Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật Và Chánh Trị

15/02/201222:59(Xem: 3382)
Đạo Phật Và Chánh Trị
Duc_Phat_Thich_Ca (4)ĐẠO PHẬT VÀ CHÁNH TRỊ
Venerable K. Sri Dhammananda Maha Thera
Thích nữ Tịnh Quang dịch

Đức Phật đã vượt ra ngoài tất cả thế sự, nhưng Ngài vẫn đưa ralời khuyên nhắc về mộtchính phủ tốt.

Đức Phật xuất thân từ một chiến binh đẳng cấp và ngài được sinh ra trong xã hội với các vị vua, hoàng tử và các quần thần. Mặc dù nguồn gốc và sự liên hệ của Ngài như thế, Ngài không bao giờ viện đến sự ảnh hưởng của quyền lực chính trị để giới thiệu trong sự giảng dạy của Ngài, và cũng không cho phép Giáo pháp của Ngài lạm dụng sự ảnh hưởng này để đạt được quyền lực chính trị. Nhưng ngày nay, nhiều chính trị gia cố gắng để kéo tên của Đức Phật vào chính trị bằng cách giới thiệu Ngài như là một nhà cộng sản, tư bản chủ nghĩa, hoặc thậm chí một nhân vật có tư cách chủ nghĩa đế quốc. Họ đã quên rằng triết lý chính trị mới như chúng ta biết thực sự phát triển ở phương Tây sau thời gian của Đức Phật. Những người cố gắng xử dụng danh xưng của Đức Phật vì lợi ích cá nhân của họ, nên nhớ rằng rằng Đức Phật là Đấng giác ngộ vô cùng, là bậc đã vượt thoát tất cả sự ràng buộc của thế gian.

Có một vấn đề cố hữu đối với sự cố gắng kết hợp tôn giáo với chính trị. Căn bản của tôn giáo là đạo đức, tinh khiết và đức tin, trong khi đó chính trị là quyền lực. Trong quá trình của lịch sử, tôn giáo thường được xử dụng để cung cấp cho tính hợp pháp trong quyền lực và thực hiện quyền lực đó. Tôn giáo đã bị lợi dụng để biện minh cho những cuộc chiến tranh và chinh phục, bắt bớ, tàn bạo, nổi loạn, và phá hủy các công trình nghệ thuật và văn hóa. Khi tôn giáo được sử dụng để thỏa mãn tham vọng chính trị, nó phải từ bỏ những lý tưởng đạo đức cao cả của nó và dần dần mất hết giá trị do nhu cầu chính trị trần tục.

Mục đích của Phật Pháp không phải là hướng đến việc thành lập các tổ chức chính trị mới và thiết lập những thỏa thuận chính trị. Về cơ bản, nó tìm cách để tiếp cận các vấn đề của xã hội bằng việc cải cách các cá nhân cấu thành xã hội đó,và bằng cách gợi ý một số nguyên tắc chung mà qua đó xã hội có thể được dẫn dắt hướng tới chủ nghĩa nhân văn cao hơn, cải thiện lợi ích của các thành viên của nó, và chia sẻ công bằng hơn đối các nguồn tài nguyên phúc lợi.

Có một sự giới hạn về phạm vi mà một hệ thống chính trị có thể bảo vệ sự hạnh phúc và thịnh vượng đối với người dân của chính nó. Không có hệ thống chính trị, không có vấn đề lý tưởng mà nó vẫn có thể xuất hiện, không thể mang lại hòa bình và hạnh phúc nếu khi những người trong hệ thống được thống trị bởi hận thù, tham lam và mê muội. Ngoài ra, không có vấn đề gì với hệ thống chính trị đã được thông qua, có một số nhân tố phổ quát mà các thành viên của xã hội đó sẽ có kinh nghiệm: tác động của nghiệp tốt và xấu, thiếu sự hài lòng thực sự hoặc hạnh phúc vĩnh cửu trong thế giới, đặc trưng bởi dukkha (đau khổ -bất toại nguyện), anicca (​​vô thường), và anatta (vô ngã). Đối với Phật giáo trong vòng luân hồi không nơi nào là có tự do thực sự, ngay cả ở trên các või trời hay thế giới của Brahama (Phạm Thiên).

Mặc dù một hệ thống chính trị tốt và chỉ cần đảm bảo các quyền cơ bản của con người và bao gồm sự kiểm soát và cân bằng đối với việc xử dụng quyền lực là một điều kiện quan trọng cho một xã hội hạnh phúc, người dân không nên phung phí mãi thời gian của mình đối với hệ thống chính trị đa phần được coi như là con người có thể hoàn toàn tự do, bởi vì tự do hoàn toàn không thể được tìm thấy trong bất kỳ hệ thống nào, nhưng chỉ có trong tư tưởng tự do. Để có tự do, con người sẽ phải nhìn vào bên trong tâm của chính mình và hướng tới việc giải phóng mình khỏi xiềng xích của vô minh và ái dục. Tự do trong ý nghĩa xác thực nhất là chỉ có thể xảy ra khi một người áp dụng Phật pháp cho sự phát triển đức tính của mình bằng lời nói và hành động tốt và thanh lọc tâm thức của mình để mở rộng tiềm năng tinh thần và đạt được mục đích cuối cùng của sự giác ngộ.

