Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3 Vị thế của Đại thừa giữa sự khắt khe và các hành vi phạm giới

07/12/201015:55(Xem: 3752)
3 Vị thế của Đại thừa giữa sự khắt khe và các hành vi phạm giới

3

Vị thế của Đại thừa
giữa sự khắt khe và các hành vi phạm giới

Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ

Các giới luật nêu lên trong Phậtgiáo Nguyên thủy vẫn tiếp tục được các tông phái Đại thừa tôn trọng. Người xuấtgia phải tuân thủ giới luật ghi chép trong Luậttạng(Vinaya) và người Phật tử thếtục phải noi theo năm giới luật. Thế nhưng đối với người bồ-tát (boddhisattva) tức là một "sinh linhGiác ngộ" hành động trong tinh thần từ bi vì lợi ích của người khác [người bồ-tát là một khái niệm đặc thù của Phật giáo Đại thừa],nền đạo đức dành cho họ vượt lên trên khuôn khổ quy định cho người xuất gia nơichùa chiền [tức là các giới luật quy định bởi Phật giáoNguyên thủy], và nền đạo đức đó cũng được áp dụng cho người Phật tử tạigia. Kỷ cương đạo đức đó liên hệ mật thiết đến động cơ thúc đẩy từ bên tronghành động hơn là được áp đặt từ bên ngoài, vì thế nó mang tính cách phóngkhoáng hơn tuy rằng vẫn được quy định bởi một số quy tắc rõ rệt nào đó. Tính cáchphóng khoáng của giới luật trong một số trường hợp có thể giúp người bồ-tát hànhđộng hữu hiệu hơn vì lợi ích của chúng sinh. Vì thế các quy tắc của Luật Tạng(Vinaya) cũng trở nên rộng rãi hơn đối với họ.

Tánh không của tính dục

Nói chung thì các điều khoản liên quan đến tính dục quy địnhcho người xuất gia được trước tác và ghi chép trong kinh sách Đại thừa đều nhấtthiết dựa vào Luật Tạng[của Phật giáo Nguyên thủy] tiếp tục tôn trọng lý tưởngcao đẹp của lối sống xa rời thế tục. Thánh thiên (Shantideva) trong tập Nhập bồ đề hành luận(Bodhicaryavatara) bài bác quyết liệt thểdạng quyến rũ trên thân xác người phụ nữ, ông so sánh thân xác người phụ nữ vớimột cái bọc chất chứa những thứ nhơ nhớp và uế tạp (đối với một nữ tu sĩ thì thânxác của một người đàn ông cũng thế).

Đạo đức dành riêngcho người bồ-tát mang tính cách phóng khoáng và tự do tuy vẫn quy định bởi mộtsố quy tắc rõ rệt, sự tự do đó đôi khi cần đến trong một số trường hợp nào đóđể mang lại lợi ích cho chúng sinh.

Tại Trung quốc, trong tập kinh Lưới Trời Bhrama[tức là kinh Bhramajalasutra - Kinh Phạm võng]có ghi chép giới luật bắt buộc người bồ-tát phải đoạn dục, thế nhưng nếu vi phạmsẽ không bị khai trừ khỏi tăng đoàn mà chỉ cần thú nhận và hối cải thành thực. Kinh về sự Tự do Siêu việt[tức kinhVimalakirtidesasutra- Duy-ma-cật sở thuyết kinh] củaDuy-ma-cật kể chuyện một vị bồ-tát thế tục [không phảilà người xuất gia] nêu lên hai tác phong khác nhau đối với thân xác : tránhkhông bám víu vào thân xác ảo giác nhưng cũng có thể sử dụng nó như một phươngtiện giúp người khác nhìn thấy con đường Đạo Pháp, nếu cần có thể lợi dụng cả tínhdục trong mục đích đó. Một phân đoạn khác thuật lại một câu chuyện khá lý thú vềmột vị nữ thần thuyết giảng cho một vị đệ tử của Đức Phật là Xá-lợi-Phất(Shariputra) thế nào là Tánh không của giới tính (xem phần trích dẫn các đoản vănđọc thêm). Tánh không toàn diện giúp người bồ-tát vượt lên trên khuôn khổ giớitính của thân xác, với điều kiện người bồ-tát phải thực hiện được các kết quả tâmlinh đích thực, không phải chỉ là những khái niệm đơn thuần, và nhất là người bồ-tátphải loại bỏ được mọi bám víu vào ảo giác của hiện thực.

