Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo.

09/04/201312:57(Xem: 5184)
Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo.

Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo

Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996

Thích Tâm Quangdịch
Chùa Tam Bảo, California, Hoa Kỳ, 2000

hatngoc-bia
Mục lục


LỜI ÔNG CHỦ TỊCH HỘI TRUYỀN GIÁO ÐẠO PHẬT TẠI MÃ-LAI-Á

Tác phẩm này được phát hành lần thứ nhất vào năm 1983 để kỷ niệm lần thứ 21 Ngày Lễ Thành Lập Hội Truyền Giáo Ðạo Phật. Hội đã thu thập và phổ biến một số bài vở được viết bằng một lối văn bình dị và khúc triết nói lên nhiều khía cạnh khác nhau của Phật Giáo. Người đứng đầu đóng góp trong việc này là vị cố vấn tôn giáo, Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda Nayaka Maha Thera, J.S.M (Tăng Thống Mã Lai - Tân Gia Ba). Các bậc học giả Phật Giáo trên khắp thế giới cũng rất hoan hỉ đóng góp vào việc này.

Nhờ Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda, các vị phụ tá nhiệt thành của Ngài và sự quan tâm đến Phật Giáo ngày càng phát triển, Hội Truyền Giáo đã phổ biến việc phát hành khắp nước và trên toàn thể thế giới. Chúng tôi nhận được nhiều thư từ khắp nơi trên thế giới tán thưởng những cuốn sách nhỏ này và yêu cầu có nhiều thêm nữa. Chúng tôi nhận thấy những cuốn sách nhỏ này, trong nhiều trường hợp, được dùng như để khai mở tâm trí nhiều người muốn hiểu biết Phật Giáo. Chi phí ấn hành các cuốn sách này do những vị hảo tâm đóng góp theo truyền thống nhân từ và vì tha nhân của Phật Giáo. Những cuốn sách nhỏ này đã được dịch và mỗi cuốn đã được in lại với số lượng hơn một trăm ngàn cuốn đã được phát hành trên khắp thế giới.

Ðã đến lúc đưa các bài viết đó tới số độc giả rộng lớn hơn theo một chủ đề về lâu về dài để cuốn "Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo" có thể bảo tồn tốt hơn cho thế hệ sau này. Nhiều bài đã được sửa chữa và biên tập lại để tránh sự lập đi lập lại không cân cần thiết, cùng những lời từ ngữ và chính tả.

Cuốn sách này không dụng ý được đọc một mạch từ đầu đến cuối môt lúc. Mong rằng độc giả sẽ đọc mỗi bài bằng nhận thức, thong thả, cân nhắc những lý luận do mỗi tác giả trình bày trước khi sang bài khác. Những bài viết đó cũng không được sắp xếp theo hệ thống thứ tự cho nên độc giả có thể tùy thích chọn lựa bất cứ bài nào để đọc.

Những tác giả trong cuốn này là những nhà học giả 'vô ngại biện tài' nổi tiếng uyên bác về Phật Giáo được các viện hàn lâm trên khắp thế giới kính trọng. Tuy thế sự khiêm tốn hết sức của họ phản ảnh trong khả năng sáng tạo về những khía cạnh hệ trọng nhất của tôn giáo chúng ta bằng một bút pháp bình dị và thẳng thắn, không hề kiêu căng, hoặc có lối văn cổ điển hay hoa mỹ khoa trương. Những bài viết ngắn gọn in trong cuốn sách truyền tải giáo lý tới thượng của Ðức Phật phù hợp với trình độ của mọi người. Nhiều bài phô bày khả năng khôi hài duyên dáng và dí dỏm gắn liền vói phương pháp giải quyết thực tế trước những vấn đề phức tạp của nhân loại.

Qua những trích dẫn của tác giả, người đọc không có hiểu biết chuyên môn cũng có thể chia sẻ những tư tưởng của các nhà văn vĩ đại, cả Tây Phương lẫn Á Ðông - như Bertand Russell và Radhakrishman. Hy vọng quý độc giả cảm thấy phấn khởi tìm đọc các nguyên tác để chia sẻ trí tuệ vĩ đại của loài người.

Khi đọc những bài trong bài viết này, ta có thể nhận thấy một số điều nhắc đi nhắc lại, không những chỉ về tư tưởng mà còn về các lời trích trong nguyên bản kinh sách. Mong mỏi quý vị độc giả tốt bụng hiểu tại sao lại như vậy. Các tác giả không chuyên về một đề tài đặc biệt nào. Thực ra, đa số đều cách biệt nhau về thời gian và không gian. Chẳng hạn, một bài viết cách đây 35 năm, trong khi những bài khác mới đây được viết tại Mã Lai, Sri Lanka và Âu Châu.