Trong khi thừa nhận tính hữu ích của việc tách tôn giáo khỏi chính trị và những hạn chế của hệ thống chính trị trong việc đem đến hòa bình và hạnh phúc, có một số khía cạnh của giáo lý Đức Phật có sự tương ứng với sự sắp đặt chính trị ngày nay. Thứ nhất, Đức Phật đã nói về sự bình đẳng của tất cả con người trước Abraham Lincoln, và rằng các tầng lớp và giai cấp là những rào cản giả tạo được dựng nên bởi xã hội. Sự phân biệt duy nhất của con người, theo Đức Phật, được dựa trên phẩm chất thực hiện đạo đức của họ. Thứ hai, Đức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác xã hội và tham gia tích cực trong xã hội. Tinh thần này được thúc đẩy một cách tích cực trong quá trình chính trị của xã hội hiện đại. Thứ ba, từ khi không ai được bổ nhiệm làm người kế vị của Đức Phật, những người xuất gia được hướng dẫn bởi Giáo Pháp và Giới Luật, nói gọn hơn, là Luật nghi. Cho đến ngày nay thành viên của Tăng đoàn là tuân thủ các Luật nghi để kềm chế và hướng dẫn hành vi của họ.

Thứ tư, Đức Phật khuyến khích tinh thần thảo luận và tiến trình dân chủ. Điều này được thể hiện trong cộng đồng của Tăng thân trong đó tất cả thành viên đều có quyền quyết định về những vấn đề đối với việc cân nhắc chung. Khi một câu hỏi nghiêm trọng phát sinh đòi hỏi sự chú ý, các vấn đề được đặt ra trước các nhà sư và được thảo luận một cách giống như hệ thống nghị viện dân chủ ngày nay được xử dụng. Thủ tục tự quản chế này có thể gây ngạc nhiên cho nhiều người khi họ biết rằng trong các hội đồng của Phật tử ở Ấn Độ hơn 2.500 năm trước đã thấy được nguyên lý cơ bản của việc thực thi quốc hội ngày nay. Một nhân viên văn phòng đặc biệt như ông ‘Speaker’ (phát ngôn viên) được bổ nhiệm để bảo vệ phẩm cách của chủ tịch nghị viện Whip, và cũng được chỉ định để quan sát số đại biểu được bảo đảm. Vấn đề được đưa ra trong hình thức của một sự kiến nghị mà đã được mở ra để bàn luận. Trong một số trường hợp nó đã được thực hiện một lần, ở lần thứ ba khác, thì dự trù việc thực thi của Nghị viện yêu cầu rằng một dự luật được đọc một lần thứ ba trước khi nó trở thành luật. Nếu các cuộc thảo luận cho thấy một sự khác biệt về ý kiến, nó đã được giải quyết bằng cách lấy phiếu của đa số thông qua việc bỏ phiếu.

Cách tiếp cận của Phật giáo đối với quyền lực chính trị là đạo lý và xử dụng trách nhiệm của quyền lực công cộng. Đức Phật đã thuyết giảng bất bạo động và hòa bình như là một thông điệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực hay sự tàn phá cuộc sống, và tuyên bố rằng không có gì được gọi là chiến tranh ‘đúng'. Ngài dạy: "Kẻ chiến thắng sinh hận thù, cuộc sống bị chiến bại trong đau khổ. Người từ bỏ cả hai chiến thắng và thất bại là người hạnh phúc và hòa bình”. Không chỉ Đức Phật giảng dạy bất bạo động và hòa bình, có lẽ Ngài là bậc thầy tôn giáo đầu tiên đã tự thân đi đến chiến trường để ngăn chặn sự bùng nổ của một cuộc chiến tranh. Ngài đã giải tỏa căng thẳng giữa Sakyas và Koliyas mà những người cầm quyền đã phát động chiến tranh trên vùng biển của Rohini. Ngài cũng thuyết phục Vua Ajatasattu từ bỏ cuộc tấn công Vương quốc của Vajjis.

Đức Phật đã thảo luận tầm quan trọng và điều cần phải có của một chính phủ tốt. Ngài chỉ ra nguyên nhân mà quốc gia trở thành đồi trụy, thoái hóa và khổ đau khi người lãnh đạo chính quyền biến thành kẻ bất công và hư hỏng. Ngài đưa ra cách chống tham nhũng và phương pháp mà một chính phủ nên thực hiện dựa trên những nguyên tắc đạo đức.