Truyền thuyết thuậtlại nhiều giai thoại về các nhà sư "điên rồ" vượt qua ranh giới củacác giới luật quy định cho họ

Phật giáo truyền sang Trung quốc vào thế kỷ thứ I thoáng chothấy một khúc quanh mới, nhất là trong Thiền học (Chan). Thiền nhắm vào việc tutập thực hiện bản chất không thực của dục vọng thay vì chỉ biết dựa vào các giớiluật cứng nhắc. Tuy nhiên đấy không có nghĩa là gạt bỏ Luật Tạng(Vinaya) mà chỉmuốn nêu lên sự vận hành của tâm thức quan trọng hơn sự gò bó của chữ nghĩa. Truyềnthuyết kể lại nhiều giai thoại về các nhà sư "điên rồ" vuợt qua ranhgiới của các giới luật quy định cho họ. Xin kể ra trường hợp của nhà sư Jigong(khoảng 1127-1209), tên ông có nghĩa là "con người đích thực" (zhenren), người đương thời xem ông là mộtnhà sư thích say sưa và dâm đãng. Một nhà sư khác người Triều tiên là Whonhyo(617-686) là một học giả uyên thâm, trước tác rất nhiều tập luận và bình giảikinh điển su-tra, thế nhưng ông không giữ được giới luật và lui tới các khu"ăn chơi", về sau ông hoàn tục cưới một công chúa và sinh được một đứacon trai. Cuối đời ông lang thang rày đây mai đó và truyền bá Phật giáo Tịnh độcủa Đức Phật A-Di-Đà. Tại Nhật bản, các điều khoản trong Luật TạngVinaya) quy địnhcho người xuất gia không mấy khi được hoàn toàn tôn trọng. Vào thế kỷ thứ IX đạisư Tối Trừng (Saichô, 767-822) người sáng lập ra tông phái Thiên Thai (Tendai)thay thế các điều khoản trong Luật Tạngquy định cho người xuất gia bằng các lời nguyện của người bồ-tát. Và từ đó cácnhà sư trong tông phái này không còn tôn trọng chặt chẽ các giới luật trong Luật Tạng nữa. Trong Thiền học Zen, một hình thức của Thiền học ChanTrung hoa, Đạo Nguyên (Dogen, thế kỷXIII) khuyên nên đơn giản hóa mười giới luật quy định cho người xuất gia nhưng tuyệtđối phải giữ giới luật đoạn dục như một kỷ cương nơi chùa chiền. Thế nhưng điềukhoản ấy không cấm được nhà sư Nhất Hưu (Ikkyu, 1394-1481) hoàn tục, ông là mộtvị thiền sư rất phóng khoáng, trước tác nhiều bài thơ hài hước mang tính cáchdâm đãng đả kích sự kiện đồng tính luyến ái trong các tu viện [dù chỉ là một chi tiết và cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều thếnhưng cũng xin nói rõ thêm là Nhất Hưu thuộc học phái Lâm Tế, không thuộc họcphái Tào Động của Đạo Nguyên - ghi chú thêm của người dịch]. Trong tôngphái Tịnh độ, Pháp Nhiên (Honen, 1133-1212) là một nhà sư chân chính nhưng đệ tửcủa ông là Thân Loan (Shinran, 173-1263) lại là người có gia đình và lập ra mộthọc phái mới là Tịnh độ chân tông (Jodoshin) và các nhà sư trong học phái này đềucó gia đình, [có thể xem đấy là các cư sĩ có gia đìnhđúng hơn là các nhà sư lập gia đình, ghi chú thêm của người dịch]. Sau cùngdưới triều đại Meiji (1868-1912), các nhà sư bắt buộc phải chọn cuộc sống cố định,do đó họ phải lập gia đình để có người nối dõi gìn giữ chùa chiền do dòng họ xâydựng, (Philippe Cornu).(

Cácđoản văn đọc thêm

"Người bồ-tát câu bằng miếng mồicủa sự thèm khát"

Khổ đau của dâm ô

Bạn tìm kiếm lạc thú dâm dục và thụ hưởng như một thứ hạnhphúc, bệnh dâm ô theo đó sẽ trở nên trầm trọng hơn. Bạn tìm kiếm những gì bênngoài [có nghĩa là thân xác]của người đàn bà,thế nhưng càng tìm kiếm khổ đau càng trở nên nặng nề hơn cho bạn. Tương tợ như mộtngười bị bệnh ghẻ ngứa : người này hơ tay gần ngọn lửa, hay gãi cho đỡ ngứa [thế nhưng] đấy chỉ là cách làm cho tay thêm nóng bỏng.Trong lúc đó [lúc gãi hay đưa tay gần lửa] cóthể tìm thấy một chút thích thú [nhẹ nhõm, đỡ ngứa],thế nhưng về lâu dài, cái đau ăn sâu thêm [vào da].Lạc thú nhỏ nhoi ấy [của sự dâm dục] cũng thế,cũng chỉ là nguyên nhân của một thứ bệnh [ghẻ ngứa ănsâu thêm vào da] : đấy không phải là hạnh phúc thật sự cũng không phải làcách xóa bỏ bệnh tật. Bất cứ ai trông thấy một người bị bệnh ghẻ ngứa chữa chạytheo phương cách đó đều thương xót họ. Một người biết từ bỏ lạc thú cũng sẽ phảnứng như thế đối với sự dâm ô : khi người này trông thấy một tên điên rồ đang bịsự thèm khát nung nấu sẽ thương hại hắn, vì càng chạy theo lạc thú hắn càng khổđau nhiều hơn. Căn cứ vào những lý do vừa nêu lên, phải hiểu rằng thân xác mangbản chất của khổ đau và cũng là nguồn gốc của khổ đau.