Tuy nhiên ta có thể bắt đầu thấy tính duy nhất trong những sáng tác khác nhau - ấy là để làm sáng tỏ một số quan niệm sai lầm về Phật Giáo và cũng để nhấn mạnh đến tính chất duy nhất của những lời dạy của Ðức Phật. Thí dụ đọc đi đọc lại Kinh Kalama sẽ thấy giữa những đạo sư tôn giáo trên thế giới chỉ có mình Ðức Phật tuyên bố không ai phải chấp nhận giáo lý của Ngài mà trước hết lại không xét đến giá trị của các giáo lý ấy một cách khôn ngoan. Ðiều này thường được nhắc đến như luật lệ cơ bản của Phật Giáo.

Trong các sách thường nói đến Tứ Diệu Ðế, Bát Chánh Ðạo, và ba đặc tính (vô thường, khổ đau, vô ngã). Vì là ba đặc tính này chắc chắn là sự kết tinh rực rỡ nhất của toàn bộ cấu trúc tư tưởng triết học không tìm thấy trong bất cứ tôn giáo nào. Không có sự bàn luận nào của Phật Giáo về đường lối sống mà lại không liên quan đến những đặc tính ấy, cốt lõi của Giáo Lý Ðức Phật.

Người Phật Tử chẳng bao giờ mệt mỏi tuyên bố chỉ có họ là người là không có máu đổ trong việc quảng bá tôn giáo. Họ công nhận Ðức Phật đã cấm bạo lực bất cứ loại nào, và đã trích dẫn nhiều đoạn trong kinh Pháp Cú nhằm mục tiêu này. Và họ cũng nói nhiều đến Hoàng Ðế A Dục để chứng minh Pháp có thể thực hành như một đường lối sống của một quốc gia. Họ cũng nhắc đến Kinh Sigalovada để nhấn mạnh đến lời khuyên của Ðức Phật cho những ai chưa muốn từ bỏ thế giới trần tục.

Ðọc kỹ những bài này chắc chắn bất cứ ai cũng nhận thấy Phật Giáo có thể đứng vững vàng trước những nghiên cứu và thử thách khoa học, đồng thời Phật Giáo còn vượt qua khoa học cống hiến cho con người mục đích của cuộc đời và giúp cho con người hiểu được bản chất của cuộc sống.

Tưởng cũng cần thiết giải thích tại đây khi tiếng Pali hay tiếng Sanskrit được sử dụng, người viết đã ghi khác nhau (thí dụ: Gotama-Gautama; Sutta-Sutra; Dhamma-Dharma; Nibbana-Nirvana; Kamma-Karma; Bodhisatta-Bodhisatva; Tipika-Tripitaka, vân vân...) tuy nhiên dùng cách nào cũng không ảnh hưởng đến nghĩa được đề cập vì có sự chuyển ngữ bằng Anh Văn. Một số nhà văn thích dùng chữ hoa khi nói đến Ðức Phật, nhưng một số khác lại không. Lại nữa, một số dùng từ: "Ðức Phật", một số lại gọi Ngài giản dị: "Phật" .

Chúng tôi khiêm tốn dâng lên quý vị Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo trong niềm hy vọng dù quý vị không cùng quan điểm với chúng tôi, ít nhất quý vị cũng thưởng thức giáo lý của Ðức Phật và sự tu hành của Ðạo Phật, không hề thiên vị và kỳ thị.

Hội Truyền Giáo Ðạo Phật tri ân sâu xa tất cả những học giả và các nhà văn đã đóng góp những bài vở quý giá, cùng quý Ông Quah Swee Kheng, Eddy Yu, quý Bà Goh Kim Mong, Akison Cheok, Daphne Chua, James Moran, Linda Moran, Ken Lee, Amelia Low (Hong Kong) và Vijaya Samarawickrama, về sự đóng góp đầy vị tha trong việc sưu tập cho tác phẩm, và đặc biệt cảm ơn Chong Hong Choo trong việc trình bày bìa sách này.

