòng quyết tâm hy sinh vì sự lợi ích củakẻ khác.

Dù được thúc đẩy bởi bấtcứ một động lực nào đi nữa thì luôn luôn ta cũng phải cần đến một con đường giúpcho ta theo đó mà đi.

Quả đấy là một thứ gìthật khó. Con người lúc nào cũng muốn che chở mình bằng một lớp vỏ bên ngoài thậtcứng nhắc mà chẳng bao giờ nghĩ đến là phải biến cải chính mình từ bên trong.

Thế nhưng đấy lại là mụcđích của Phật Giáo. Phải tu tập mà thôi, thế nhưng không phải tập để đơn giản trởthành một người Phật tử - chữ ấy mang một ý nghĩa thật đáng thương hại, bởi vìđấy chỉ là cách gán thêm cho mình một thứ cá tính nào đó để tự nâng cao giá trịcủa mình, hầu để tự trấn an lấy mình - mà đúng hơn tu tập có nghĩa là phải đi theo những bước chân của Đức Phật.

PhậtGiáo có nghi lễ nào tương tự như lễ rửa tội hay lễ Bar Mitsva (lễthụ giới của Do Thái Giáo lúc con gái vừa đúng 12 tuổi và con trai thì 13 tuổi)hay không?

Khi sinh ra chúng ta khôngđương nhiên là người Phật Giáo, tương tự như trường hợp của Do Thái Giáo, hay làtrường hợp của Thiên Chúa Giáo nhờ vào phép rửa tội. Chúng ta trở thành ngườiPhật Giáo bằng một sự tự nguyện mang tính cách cá nhân gọi là "quy y Tam Bảo"tức là nương tựa vào Đức Phật, Đạo Pháp và Tăng Đoàn: đấy là tấm gương để tanoi theo (tức ĐứcPhật), con đường giúp ta bước theo (Đạo Pháp), và tập thể những người đảmtrách việc truyền giáo (Tăng Đoàn).

Tạisao lại gọi là "quy y"?

Quyết tâm trở thành một người PhậtGiáo là một cách (giántiếp)chứng tỏ cho thấy là các mục tiêu trước đây không đáp ứng đượcnguyện vọng của mình. Các mục tiêu ấy không đủ vững chắc để cho ta có thể nươngtựa vào đấy. Tìm kiếm lạc thú, lợi lộc, uy quyền thì rốt cuộc cũng chỉ là cáchchạy theo những thứ phù du. Sự nương tựa đích thật mang lại lợi ích thực sự chínhlà cái không gian mở rộng - cái không gian mà Đức Phật đã trỏ cho chúng ta thấy.Chỉ có Đức Phật là vững bền và không có bất cứ một thứgì có thể làm cho Ngài bị ô uế được.

Đức Phật cũng như Đạo Pháp và Tăng Đoàn tất cảđều hiển lộ một cách thật xác thực, và được xem như ba viên ngọc quý giá khônggì có thể so sánh được. Những viên ngọc vô giá đó có thể giúp chúng ta chữalành những vết thương sâu kín nhất. Chúng ta có thể mạnh dạn nương tựa vào nhữngviên bảo châu ấy mà không e ngại gì cả. Đấy là những viên bảo châu không bao giờphản bội chúng ta và cũng không bao giờ làm cho chúng ta phải bị lạc hướng...

Việc quy y thường đượcdiễn ra trong một buổi lễ với sự chủ tọa của một vị thầy, có thể tổ chức ở chùahay tại nhà. Thể thức thật giản dị, chỉ cần xướng lênba lần:

Tôi xin quy y Phật

Tôi xin quy y Pháp

Tôi xin quy y Tăng

Để chính thức hóa sự kiện ấy, ngườichủ lễ sẽ cắt một lọn tóc của người tân đồ đệ, tương tự như khi Đức Phật rời bỏcung điện vua cha đã cắt tóc để tỏ sự quyết tâm đi theo con đường mà mình đã chọn.

Ngay cả ở Phương Đông, tục lệ này đôikhi cũng không còn giữ được tính cách long trọng như xưa nữa, và tiếc thay đấy lạilà những gì thật cần thiết. Người tân đồ đệ dù có xướng lên những lời ước nguyệnthế nhưng cũng chẳng cần biết đấy có ý nghĩa gì, và cũng chẳng cần phải đem rađể áp dụng trên con đường tu tập của mình. Vì thế nên ngày nay tại Tây Phương thiếtnghĩ cũng nên tổ chức lễ quy y thật long trọng và nên chờ đến khi nào người tutập thật sự sẵn sàng để quy y và quyết tâm tuân thủ những điều nguyện ước của mìnhthì mới làm.

Hành động quy y không phải chỉ có ýnghĩa và giới hạn trong buổi lễ. Người tu tập trong từng ngày phải nhớ đến hànhđộng quy y của mình, và phải xem đấy như là một phép tu tập đích thật, và đấy cũnglà một cách nhắc nhở mỗi người chúng ta không được quên cái lý tưởng mà chúngta hằng mong muốn là mang lại cho sự sống của chính mình. Mặc dù không hề ý thứcđược, thế nhưng thực ra thì lúc nào chúng ta cũng bám víu quá nhiều vào nhữngthứ vô ích và phù du, vì thế tốt hơn hết chúng ta nên tìm cho mình một hướng đi(tức là PhậtGiáo) để gởi gắm con tim của chính mình.

