Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Và Tự Do Tư Tưởng

01/01/201108:31(Xem: 9213)
Phật Giáo Và Tự Do Tư Tưởng

PHẬT GIÁO và TỰ DO TƯ TƯỞNG


1. ÐỨC PHẬT

Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên, nhà cải cách thành công nhất, vị đạo sư từ bi nhất và độ lượng nhất và là một nhà quản trị hữu hiệu nhất. Ðặc trưng đáng chú ý nhất của Ðức Phật là sự thanh tịnh và thánh thiện hoàn toàn của Ngài. Ngài quá thanh tịnh và quá thánh thiện đến mức độ mà Ngài phải được gọi là bậc thánh thiện nhất trong các bậc Thánh. Ngài là mẫu người hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất về nhiều mặt, bất cứ ai tiếp xúc với ngài cũng đều công nhận sự vĩ đại không thể phủ nhận được và được ảnh hưởng sâu sắc bởi cá tính có sức hấp dẫn của Ngài.

Ý chí, trí tuệ, lòng từ bi, sự phục vụ, sự xuất thế, cuộc sống mẫu mực của Ngài, và sự thành công của Ngài - tất cả những yếu tố này góp phần hoan nghênh Ðức Phật như một bậc đạo sư vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ðức Phật là người đầu tiên trên thế gian này lãnh một sứ mạng tích cực trong việc hoằng hóa độ sanh. Ngài du hành từ nơi này đến nơi khác trong 45 năm, truyền thuyết pháp cho cả dân chúng lẫn tầng lớp trí thức, vua chúa, quí tộc v.v... Mãi cho đến lúc sắp nhập Niết-bàn, Ngài đã phục vụ cho quần sanh bằng những tấm gương lẫn giới hạnh của Ngài. Những vị đệ tử xuất sắc của Ngài cũng hành động giống như những gì bậc đạo sư của họ đã làm. Thậm chí không một đồng xu dính túi - họ đã du hành khắp đó đây nhằm truyền bá giáo pháp của bậc đạo sư cho quần sanh mà không cầu mong được đền đáp lại bất kỳ điều gì.

“Hãy nỗ lực tinh tấn trên con đường hành đạo” là những lời di huấn cuối cùng của Ðức Thích Tôn không có một sự giải thoát hay thanh tịnh hóa nào có thể đạt được mà không có một sự nỗ lực của từng cá nhân.

Những lời cầu nguyện và van xin để được ban phước không được chấp nhận trong đạo Phật và thay vào đó là hãy nỗ lực tu tập thiền định, đưa đền sự tự kiểm soát thân tâm, sự thanh tịnh và chứng đắc giác ngộ. Mục đích của sứ mệnh của Ðức Phật là nhằm giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau bằng cách đoạn tận nguyên nhân của khổ và thuyết giảng chánh đạo đưa đến sự chấm dứt sanh tử nếu như những ai nỗ lực tu tập. Tuy nhiên nhân đây, Ðức Phật cũng thuyết những bài pháp liên quan đến sự tiến bộ về đời sống vật chất. Sự tiến bộ cả về vật chất lẫn tinh thần thì rất cần thiết cho sự phát triển, thịnh vượng của một quốc gia. Vật chất không nên tách khỏi tinh thần, hoặc là sự tiến bộ về mặt vật chất cũng không nên đạt được bằng cách hy sinh sự tiến bộ về mặt tâm linh như đã được chứng kiến tại một số quốc gia đang trên đà phát triển cao về mặt vật chất trên thế giới hiện nay.
Pandit Nehru, cựu thủ tướng Ấn Ðộ, thường liên hệ Ðức Phật như là một người “con” vĩ đại nhất của đất nước Ấn Ðộ. Tiến sĩ S.Radhakrishnan một nhà lãnh đạo của Ấn Ðộ và cũng là một triết gia, khi "dâng hiến" những lời ca ngợi tán dương Ðức Phật, đã phát biểu như sau:

“Trong Ðức Phật Cồ Ðàm, chúng ta có một người thông minh khác thường từ phương Ðông độc nhất vô nhị, đối với sự ảnh hưởng trong tư tưởng và đời sống của nhân loại, và rất hiếm khi nhìn thấy những vị sáng lập các tôn giáo truyền thống có một sự thông thái và sâu sắc như Ngài. Ngài thuộc về vĩ nhân trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Ngài là người thừa hưởng chúng của tất cả những con người học thức. Rõ ràng Ðức Phật là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại”.

