Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những ưu tư khi người xuất gia phụng dưỡng Cha Mẹ ở chùa.

09/04/201313:28(Xem: 4619)
Những ưu tư khi người xuất gia phụng dưỡng Cha Mẹ ở chùa.

Những ưu tư khi người xuất gia phụng dưỡng Cha Mẹ ở chùa

Do phát xuất từ nhiều lý do khác nhau, có thể do điều kiện thiếu người chăm sóc, do muốn gần Phật, gần chùa, gần chư Tăng, Ni để vun bồi cội phúc… nên đã có nhiều người xuất gia hôm nay đưa cha mẹ vào sinh hoạt, tu học trong chùa…

Phụng dưỡng cha mẹ là hành vi đúng pháp

Theo luật Phật chế và y cứ vào kinh điển, người xuất gia được phép nuôi dưỡng cha mẹ khi cha mẹ lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Kinh Tiểu Bộ, tập 9, ghi lại câu chuyện hết sức cảm động về hạnh hiếu của người xuất gia (chuyện Hiếu tử Sama, kinh số 540), rằng: "Một người con đi xuất gia vẫn có thể giúp đỡ cha mẹ mình". Ngoài ra, trong luật Ngũ phần và nhiều kinh điển khác, cũng đã ghi lại rất nhiều trường hợp tương tự về hạnh hiếu của người xuất gia.

Phụng dưỡng cha mẹ, nói một cách nôm na là nuôi dưỡng cha mẹ thể hiện qua hai phương diện vật chất và tinh thần, là điều được Đức Phật xác tín. Trong Tăng Chi Bộ kinh, Phật dạy: "Có hai hạng người, này các Tỳ kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho đến 100 tuổi. Như vậy, này các Tỳ kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho mẹ và cha. Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dù tại đấy, mẹ cha có vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này các Tỳ kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha..." (Tăng Chi I, 75).

Tuy nhiên, Tỳ kheo thời Đức Phật không sở hữu tài sản, không có chùa riêng, việc phụng dưỡng cha mẹ trên phương diện vật chất được thực hiện chủ yếu bằng vật phẩm do khất thực trong ngày. Nói cách khác, người xuất gia phụng dưỡng cha mẹ về phương diện vật chất chỉ mang ý nghĩa cung cấp vật thực đủ nuôi sống thân mạng trong một chừng mực nhất định. Đây là một lưu ý quan trọng. Kế đến, chuyển hóa cha mẹ, hướng cha mẹ vào con đường Thánh đạo luôn là mục tiêu hàng đầu của những người con xuất gia khi thực hành hạnh hiếu. Ngay cả bản thân Đức Thế Tôn, độ thoát cho Ma Da phu nhân và vua Tịnh Phạn cũng là một trong những thôi thúc canh cánh bên lòng kể từ khi Ngài đạt được đại ngộ. Lịch sử kinh điển Phật giáo đã ghi nhận rất nhiều điển tích về các Thánh đệ tử trong vấn đề phụng dưỡng này.

Như vậy, xét theo tiêu chí kinh luật, việc nuôi dưỡng cha mẹ, thậm chí đưa cha mẹ vào chùa nuôi dưỡng là đúng pháp, đúng luật. Thế nhưng, khi đưa mẹ vào chùa, người con hiếu đó đã gặp những thuận lợi và khó khăn gì?

Những thuận lợi và khó khăn khi phụng dưỡng cha mẹ trong chùa

Do phát xuất từ nhiều lý do khác nhau, có thể do điều kiện thiếu người chăm sóc, do muốn gần Phật, gần chùa, gần chư Tăng, Ni để vun bồi cội phúc… nên đã có nhiều người xuất gia hôm nay đưa cha mẹ vào sinh hoạt, tu học trong chùa. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ đề cập đến hiện tượng mang tính tiêu biểu: mẹ của thầy trú trì.