LongThụ (Nagarjuna), trích trong TẬP LUẬN ĐẠIPHẨM HẠNH CỦA TRÍ TUỆ, quyển III, dịch giả Étienne LAMOTTE, InstitutOrientaliste [Viện Đông phương học Louvin - nước Bỉ],1970.

Tâm thức không có giới tính

Xá-lợi-phất hỏi vị nữ thần như sau :

- Này nữ Thần tại sao không đổi giới tính đi, [vì] bà chỉ là một người nữ ?

- Từ mười hai năm nay ta ra sức tìm kiếm các thuộc tính củamột người đàn bà thế nhưng ta chưa nhìn thấy chúng một cách minh bạch. Vậy thìta phải thay đổi cái gì đây ? Thí dụ như một ảo thuật gia tạo ra một người đànbà ảo giác và hỏi người đàn bà này sao không thay đổi giới tính, thế thì sự đòihỏi ấy đúng hay sai ?

Xá-lợi-phất đáp lại :

- Quả là sai. Một sáng tạo ảo thuật không mang những thuộctính được xác định rõ rệt giúp nó có thể biến đổi thật sự.

Vị nữ thần liền cất lời như sau :

- Chính như thế, tất cả mọi hiện tượng đều không có thuộctính xác định rõ rệt. Vậy tại sao ngươi lại hỏi ta sao không thay đổi thân xác?

Tức khắc vị nữ thần sử dụng uy lực của mình chuyển đổi hìnhtướng của mình sang cho Xá-lợi-phất và đồng thời biến mình thành hình tướng củaXá-lợi-phất, sau đó cất lời hỏi Xá-lợi-phất đang mang hình tướng của mình nhưsau :

- Này sao không thay đổi giới tính đi ?

Xá-lợi-phất nhìn thấy hình dáng lố lăng của mình liền thétlên :

- Không biết sự thay đổi có thật sự xảy ra hay không, thếnhưng trước mắt ta đang hóa thành một người đàn bà đây này !

Vị nữ thần đáp lại :

- Này Xá-lợi-phất, nếu ngươi có khả năng thay đổi được giớitính, thì tất cả đàn bà cũng làm được việc ấy. Này Xá-lợi-phất nếu ngươi khôngphải là đàn bà nhưng chỉ mang hình tướng bên ngoài của người đàn bà, thì tất cảđàn bà cũng thế thôi [chỉ mang hình tướng bên ngoài củangười đàn ông]. Vì thế mà Đức Phật bảo rằng tất cả mọi hiện tượng đều khôngmang giới tính đực hay cái.

Sau đó vị nữ thần lại dùng uy lực của mình trả lại hình tướngcho Xá-lợi-phất và cất lời hỏi :

- Thế vẻ duyên dáng của người phụ nữ của ngươi đâu rồi ?

- Nào tôi có cái vẻ duyên dáng phụ nữ nào đâu, nó cũng chẳngcó ở bất cứ nơi nào khác ?

- Đối với tất cả mọi hiện tượng cũng tương tợ như thế : chúngchẳng có ở bất cứ nơi nào và cũng chẳng nơi nào có chúng. Đấy là những gì ĐứcPhật giảng dạy.

KINH VỀ SỰ TỰ DO SIÊU VIỆT[tức là kinh Vimalakirtidesasutra - Duy-ma-cật Sở thuyết Kinh] theo bảndịch tiếng Pháp của Patrick CARRÉ, Fayard, 2000.