Trong tác phẩm “Ba nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử”, sử gia H.G.Wells viết như sau: “Trong Ðức Phật chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng một con người rất giản dị, tận tâm, đơn độc tranh đấu cho sự giác ngộ chân lý - một tính cách, con người rất sinh động, chứ không phải là một huyền bí. Ngài giảng dạy những chân lý rất thiết thực trong cuộc sống. Nhiều ý tưởng hay nhất trong xã hội của chúng ta hiện nay cũng rất tương hợp, gần gũi với lời dạy của ngài. Ngài dạy, tất cả khổ đau và những sự bất mãn là do tính ích kỷ sinh ra. Trước khi một con người có thể trở thành thanh tịnh vắng lặng, anh ta không thể sống vì nhu cầu của chính bản thân. Thì sau đó, anh ta mới có thể trở thành một bậc vĩ nhân. Ðức Phật cũng vậy, Ngài đã từ bỏ tất cả để sống một cuộc đời giản dị. Vì thế, xét về nhiều phương diện, Ðức Phật rất là gần gũi với chúng ta và những nhu cầu của chúng ta.”

“Ðức Phật thực sự là một con người nhưng con người này là thánh nhân. Là một vị Phật, ngài không phải tái sinh nhưng bằng hình thức thị hiện nơi cõi ta bà này để dẫn dắt chúng sanh tu hành giải thoát khỏi biển mê. Ngài thấy có những khả năng tiềm ẩn bên trong và năng lực sáng tạo của mỗi chúng sanh mà không cần đòi hỏi chính anh ta phải có một năng lực siêu nhiên nào đó. Ngài cũng khuyên chư đệ tử Ngài hãy thi đua với Ngài để chứng đạt Phật quả, bởi vì hạt giống Phật có sẵn trong mọi người (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).”

Ðức Phật được chư đệ tử Ngài tôn kính, đảnh lễ như là một bậc thầy mô phạm tối thượng, nhưng Ngài không bao giờ được tôn sùng như là một vị Thượng đế, thần thánh để cầu mong được những ân huệ (sự ban ân) về mặt vật chất cũng như tinh thần Ðức Phật để lại bất cứ gia sản nào cho những đệ tử của Ngài sau này thừa hưởng. Tuy nhiên, người ta nhận xét rằng không có một bậc thầy mô phạm nào mà quá vô thần giống như Ðức Phật nhưng rất giống một bậc cứu thế.

Chính Bertrand Russell gọi Ðức Phật là “một người vô thần vĩ đại nhất trong tất cả các thời đại”.

Nhưng chủ nghĩa vô thần ở đây không nên hiểu sai, hay đồng nghĩa với tinh thần phi tôn giáo. Ðể hình thành sự an lạc, hạnh phúc chân thật cho nhân loại, một bậc đạo sư thanh tịnh, giác ngộ thì tuyệt đối cần thiết trên thế giới suy đồi về mặt đạo đức này. Ðiều quan trọng không có niềm tin tín điều mù quáng hay lễ nghi tôn giáo có thể mang lại lợi lạc cho đại đa số, nhưng điều cần thiết là một cuộc sống thanh tịnh và hữu ích đầy tình thương, lý trí và sự công bằng dựa vào những nguyên tắc cao thượng của những bậc đạo sư khả kính.

Theo giáo sư Foad “vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch tại Ấn Ðộ và Trung Hoa đã xuất hiện 3 vị Ðạo sư vĩ đại. Các Ngài cố gắng giúp cho nhân loại hiểu được những gì quan trọng cần phải làm những gì chân chánh nhằm mang lại lợi ích cho tự thân và tha nhân. Ðức Cồ Ðàm là một trong những bậc Ðạo sư quan trọng nhất trong số các ngài”.