“Phụ mẫu tại đường bất khả viễn du”, ước mơ sáng tối hầu thăm sức khỏe của cha mẹ, đã trở thành hiện thực cho những thầy trụ trì khi có cha mẹ ở chùa. Chúng tôi cũng được biết và tiếp xúc, có những thầy trụ trì thường sống bên mẹ và quan hệ giữa họ và chúng Tăng cũng như Phật tử thật tuyệt vời. Theo tâm sự của các vị đó, mẹ là người đầu tiên dẫn khởi niềm tin để họ đến với đạo, mẹ là chỗ dựa vững chắc về tinh thần trong bước đường tu tập của họ. Và thậm chí khi họ đã nên người, đã trở thành chỗ dựa của chúng Tăng, thì mẹ vẫn là người tham vấn cho họ trên nhiều phương diện. Trong quá trình tu tập ở chùa, những người mẹ tuyệt vời như thế, do ý thức được bản thân, ý thức được nghiệp cảm của riêng mình, cộng với sự sẻ chia, hướng dẫn cần thiết của thầy trú trì, người mẹ đó đã có những nỗ lực rất lớn trong sự tu tập, trong nỗ lực chuyển hóa bản thân, nên từng bước tạo ra một môi trường sống an lạc khả ái, có điều kiện thăng tiến tâm linh và an hòa với tất cả mọi mối quan hệ hiện tại. Trong thực tế, có rất nhiều vị trú trì đã có được phúc lạc to lớn này.

Thế nhưng, không phải thầy trú trì nào cũng gặp nhiều thuận duyên khi phụng dưỡng cha mẹ trong chùa. Vấn đề bắt đầu nảy sinh trong mối quan hệ với chúng xuất gia trong chùa. Vì lẽ, do thiếu duyên, do hạn chế trong nhận thức, do không y cứ vào kinh luật, do sự lơi lỏng và nếu không nói là thiếu nghiêm minh của vị trú trì, do sự thiên vị hay vị nể của chúng Tăng nên đã xảy ra nhiều hiện tượng, gây nên những hiệu ứng không tốt về hiện tượng người xuất gia nuôi cha mẹ trong chùa.

Theo khảo sát của riêng chúng tôi, dù đó là mẹ của thầy trú trì, nhưng nếu như sống cộng trụ trong chúng, tất sẽ xảy ra những va vấp với chúng Tăng. Có thể, có những va vấp dễ dàng giải quyết, nhưng đôi lúc, đã có những căng thẳng diễn ra giữa chúng Tăng và mẹ của thầy trụ trì và lẽ dĩ nhiên, người đau khổ nhất, ray rứt nhất vẫn là người nuôi dưỡng mẹ, tức là thầy trú trì. Nghe mẹ, la mắng chúng Tăng thì không được và nếu như không nghe, tất mẹ sẽ buồn lòng.

Về phương diện quần chúng, là Phật tử, không phải ai cũng được đọc kinh điển và thấu hiểu điều này, tức người xuất gia cũng được phép phụng dưỡng cha mẹ. Do không hiểu, không cảm thông nên họ đã vô tình tạo nên những áp lực cho thầy trú trì. Cho nên trong thực tế đã từng xảy ra tình trạng khó xử trong quan hệ giữa người xuất gia và cha mẹ như thấy cha mẹ quá khổ mà không dám giúp đỡ vì sợ miệng tiếng của thế gian, dư luận của xã hội. Trong khi đó, nếu như gặp người khốn khó, vị xuất gia đó có thể tùy tâm ủng hộ, nhưng trong trường hợp đối với bậc thân sinh của mình, họ đành phải nghẹn ngào im lặng. Hành động như vậy có quá đáng lắm không, có đúng không đối với pháp Phật chế? Và, thậm chí có những vị xuất gia do không hiểu pháp, luật Phật đầy đủ và kỹ lưỡng, nên đã dẫn đến thái độ sống cực đoan với cha mẹ. Vì theo suy nghĩ của họ, vậtchất mà họ thọ hưởng là của đàn na tín thí, nếu như cha mẹ cùng thọ hưởng, tất sẽ đọa địa ngục.

