Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo & phương Tây mối quan hệ chưa rõ rệt

02/03/201222:15(Xem: 3660)
Phật giáo & phương Tây mối quan hệ chưa rõ rệt
MỤC LỤC
TẠP CHÍ ĐẠO PHẬT NGÀY NAY SỐ 14
THÁNG 02 NĂM 2012

Phật giáo & phương Tây
mối quan hệ chưa rõ rệt

Hoàng Phong lược dịch

files.php?file=013___PGQT___Phat_Giao_Va_Phuong_Tay__R__3_193071433Phật giáo đã tìm thấy ở các nước phương Tây một không gian mới mẻ để phát triển, tuy nhiên, quá trình phát triển một nền Phật giáo phương Tây không phải là không có chướng ngại và ngộ nhận.

Vào cuối thế kỷ XVII, nhà truyềngiáo Alexandre de Rhôdes đã viết như sau trong quyển sách của ông mang tên “Cathechimus in Octo Dies Divisus” (Sách giảng dạy giáo lý phân chiara trong tám ngày): “Khi người ta hạ một gốc cây đốn mạt và vô bổ, những cành còn dính trên thân cây rồi cũng phải rơi xuống; Tương tự như thế, khi tên độc ác và lường gạt Thích Ca (tức là Phật) bị đánh bại, những sóng chế tín ngưỡng tôn thờ ảnh tượng xuất phát từ đó cũng sẽ bị hủy diệt”.

Vào năm 1949, một tác giả khác là ông Alfred Foucher viết một quyển sách về cuộc đời của Phật và quyển sách này vẫn còn giữ một phần giá trị nào đó; Trong quyển sách ấy tác giả đã viết thêm vào như sau: “Trừ một vài người đặc biệt hiếu kỳ về những thử nghiệm có tính cách du nhập ngoại lai, Phật giáo chỉ đón nhận được rất ít tín đồ trên xứ sở chúng ta”.

Dần dà Phật giáo được biết đến một cách cặn kẽ hơn và đã làm điêu đứng căn bản của cả nền tư tưởng phương Tây, từ đó sinh ra nhiều hiềm khích. Không những Phật giáo trước đây đã từng bị đối xử như một tín ngưỡng tôn thờ ảnh tượng, một thứ tôn giáo giả mạo, hơn thế nữa, Phật giáo còn bị đánh giá như nền tư tưởng nguy hiểm, chủ trương sự hủy diệt thật khó hiểu.

Trong khi Phật giáo bị xem như chủ nghĩahư vô, thì cùng lúc Tây phương lại phải đương đầu với sự băng hoại của cả hệ thống và giá trị đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ. Quả thật rất ít người có thể tin được rằng Phật giáo sau này sẽ hội nhập vào Tây phương. Trên thực tế, ngày nay rất nhiều những khái niệm Phật giáo đã đithẳng vào ngôn ngữ hàng ngày của người dân, chẳng hạn như những chữ, sựkhẩn thiết về lòng từ bi (I'exigence de compassion), hiện tượng vô thường (I'impermanence) (chữ này là đặc thù của Phật giáo), nghiệp (karma) và khái niệm về sự tương liên của tất cả mọi hiện tượng (la notion d'interdé-pendance).

Tính cách toàn cầu

Trênthực tế, từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là trên lãnh thổ nước Pháp, Phật giáo đã bắt đầu được kính nể. Tôn giáo này được nhìn nhận như một tôn giáo không thờ trời, báo hiệu sự phát sinh của cả một kế hoạch có mục đích thế tục hóa, tách nhà nước ra khỏi nhà thờ, giúp chống lại sự đô hộcủa Thiên Chúa giáo, ông Jules Ferry đã từng kinh ngạc và thán phục tính cách “thế tục” của Phật giáo và đã quyết định đưa Phật giáo vào cácgiờ giảng dạy về luân lý trong các trường học của nước Cộng hòa Pháp.

Nền luân lý nghiêm khắc của Phật giáo, không có sự hiện diện của trời như “một kẻ ban thưởng và báo thù” được ông Jules Ferry xem như một bằng chứng cụ thể cho thấy rằng không cần cósự hiện hữu của Trời, con người cũng có thể trở thành lương thiện được.Đạo đức thế tục là gì? Ông Jules Ferry đã trả lời như sau: “Nền đạo đứcthế tục chính là thế này đây, chính nó đã được chứng minh bằng sự kiện.Hai trăm triệu người đã noi theo nền đạo đức đó từ hai mươi ba thế kỷ nay”.