Bures-Sur-Yvette,27.01.12

Hoang Phong chuyểnngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2010(Xem: 3133)
Tín ngưỡng, triết lý, và thực hành của Á châu đang ảnh hưởng mọi thứ từ cung cách mà chúng ta đối phó với bệnh tật đến việc chúng ta chế tạo xe hơi như thế nào. Bây giờ, một giáo sư Thương Mãi Đại Học Harvard đang hướng về phương Đông như một phương thức cho việc phát triển những lãnh đạo thương nghiệp mạnh mẽ. Bill George, một chuyên gia về bồi dưỡng phát triển lĩnh đạo, mới đây phối hợp với một vị thầy thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche để tổ chức một hội nghị về “lĩnh đạo tỉnh thức,” một tiến trình thế tục để khám phá những vai trò của sự tự tỉnh giác và tự từ bi trong sự phát triển những lĩnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả.
27/09/2010(Xem: 4833)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
22/09/2010(Xem: 10643)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
21/09/2010(Xem: 4783)
Xã hội hôm nay đã được cải thiện rất nhiều về phương diện vật chất, nhưng những giá trị hạnh phúc của con người thì không theo đó mà thăng tiến. Đời sống xã hội hiện tại đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn về đạo đức, môi trường sinh thái… và đang rất cần một giải pháp. Trong truyền thống dân tộc, với lịch sử gắn bó lâu đời, đạo Phật sẽ giới thiệu hướng đi nào trong việc thiết định các giá trị sống phù hợp với hôm nay?... Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
21/09/2010(Xem: 3131)
Ở phía trên chúng tôi trong những làn mây của Hy Mã Lạp Sơn là những ngọn núi tuyết phủ lởm chởm - Annapurna, Damodar, Gangapurna, Dhalguri. Bên dưới chúng tôi là băng hà Thulagi, một dòng sông băng cỗ xưa ngoằn ngoèo cheo leo trãi dài xuống thung lũng Mashyangdi từ gần đỉnh núi Manasulu. Bước trên những cây tiêu huyền nhỏ ngăn bờ và lướt qua một lối mòn cô độc và chúng tôi thấy điều mà chúng tôi đã từng tìm kiếm: tại mõm của Thulagi là một hồ nước màu sửa xanh dương đánh dấu trên một ít bản đồ.
18/09/2010(Xem: 3625)
Với Phật Giáo, hôn nhân được coi là một vấn đề riêng tư, cá nhân và không phải là một bổn phận tôn giáo. Hôn nhân là một tập quán xã hội, một sự xây dựng tạo nên bởi con người cho sự sung sướng và hạnh phúc của mình, để phân biệt xã hội loài người với đời sống loài vật, và để duy trì trật tự và hòa hợp trong tiến trình sinh sôi nẩy nở. Tuy kinh sách Phật Giáo không đề cập đến vấn đề một vợ một chồng hay đa thê, người cư sĩ Phật Giáo vẫn được khuyên dạy là nên giới hạn một vợ mà thôi.
18/09/2010(Xem: 5069)
Hôn nhân theo tự điển nghĩa là sự liên hệ hỗ tương giữa một người nam và một người nữ. Họ kết hợp với nhau theo một kiểu cách đặc biệt về sự lệ thuộc vào nhau trên pháp lý xã hội với mục đích là cùng nhau tạo dựng và duy trì gia đình. Trong hôn nhân thật sự, người chồng và người vợ nghĩ nhiều đến những người trong gia đình hơn là nghĩ đến chính họ. Họ hy sinh vì lợi ích của gia đình hơn vì lợi ích của chính cá nhân họ. Trong đạo Phật, nếu chưa có đại duyên xuất gia thì không có gì sai trái với việc kết hôn; tuy nhiên, việc lập gia đình phải được xem như là một tiến trình của đời sống và Phật tử tại gia phải coi đây như là cơ hội tốt cho họ thực hành những điều tu tập.
11/09/2010(Xem: 3367)
Trong cuộc tấn công khủng khiếp, hồi 9 giờ sáng thứ ba 11 tháng 9 năm 2001 một nhóm không tặc gần như cùng một lúc cướp bốn máy bay hành khách hiệu Boing đang trên đường bay hướng về thành phố New York và thủ đô Washington. Nhóm không tặc lái hai phi cơ lao thẳng vào Trung Tâm Thương mại Thế giới ở New York – mỗi chiếc đâm vào một trong hai tòa tháp cao nhất, cách nhau khoảng 18 phút.
10/09/2010(Xem: 50668)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
04/09/2010(Xem: 4497)
Chúng tôi rất vui mường cảm thấy đặc biệt vinh dự được nói chuyện với một nhóm những người thật sự cống hiến cho những vấn đề môi trường nói chung và đặc biệt cho những vấn đề môi trường của Tây Tạng nói riêng. Chúng tôi xin bày tỏ lòng cảm kích sâu xa đến Nghị sĩ Bob Brown.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567