Cần phải thấy rằng, điều kiện xã hội ngày nay đã thay đổi rất nhiều, người xuất gia đã sở hữu những tài sản riêng trong sạch (tịnh tài). Có thể tài sản đó do tự mình làm ra, tự thân làm ruộng, cúng đám, giảng dạy… hoặc do tín chủ hiến cúng. Việc vận dụng đúng đắn và hợp lý tài sản đó được hướng dẫn một cách đầy đủ và chi tiết trong các bộ luật của Phật giáo. Và lẽ tất nhiên, việc sử dụng một phần tài sản đó chu cấp cho cha mẹ là hành vi đúng luật, nếu như việc chu cấp chỉ dừng lại ở chỗ nuôi dưỡng thân mạng và một khoản nhỏ khác cho sinh hoạt tinh thần. Miễn làm sao, khi thọ nhận sự cấp dưỡng đó, người cha, người mẹ không sanh tâm tham đắm và khởi phát lạc thọ là được. Điều đặc biệt chú ý là trong khi chu cấp, cố gắng khéo léo trong cách thức để đừng làm dao động tín tâm của người Phật tử sơ cơ.

Theo kết quả sơ khởi từ các cuộc phỏng vấn những vị trú trì có nuôi dưỡng mẹ trong chùa, thì chỉ khi người cha, người mẹ không có người chăm sóc, hoặc điều kiện sống quá thiếu thốn, không đảm bảo những nhu cầu sống căn bản thì người xuất gia mới đưa cha mẹ vào chùa phụng dưỡng. Hơn nữa, từ những quan sát ban đầu chúng tôi ghi nhận được, khi đưa cha mẹ vào chùa để phụng dưỡng, người xuất gia gặp nhiều nghịch duyên hơn thuận duyên, như sự ỷ lại hay những va chạm không đáng có với các thành viên khác…

Những suy tư gợi mở

Với tất cả những thuận lợi và khó khăn như đã trình bày, người xuất gia nên cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa cha mẹ vào chùa để phụng dưỡng. Phải ý thức rằng, ý nghĩa của đời sống xuất gia ngoài mục tiêu tự độ, thì mong mỏi về độ tha phải luôn canh cánh trong lòng, và hơn thế, trách vụ của người xuất gia mà cụ thể là vai trò của thầy trú trì rất nặng nề, “trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng”. Mặt khác, việc đưa cha mẹ vào chùa là tìm cầu sự an lạc, nếu như người xuất gia vì cha mẹ mà xao lãng trọng trách cũng như bậc làm cha mẹ không thể có sự an lạc thực sự khi vào sống trong chùa, thì cần nên cân nhắc lại phương thức phụng dưỡng cha mẹ của mình.

Trên phương diện là chúng Tăng và Phật tử, với cái nhìn chánh kiến và phóng xả, cần phải thấy rằng nền tảng của đời sống là sống với. Không thể ở đâu chúng ta có thể sống-một-mình. Nếu như do hoàn cảnh bất khả kháng, hiện diện trong chùa có một người cư sĩ, mẹ của người xuất gia, chúng ta phải cố gắng ứng xử với tinh thần hòa ái, khoan dung, bình đẳng và chia sẻ. Phải xem người mẹ đó cũng như là người mẹ ruột của mình. Chỉ khi xem mẹ của thầy trú trì cũng như mẹ của chúng ta, tâm thương yêu sẽ khởi phát, bổn phận làm con sẽ dâng trào và từ đây sẽ tránh được những vướng mắc, so đo không đáng có.

Trên phương diện ngược lại, nếu bậc làm cha, làm mẹ khi được người con là bậc xuất gia đưa vào chùa, những bậc làm cha làm mẹ đó phải cố gắng học và thực tập theo hạnh của người xuất gia. Ngôi chùa không phải là cái nhà và thầy trú trì tuy có quyền định đoạt mọi chuyện, nhưng tất cả mọi quyết định đều căn bản phải dựa vào pháp và luật Phật chế. Những bậc làm cha, làm mẹ đó phải ý thức rằng, được vào chùa là một phước báo lớn và đồng thời đây cũng là một môi trường tu tập đầy thử thách, thậm chí có cơ may bị đọa lạc, nếu như mình không nỗ lực, gắng tu. Phải cố gắng hiểu được áp lực mọi phía đang dồn lên vai thầy trú trì và cần phải thấy rằng, nhiệm vụ căn bản của người xuất gia, ngoài mục tiêu độ thoát cho cha mẹ thì ý nghĩa độ thoát cho chúng sanh cũng là tiêu chí hàng đầu. Không vì bất cứ lý do gì mà người xuất gia, thầy trú trì, xao lãng hai mục tiêu đó. Nói cụ thể, nếu trước đây khi chưa xuất gia, thầy ấy thuộc về gia đình mình nhưng từ khi xuất gia, thầy đã thuộc về nhiều người. Với suy tư từ nhiều phía như vậy, tuy vẫn chưa đủ cho một sự định hướng hợp lý, nhưng sẽ gợi mở ra những pháp thức ứng xử hợp tình trước thực tế: khi người xuất gia phụng dưỡng cha mẹ trong chùa.