Ðức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của giới luật như là phương tiện để đạt cứu cánh, giải thoát. Ngài khuyên bảo rằng chúng ta phải suy nghĩ chân chánh dựa trên tinh thần vị tha, lòng từ, vô hại; chánh ngữ mới có thể khiến cho chúng ta kiểm soát được những lời nói ác ý của chúng ta; chánh nghiệp bằng cách tránh sát nhân hoặc các loại động vật, không trộm cắp bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, không tà hạnh, và chánh mạng phải thoát khỏi sự bóc lột, biển thư hay những phủ cách phi pháp khác nhằm làm giàu cho bản thân. Tất cả, những nguyên tắc trên hình thành nên cơ sở nền tảng luân lý, đạo đức.

Ðức Phật gởi những bức thông điệp cao quý của Ngài về sự phục vụ vị tha, về nguyên tắc đạo đức, và lòng từ vô biên không chỉ riêng cho hàng quốc vương hoàng tử, quý tộc, trưởng giả giàu sang mà còn cho tầng lớp nghèo, người hạ tiện thấp hèn cùng đinh. Ngài đã tạo ra những cơ hội bình đẳng cho tất cả chúng sanh, và đề cao địa vị của con người. Ngài tuyên bố rằng con đường đưa đến sự tụ tập phát triển tâm linh được mở rộng ra cho tất cả trong bất cứ điều kiện nào của cuộc sống cao thượng hay thấp hèn, thánh hay phàm, trong sạch hay tội lỗi, cho bất kỳ ai muốn hồi đầu, quy về với chánh pháp và tìm cầu sự hoàn hảo trong cuộc sống.
Mỗi ngày Ðức Phật thuyết pháp cho cả hai giới xuất gia lẫn tại gia. Tuy nhiên, những gì Ngài dạy là một phần rất nhỏ so với những gì Ngài biết. Vào một dịp nọ, Ngài cầm một nắm lá trên tay và nói rằng những gì Ngài nói được so sánh với nắm lá trên tay của Ngài, và những gì Ngài không nói được so sánh như toàn bộ lượng lá trong một ngôi rừng. Ngài chỉ nói những gì được xem là cần thiết cho sự giải thoát của chúng ta.

Trong cuộc hành trình hằng ngày của Ngài, Ngài tiếp xúc với những cá nhân cần sự giúp đỡ của Ngài; Ngài hướng dẫn và khuyên bảo hàng đệ tử xuất gia của Ngài và Ngài thậm chí còn thuyết pháp cho hàng chư thiên (devas). Ngài nói pháp cho dân chúng và các giai tầng khác nhau trong xã hội, bao gồm vua chúa, quí tộc, trí thức v.v... Lời dạy của Ngài thực sự chứa đựng “bầu sữa tươi mát” cho “những em bé” và “miếng thịt” ngon cho người lớn. Trước khi Ngài thuyết pháp, Ðức Phật đảm bảo chắc chắn rằng sự đói khát cần được cung cấp nguồn sống, như thức ăn cho cơ thể cũng rất cần thiết cho nguồn thức ăn tinh thần. Ngài chăm sóc chu đáo người bệnh bằng đôi bàn tay của chính mình và Ngài tuyên bố rằng: “Những ai chăm sóc chu đáo bệnh nhân cũng là chăm sóc chu đáo chính Ngài”.

Ðức Phật xóa bỏ các giai tầng trong xã hội bằng cách mở ra cánh cửa Tăng đoàn cho tất cả các cá nhân khác nhau, không phân biệt tầng lớp giai cấp. Sự phân biệt duy nhất là việc phân chia cấp bậc trong việc lãnh thọ giới pháp như sadi (Samanera - 10 giới) Tỳ-kheo (250 giới) và sự chứng đắc dần dần của 4 quả vị thánh. Thậm chí sự thành lập Giáo hội Tăng đoàn cũng mang tính cách rất là dân chủ bình đẳng. Liên hệ đến vấn đề này, Lord Zetland phát biểu: “Và có thể xảy ra một điều rất ngạc nhiên đối với mọi người khi biết rằng trong sự hình thành giáo hội Tăng đoàn của Ðức Phật tại Ấn Ðộ cách đây hơn 2500 năm được tìm thấy những nguyên lý cơ bản của việc thực thi hệ thống quốc hội của xã hội chúng ta ngày nay”.