Người Bồ-tát

Người bồ-tát rất nhạy cảm trước các đối tượng của giác quan.
Thế nhưng người bồ-tát cũng vô cùng thành thạo trong nghệ thuật tập trung tâm thức :
Nhờ thế mà người bồ-tát làm cho bọn Ma vương (Mara) phải lúng túng,
Ngăn chận không cho chúng tác oai tác quái.
Thật tuyệt vời khi
Làm cho hoa sen mọc lên trong lửa đỏ.
Thế nhưng lại còn tuyệt vời hơn nữa
Khi tập trung được tâm thức trước sự bủa vây của thèm khát.
Đối với một số người, vị bồ-tát hiển hiện như một cô gái điếm,
Chỉ vì vị ấy muốn quyến rũ những ai bị thu hút bởi dâm dục.
Người bồ-tát lôi cuốn những người ấy bằng miếng mồi của sự thèm khát,
Trước khi đưa họ trở về với trí tuệ của chư Phật.

Tríchdẫn như trên đây, id.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 11477)
Trước hết tôi xin phép được nói quan niệm của tôi về vấn đề học Phật. Trong giới Phật tử, ai cũng biết rằng đạo Phật không phải là từ trên trời rơi xuống mà chính lại là được phát hiện trong lòng sự sống của nhân loại.
09/04/2013(Xem: 14491)
Nguồn suối phát sinh của đạo Phật là một sự giác ngộ về sự thật của cuộc đời (tứ diệu đế), vì vậy đạo Phật có tính cách vượt lên trên cuộc đời. Sự vượt lên ở đây là một kết quả tất nhiên của giác ngộ, vì mọi giác ngộ đều đưa tới một sự thức tỉnh và giải phóng.
09/04/2013(Xem: 5462)
Nhìn sâu vào thảm trạng của nhân loại, nếu ai là người còn có chút lương tâm, tất nhiên không khỏi bùi ngùi, cảm động. Đã có sự cảm động, hẳn là phải được phát hiện ra bằng công việc làm " cho vui, cứu khổ ", tùy theo hoàn cảnh và năng lực của mình.
09/04/2013(Xem: 4669)
Loài người đang tiến dần tới ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Một câu hỏi đang làm mọi người ưu tư lo lắng: “Kỷ nguyên mới này sẽ là gì đây đối với nhân loại?” . Những năm vừa qua, chúng ta đã rút ra được những kinh nghiệm gì, những bài học gì có thể làm cho chúng ta yên tâm hơn, tin tưởng hơn và lợi ích hơn?
09/04/2013(Xem: 6355)
Mâu thuẫn giữa mình (tự ngã) và con người, mâu thuẫn giữa con người và xã hội, mâu thuẫn giữa con người và thiên nhiên là ba mâu thuẫn cơ bản lớn tồn tại phổ biến của xã hội loài người. Từ xưa đến nay, nhân loại đã sáng tạo nền văn minh quang minh xán lạn, . . .
09/04/2013(Xem: 5141)
Đề án Nhà Tù Giải thoát(Liberation Prison Project) là một tổ chức hoạt động phục vụ xã hội thuộc Phật Giáo Tây Tạng được liên kết với Hội Bảo vệ Truyền thống Phật Giáo Đại thừa (FPMT). Tích cực hoạt động tại Hoa Kỳ, Úc châu, Tây Ban Nha và Mễ Tây Cơ, Đề án Nhà Tù Giải thoát đưa ra những hướng dẫn và giáo lý tâm linh, cung cấp sách báo, tài liệu cho các tù nhân quan tâm tới việc tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 9144)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (2005) Phật lịch 2549 tại Chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, tôi và tăng chúng độ 30 vị, rất an lạc trong mỗi từng sát na sanh diệt của cuộc đời ở trong 90 ngày ấy.
09/04/2013(Xem: 5698)
Bạn lo ngại khi con cháu không còn đọc hay nói được tiếng Việt sành sõi nữa, và thế là một mảng văn hóa sẽ biến mất trong tâm hồn thơ trẻ của các em. Và bạn băn khoăn không biết làm sao giúp các em gìn giữ niềm tin Phật Giáo và duy trì lối sống chánh pháp trong một xã hội biến động cực kỳ nhanh như Hoa Kỳ.
09/04/2013(Xem: 4535)
Trong thực tế hiện nay, con người càng tiếp cận với làn sóng phát triển tột đỉnh của nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện đại, sự đòi hỏi về trí thức và nhu cầu sống của họ ngày càng trở nên gia tăng.
09/04/2013(Xem: 5261)
Theo Hòa thượng Thánh Nghiêm, tác giả cuốn Phật giáo chánh tín thì từ cư sĩ xuất hiện lần đầu tiên trong kinh Duy Ma Cật. Trong kinh, ngài Duy Ma Cật được gọi bằng ba danh hiệu: một là Trưởng giả trong phẩm "Phương tiện", hai là Thượng nhân hay Đại sĩ trong phẩm "Văn Thù thăm bệnh", ba là Cư sĩ trong phẩm "Bồ tát".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]