Đặc biệt, ở Việt Nam, gương hiếu của Tổ sư Liễu Quán, Thiền sư Nhất Định đã ghi đậm dấu ấn trong lịch sử Phật giáo nước nhà. Sự giống nhau của hai bậc xuất trần đại hiếu này là lìa chúng Tăng mà phụng dưỡng mẹ cha. Một mái am tranh, tục gọi là An Dưỡng Am nằm ven kinh thành Huế, sớm tối Thiền sư Nhất Định hai buổi đi về phụng dưỡng mẹ già. Một người tuy đã xuất gia như Tổ sư Liễu Quán, nhưng phải về nhà một năm để phụng dưỡng cha, đến khi cha mất rồi mới tiếp tục con đường xuất gia đã chọn. Xem ra, hai bậc long tượng của thiền môn, của Phật giáo Việt Nam, đã có một sự lựa chọn chu toàn giữa trách vụ của người xuất gia và phận sự của một người con hiếu. Trong hiện tình của đời sống hiện đại, qua khảo sát, chúng tôi đã chứng kiến nhiều người xuất gia báo hiếu theo phương cách này.

Trong vô vàn cách thức báo hiếu của người xuất gia, điều đọng lại trong chúng tôi là giai thoại nổi tiếng về hạnh hiếu của một thầy trụ trì nuôi mẹ. Đó là những dị bản khác nhau đề cập đến Hòa thượng Cua, một vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam miền Bắc thuở trước. Ngài là Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chơn Dung (1640-1711), đời vua Lê Hy Tông, quê ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang.

Chuyện kể rằng, có một thầy trú trì quản lý một tu viện to lớn. Do ngài xuất gia từ bé nên không rõ mẹ mình lưu lạc phương nào. Một lần nọ, trên bước vân du, ngài thấy một bà cụ già ăn xin trên phố, ngài đưa về phụng dưỡng, chăm lo, bằng cách cho làm công quả trong chùa. Một thời gian sau, với những câu chuyện và bằng chứng cụ thể, ngài nhận ra rằng, bà cụ đó thật sự là mẹ ruột mình. Mặc dù vậy, ngài chỉ âm thầm khuyến tấn, nhắc nhở bà cụ siêng năng trong tu tập và lo lắng cho sức khỏe của cụ hơn. Trong một chuyến Phật sự ở xa, hay tin bà cụ ở chùa đã quá vãng, ngài bảo chúng Tăng rằng, hãy đợi đến khi ngài trở về rồi hãy chôn cất cho bà cụ. Đến nơi, trước quan tài của cụ, sau khi đảnh lễ Tam bảo và thắp hương chú nguyện xong, ngài an nhiên cho chúng Tăng biết rằng, đây chính là mẹ của ngài.

Câu chuyện khép lại nhưng đã mở ra suy nghĩ cho nhiều người. Riêng cá nhân người viết, âu đó cũng là sự gợi mở cho một phương thức tối ưu dành cho người xuất gia khi đưa cha mẹ vào chùa vậy.

CHÚC PHÚ

----o0o---

Nguồn: Chuyển Pháp Luân

Trình bày: Linh Thoại

Cập nhật: 1-9-2008

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/08/2019(Xem: 10750)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10954)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11429)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16442)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3530)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 13098)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7659)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6821)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 83145)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11283)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567