Trong lúc nước Đức còn câu nệ vào kinh sách Phệ-đà như là một tài liệu chung cho Ấn và Đức quốc, thì nền Ấn họccủa Pháp đã tìm thấy trong thông điệp của Phật niềm khát vọng nhắm vào sự an vui của cả nhân loại một niềm khát vọng rất gần gũi với sứ mạng của nước Pháp. Các nhà nghệ sĩ như Van Gogh và Gauguin đã tìm thấy nơi Đức Thích Ca Mâu Ni một bằng chứng về sự hoàn thiện tâm linh, chứng tỏ tính cách toàn cầu của một thể dạng thiêng liêng mà họ từng khát vọng.

Các vị thầy đầu tiên

Khởi sự từ những năm 1950, có các vị thầy thuộc thiền phái Zen, tiếp theo đó vào những năm 1960 là các vị thầy Tây Tạng, họ tiếp tục đến với phương Tây và đã truyền lại một cách thật tài tình những gì họ được thụ hưởng từ trước. Sự chung đụng ấy đã đánh dấu sự cáo chung của những huyễn tưởng mang tính cách thuần túy vănchương về Phật giáo, những huyễn tưởng đó đã chấm dứt, chúng không còn là những ước mơ mà đã trở thành phương pháp tu tập có thể thực hiện được, giúp mọi người noi theo.

Tình trạng Phật giáo ngày nay

Hiệphội Phật giáo Pháp và Bộ Nội vụ ước tính có khoảng 600.000 Phật tử trênđất Pháp: Một nửa là những người Á châu, nửa còn lại là những người Pháp chính thống. Đồng thời, người ta cũng ước tính có năm triệu người Pháp xem Phật giáo như một tôn giáo mà họ cảm thấy gần gũi nhất. Vì những lý do lịch sử của nước Pháp, Phật giáo đã thiết lập một cách vững chắc nhất trên phần đất này với hàng trăm trung tâm thiền định. Ngôi chùa Tây Tạng lớn nhất Âu châu tọa lạc ở vùng Bourgogne (Pháp quốc), và đạo tràng chính của thiền phái Zen cũng tọa lạc ở vùng Touraine (Pháp quốc).

Nhưng thật ra thì bộ mặt bên ngoài này đã che giấu những đe dọa trầm trọng. Thời kỳ tiên phong đã chấm dứt. Phật giáo đã được biết đến một cách tường tận, nhưng sự thành công của tôn giáo đó đã mở ra những hiểm nguy mới mà chính các vị thầy cũng đã đưa ra những lời cảnh cáo. Ba vấn đề sau đây cần được đặc biệt quan tâm.

Phật giáo bị thu gọn như một bát thuốc sắc

Phật giáo ngày càng được giảng dạy như một phương pháp trị liệu cầu kỳ và đã được khử trùng cẩn thận. Phật giáotrở thành một bài diễn văn đầy thiện cảm nhưng vô trách nhiệm. Loại Phật giáo theo kiểu “bát thuốc sắc” như thế nhắm vào việc xoa dịu những kẻ đã gởi mình vào đó. Nếu ý nghĩa tâm linh của Phật giáo chưa bị gạt bỏmột cách đơn giản, thì vị trí của nó cũng thụt hẳn vào bối cảnh phía sau. Một số các vị giảng sư đã trình bày Phật giáo như một đường hướng chỉ đạo cho sự sống, một phương thức hữu hiệu giúp ích trong công việc làm ăn, giúp đời sống tình dục nẩy nở toàn vẹn hơn, giúp tài khoản ngân hàng đầy ắp hơn.

Trong khi ấy, lời giảng huấn của Đức Phật lại nhấn mạnh về sự thật của khổ đau. Phủ nhận sự thật đó, hoặc tìmcách thương lượng với khổ đau sẽ không còn đúng chút nào với những lời giáo huấn của Đức Phật.

Sự vinh quang của Phật giáo và công việc kinh doanh

Khiđưa Phật giáo vào Tây phương, các vị thấy đã cảnh giác cho biết tệ trạng băng hoại của Phật giáo ngay trên xứ sở của họ và cho thấy cần thiết phải có cuộc cách mạng, dù rằng cách mạng trong mục đích bảo tồn lấy truyền thống mà họ đã được thừa hưởng. Tuy nhiên ngày nay, trong rấtnhiều học phái, người ta thấy khuynh hướng thụt lùi lại để trở thành thứ tín ngưỡng mang nặng giáo điều và đậm màu Tăng lữ. Cái cảm tính trựcthuộc vào thành phần Tăng đoàn lại lấn lướt và trở nên quan trọng hơn là lòng quyết tâm tu tập một cách sáng suốt.