Tương tự như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Ðức Thế Tôn đã thành lập địa vị tôn giáo cho nữ giới - sự ra đời giáo hội Tỳ-kheo ni - mở ra một khuynh hướng mới cho tất cả nữ giới bị khinh miệt, đày đọa trong xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ. Do đó, Ngài cũng tạo ra sự bình đẳng cho địa vị nữ giới đối với sự tu tập đời sống tâm linh của họ. Ðức Phật cũng là người đầu tiên được biết đến trong lịch sử bằng mọi nỗ lực nhằm xóa bỏ giai cấp nô lệ bằng cách đưa ra khái niệm về tình huynh đệ và chân giá trị của con người. Ðức Phật phản bác sự giết chóc các loài động vật không may mắn để cúng tế thần linh, và mang lại tình thương cho chúng. Một Phật tử chân chánh nên thực hành lòng từ hướng đến tất cả chúng sanh, không phân biệt bất cứ chủng loại nào.

Chính lòng từ hình thành nên nền tảng cho tình huynh đệ của những quốc gia hoặc là một tình bạn hữu giữa các tôn giáo nhằm xóa bỏ tất cả các hàng rào ngăn cách chia rẽ giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Nếu những người tôn sùng nhiều niềm tin khác nhau không thể hoặc sẽ không có cùng chung một sân ga như tình huynh đệ, anh chị em v.v... chỉ vì họ thuộc những tôn giáo khác nhau thì chắc chắn rằng những vị đạo sư cao quý sẽ thất bại trong sứ mệnh của các Ngài vì sự nghiệp hoằng hóa độ sanh.

Ðức Phật là một người hoàn toàn khoan dung độ lượng. Sự khoan dung độ lượng là kẻ thù vĩ đại nhất của tôn giáo. Do đó, Ðức Phật khuyên các đệ tử Ngài không nên giận dữ, bất mãn và thậm chí không vui vẻ khi những người khác nói xấu Ngài, chê bai phỉ báng những lời dạy của Ngài và các đệ tử Ngài. Ðức Phật dạy: “Nếu các vị tỏ ra không vui vẻ, hài lòng, thì các vị sẽ không chỉ thiêu đốt tất cả các công đức mình đã tụ tập khi nay, mà các vị còn không thể phán đoán suy xét liệu những điều họ nói là đúng hay sai.” Tiến sĩ S. Radhakrishnan đã phát biểu: “Một chúng sanh đã hoàn toàn giác ngộ, thậm chí sau 2500 năm của sự giác ngộ.”

Ðức Phật không thuyết giáo điều buộc người ta phải tin một cách mù quáng, không có tín ngưỡng hay niềm tin mà buộc người ta phải chấp nhận mà không có lý trí suy xét, không có lễ nghi hình thức, mê tín dị đoan được quan sát để chính thức gia nhập đạo, và không có những nghi thức tế lễ thần linh và sự tự hành để chuộc lấy tội lỗi cho sự thanh tịnh hóa thân và tâm. Ðức Phật trình bày những chân lý hết sức đơn giản cho đại đa số và một nền triết lý hết sức thậm thâm vị diệu cho tầng lớp trí thức.

Ngài khuyên những người tìm cầu chân lý không nên chấp nhận bất cứ điều gì vì quyền uy của kẻ khác, nhưng hãy chấp nhận chúng khi đã xem xét kỹ lưỡng, và nên phán xét liệu điều đó đúng hay sai.

Trong suốt cuộc đời thuyết pháp độ sanh của Ngài cách đây hơn 2500 năm, không có một giọt máu nào rơi xuống đất trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp, và không có một sự cảm hóa nào được thực thi bằng những biện pháp ép buộc và bạo lực. Nhưng Ðức Phật là người truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất đã từng hiện hữu trên cõi đời này.