Tan Teik Beng,
Chủ Tịch, Hội Truyền Bá Ðạo Phật
Kuala Lampur, Malaysia 1995

---o0o---



Source : BuddhaSasana Home Page

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/02/2012(Xem: 3989)
Đức Phật xuất thân từ một chiến binh đẳng cấp và ngài được sinh ra trong xã hội với các vị vua, hoàng tử và các quần thần. Mặc dù nguồn gốc và sự liên hệ của Ngài như thế, Ngài không bao giờ viện đến sự ảnh hưởng của quyền lực chính trị để giới thiệu trong sự giảng dạy của Ngài, và cũng không cho phép Giáo pháp của Ngài lạm dụng sự ảnh hưởng này để đạt được quyền lực chính trị.
15/02/2012(Xem: 4424)
Lý tưởng nhất, giáo dục là công cụ chủ yếu của việc tăng tiến con người, cần thiết cho việc thay đổi trẻ con mù chữ thành một người lớn trưởng thành và có trách nhiệm. Tuy nhiên, ngày nay ở khắp mọi nơi, cả trong các nước phát triển và các nước đang phát triển, chúng ta có thể thấy rằng hình thức giáo dục đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Sự giảng dạy lớp học đã trở thành thông lệ và được vỗ về rằng trẻ em thường cân nhắc việc học và thực tập trong sự kiên nhẫn chứ không phải là một cuộc mạo hiểm trong học tập.
14/02/2012(Xem: 7266)
Phật Giáo khuyên chúng ta phải luôn giữ sự chính xác và phải chú tâm đến từng cảm nhận của mình trong cuộc sống, trong mỗi tư duy, trong từng xúc cảm, và mỗi hành động của mình.
25/01/2012(Xem: 5716)
Phật tử phải có trách nhiệm bảo tồn và duy trì di sản Phật đã để lại. Phật tử phải sống với triết lý của vô thường và tìm ra những phương thức mới để khuyến khích đa số quần chúng.
25/01/2012(Xem: 5667)
Tôn giáo có mặt cùng thời với lịch sử con người. Có vật chất, tất phải có tinh thần. Có sống chết, có hiện tượng còn mất trong đời sống vật lý, tất phải có các mô thức tâm lý và tâm linh để chống lại sự mất còn bèo bọt đó. Từ đấy, tham vọng bất tử của con người là phải xây dựng một hệ thống thần linh để nuôi lớn hy vọng (có thật)thành đức tin (ước mơ)rằng, con người sẽ sống đời vĩnh hằng sau khi chết trong một thế giới thiêng liêng của thần linh... Sự chuyển mình từ sức mạnh thần quyền sang sức mạnh nhân quyền trong nhiều khía cạnh vi tế và phức tạp của đời sống đã làm cho đạo Phật mỗi ngày một hiển lộ trước cái nhìn tỉnh thức của nhân loại.
09/01/2012(Xem: 13680)
Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thúcũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau. Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó làsự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫnlà loài thú...
07/01/2012(Xem: 7537)
Trong sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội ngày nay, phật tử khắp nơi trên thế giới trở nên linh hoạt hơn trong việc bảo vệ lẫn truyền bá tư tưởng đạo Phật của họ. Với con số khoảng 500 triệu phật tử, đạo Phật được xem là tôn giáo lớn nhất thứ tư của hành tinh này. Đạo Phật có hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, trong đó gồm có môn Thiền quen thuộc cùng những bản kinh dịch khác nhau của người Tây Tạng...
05/01/2012(Xem: 4935)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bản và thiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và ngay thẳng để thông cảm giữa những quốc gia, chủng tộc, cộng đồng và tôn giáo, nhằm mục đích thiết lập một cuộc sống ổn định, hạnh phúc cho gia đình và xã hội. Việc diệt trừ tham ái thì có rất nhiều lợi ích, mang lại cuộc sống an lạc, hạnh phúc và giải thoát ngay trong cuộc đời này. Trên thực tế thì có rất nhiều lợi ích, ở đây người viết chỉ nêu những lợi ích chính về hòa bình, về môi trường, và đạo đức.
31/12/2011(Xem: 7118)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
28/12/2011(Xem: 3687)
Chữ Nghèo(Bần) và Nghèo Hèn(Bần Tiện, Bần Cùng) đã có từ ngàn xưa chứ không phải đời nay mới có. Cái nghèo đã gây ra biết bao thảm cảnh xã hội nhưng nó cũng là nguồn cảm hứng cho bao “ca khúc đoạn trường” như “LesMisérables” (Những Kẻ Khốn Cùng) của Victor Hugo mà Hồ Biểu Chánh đã mô phỏng theo với “Ngọn Cỏ Gió Đùa”… rồi “Gánh Hàng Hoa” của Nhất Linh đã làm cho chúng ta rơi lệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]