Tiếc thay, chỉ có quyết tâm tu tập một cách sáng suốt mới có đủ khả năng lột được mặt nạ và cả những hành vi đạo đức giả của những con người như chúng ta. Khái niệm về các vị đạo sưvà các vị thầy đã tạo ra những cung cách xử sự ngây thơ quá độ, xa lìa những truyền thống từ nghìn xưa. Phật giáo đã trở thành sản phẩm thương mại cần phải mở rộng thêm thị trường.

Một Đông phương lý tưởng hóa

Kết quả là người ta đang chứng kiến hiệntượng Đông phương được lý tưởng hóa, đưa đến sự lầm lẫn giữa đạo pháp của Đức Phật và những phong tục của các dân tộc Á châu. Cũng như tất cả các tôn giáo khác, ngược lại với những ảo giác đang lan truyền ngày nay, Phật giáo đã từng bị lợi dụng trong những mục đích chính trị, kể cảnhững tội ác. Nhiều thể chế Phật giáo đã tự đánh lạc hướng, trở thành những ý thức hệ hiếu chiến, chẳng hạn như việc bào chữa cho cuộc “thánh chiến tạo dựng một trật tự mới cho miền Đông Á châu” trong kỳ Đệ nhị Thếchiến vừa qua tại Nhật Bản.

Thiền sư Kodo Sawaki, thầy của thiền sư Deshimaru đã từng giải thích như sau: “Trong sự sinh hoạt của phần lớn các tập thể Tăng lữ, người ta an phận ngồi đọc hoặc tụng kinh một cách thật ngu xuẩn, đắm chìm trong trạng thái đờ đẫn và lười biếng; Các nhà sư tập trung tất cả sinh hoạt và tâm trí vào thực tại hời hợt (...). Các“vị sư”ấy đã khinh thường sự tu tập, chẳng bao giờ chịu thiền định và như thế họ sẽ chẳng bao giờ đạt được sự chứng ngộ.

Ngoàinhững công việc Phật sự thường nhật mà họ thực thi như một cái máy, họ chỉ biết tán gẫu với nhau qua những mẩu chuyện phù phiếm. Họ bị sa lầy trong thói quen thường ngày, sống như những người say rượu và chết như những người đang chìm đắm trong giấc mơ. Tất cả những gì họ đang đi tìm là cuộc sống an bình và không lo nghĩ. Phải chờ đến lúc nào đây để họ mởmắt ra .

Nêu lên những sự kiện trên đây quả thật là một việc quan trọng giúp chúng ta tránh sự lầm lẫn không phạm vào sự đồng hóa Phật giáo với một hình thức ưa chuộng những du nhập ngoại lai, giúp những người Tây phương như chúng ta nhận định một cách minh bạch vàkhông chấp nhận hệ thống Tăng lữ sai lầm.

Căn bệnh khủng hoảng của tình trạng phát triển quá nhanh

Phật giáo ngày nay đang phải đương đầu với căn bệnh khủng hoảng vì tăng trưởng quá nhanh. Trong từng vùng địa lý du nhập, Phật giáo đều dựa vào những tập quán địa phương, và do đó cũng có lý khi phân biệt thành nhiều thứ Phật giáo, như Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tây Tạng hay Phật giáo Thái Lan. Vì vậy, trong cái hữu lýđó, cũng thật là hợp lý khi nhìn nhận sự phát sinh của một nền Phật giáo “Tây phương”. Hình như yếu tố ấy cũng là yếu tố không thể thiếu sótgiúp Phật giáo Tây phương trường tồn.

Sự khẩn thiết của lòng từ bi trong lòng Phật giáo không cho phép Phật giáo tự thỏa mãn khi lặp đi lặp lại phần giáo lý và bất chấp đến những biến đổi của thế giới ngày nay, những thiên tai vì khí hậu đổi thay, bất chấp nhân loại đang bị mất gốc, sự bành trướng của chủ nghĩa hư vô, sự khủng hoảng tâm thần, căn bệnh của thời đại tân tiến. Phải chăng tất cả những thứ đó đã tạo ra cái thực tạikhổ đau mà tất cả chúng ta đang phải đương đầu?

Trích dịch từ Tạp chí Le Monde des Religions, số ngoại lệ 5, phát hành tháng 6 - 2007, đặc diệt dành riêng cho chủ đề về Phật giáo...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2019(Xem: 10841)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11305)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16256)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3510)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 12912)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7594)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6780)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 82333)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11157)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5337)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567