Những lời dạy thậm thâm vi diệu của Ngài đã lan tỏa và đang tiếp tục trên con đường lan tỏa khắp hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới bởi vì tính phổ quát, khoan dung độ lượng, dù là thời đại khoa học kỹ thuật cao như hiện nay. Giáo pháp của Ðức Phật đã đóng góp to lớn cho sự phát triển, thăng hóa về mặt văn hóa của nhiều quốc gia Á châu. Trên thực tế đã chứng minh rằng tất cả các quốc gia mà Phật giáo làm quốc giáo đã trưởng thành trong các nôi của Phật giáo.

Nhiều quốc gia đã ra đời và biến đi, nhiều triều đại được hình thành trên cơ sở quyền năng và thế lực đã thịnh và suy, nhưng triều đại Phật pháp do Ðức Phật sáng lập dựa trên tình thương, lòng từ và lý trí vẫn đang thịnh hành và sẽ tiếp tục thịnh hành.


Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2010(Xem: 7669)
Từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế, đạo Phật được truyền bá một cách sâu rộng khắp trên lưu vực sông Hằng cũng như qua các thị trấn và những quốc gia thời bấy giờ của xã hội Ấn Độ, quê hương của Phật. Phật pháp được tuyên thuyết bởi Đức Phật, cũng như các hàng Thánh chúng đến từng nhà, từng người, từng cộng đồng trong xã hội. Phật pháp đã tạo sự bình an cho con người, đã xây dựng một nếp sống đạo đức, lễ nghi hướng thượng cho tất cả.
15/10/2010(Xem: 7980)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
15/10/2010(Xem: 8519)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
10/10/2010(Xem: 6764)
Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
10/10/2010(Xem: 4121)
Đức Phật thuộc dòng dõi vua chúa nên đương nhiên có liên hệ với các bậc quan quân và đại thần. Mặc dù mối liên hệ và giao tiếp đó, Ngài không bao giờ dùng đến ảnh hưởng quyền uy chính trị để quảng bá giáo lý của Ngài. Ngài cũng không cho phép giáo lý của Ngài được lạm dụng để đạt uy quyền chính trị…
30/09/2010(Xem: 4149)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
30/09/2010(Xem: 3048)
Từ khi nhân loại xuất hiện trên trái đất này cùng với những sinh vât khác, chúng ta cùng mọi sinh vật đã chỉ sống và sử dụng mọi thứ trên trái đất để tồn tại. Người ta có thể nghĩ rằng trái đất là một vật thể không có sự sống. Người ta không cần biết điều gì cuối cùng sẽ xãy ra với những gì chúng ta hành động để sinh tồn. Cho đến bây giờ, những nhà khoa học đã cho mọi người biết rằng mỗi hành đông của con người ảnh hưởng sâu đậm đến trái đất. Thêm nữa, chúng ta đang sống trên trái đất, một hành tinh sống, những gì chúng ta hành động cho đời sống của chúng ta đã làm nên sự hâm nóng địa cầu, hiệu ứng nhà kính, và đấy là một đe dọa nghiêm trọng đến môi trường, và nó cũng đặt sự sống của chúng ta trong một tình thế nguy hiểm.
30/09/2010(Xem: 4570)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
29/09/2010(Xem: 7521)
Đức Phật đã hằng dạy cho chúng ta rằng: "Vạn pháp giai không; nhưng nhân quả bất không". Nếu nhân tạo ra tốt thì chắc chắn quả kia không thể xấu được.
28/09/2010(Xem: 3112)
Tín ngưỡng, triết lý, và thực hành của Á châu đang ảnh hưởng mọi thứ từ cung cách mà chúng ta đối phó với bệnh tật đến việc chúng ta chế tạo xe hơi như thế nào. Bây giờ, một giáo sư Thương Mãi Đại Học Harvard đang hướng về phương Đông như một phương thức cho việc phát triển những lãnh đạo thương nghiệp mạnh mẽ. Bill George, một chuyên gia về bồi dưỡng phát triển lĩnh đạo, mới đây phối hợp với một vị thầy thiền quán của Phật Giáo Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche để tổ chức một hội nghị về “lĩnh đạo tỉnh thức,” một tiến trình thế tục để khám phá những vai trò của sự tự tỉnh giác và tự từ bi trong sự phát triển những lĩnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567