Đức Phật đã từng nói: "Khi người cai trị của một quốc gia là đứng đắn và tốt, các quan chức trở nên đứng đắn và tốt; khi các quan chức đứng đắn và tốt, các viên chức cao trở nên đứng đắn và tốt; khi các viên chức cao đứng đắn và tốt, các cấp bậc tùy tùng trở nên đứng đắn và tốt; khi các cấp bậc tùy tùng trở nên đứng đắn và tốt, người dân trở nên đứng đắn và tốt (Tăng Chi Bộ- Anguttara Nikaya).

Trong kinh Cakkavatti Sihananda, Đức Phật nói rằng vô đạo đức và tội phạm, chẳng hạn như trộm cắp, dối trá, bạo lực, hận thù, độc ác có thể phát sinh từ nghèo đói. Vua và chính phủ có thể cố gắng để ngăn chặn tội phạm thông qua các hình phạt, nhưng nó là vô ích để tiêu diệt tội phạm bằng quyền lực.

Trong kinh Kutadanta, Đức Phật đề nghị phát triển kinh tế thay vì dùng vũ lực để giảm tội phạm. Chính phủ nên xử dụng các nguồn tài nguyên của đất nước để cải thiện các điều kiện kinh tế của quốc gia. Chính phủ có thể bắt tay vào sự phát triển nông nghiệp và nông thôn, cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp và thương mại, cung cấp đầy đủ tiền lương cho người lao động để duy trì một cuộc sống tử tế với phẩm giá con người.Trong Jataka, Đức Phật đã đưa ra những quy tắc cho một chính quyền tốt, được gọi là ‘Dasa Raja Dharma’. Mười quy tắc này có thể được áp dụng ngay cả ngày hôm nay với bất kỳ chính phủ nào muốn cai trị đất nước một cách hòa bình. Các nguyên tắc đó như sau:

1) Rộng lượng và không ích kỷ,
2) Có phẩm cách đạo đức cao,
3) Sẵn sàng hy sinh niềm vui của riêng mình vì lợi ích của dân
4) Trung thực và có tính chính trực tuyệt đối,
5) Có lòng tốt và hiền lành,
6) Hướng dẫn một cuộc sống đơn giản cho các đối tượng tranh đua,
7) Không ôm lòng thù hận đối với bất kỳ ai.
8) Thực hiện bất bạo động,
9) thực hành kiên nhẫn, và
10) tôn trọng ý kiến ​​quần chúng để thúc đẩy hòa bình và hòa hợp.

Đối với hành vi của những nhà cầm quyền, Ngài khuyên nhắc thêm:

- Một nhà lãnh đạo tốt cần phải hành động vô tư và không nên thiên vị và kỳ thị giữa một nhóm cụ thể của các đối tượng chống lại người khác.

- Một lãnh nhà đạo tốt không nên nuôi dưỡng bất kỳ hình thức của hận thù nhằm chống lại bất kỳ điều gì đối với các đối tượng của mình.

-Một nhà lãnh đạo tốt không nên biểu lộ sự sợ hãi nào trong việc thực thi pháp luật, nếu nó là chính đáng.

- Một lãnh đạo tốt phải có một sự hiểu biết rõ ràng về các quy định của pháp luật được thi hành. Nó không nên được thi hành chỉ vì người cai trị có quyền thực thi pháp luật. Nó phải được thực hiện một cách hợp lý và với ý thức chung. - (Cakkavatti Sihananda-Kinh Minh vương).

Trong Milinda Panha, ngài tuyên bố: "Nếu một người, là không thích hợp, không đủ năng lực, vô đạo đức, không phù hợp, không có tài cáng và không xứng đáng với vương quyền, đã tự tôn phong cho mình một vị vua hay một người cai trị với quyền uy lớn, ông ta là chủ đề bị hành hạ, phải chịu một loạt các hình phạt của người dân, bởi vì không thích hợp và không xứng đáng, ông ta đã tự đặt mình ở ghế chủ quyền một cách bất chính. Người cai trị, giống như những kẻ khác dùng bạo lực và vi phạm những nguyên tắc đạo đức và quy luật cơ bản đối với tất cả pháp luật xã hội của nhân loại, là cần bị xử phạt ngang nhau; và hơn thế nữa, sẽ bị chỉ trích là người cai trị hành xử như là một kẻ đạo tặc của quần chúng. Trong câu chuyện Jataka được đề cập, rằng một người cai trị trừng phạt những người vô tội và không trừng phạt kẻ thủ phạm là không phù hợp với nguyên tắc một quốc gia.

Nhà vua luôn luôn cải thiện bản thân và cẩn thận kiểm xét thái độ của mình trong hành động, lời nói và suy nghĩ, cố gắng để khám phá và lắng nghe ý kiến ​​công chúng về việc phạm tội hay mắc phải sai lầm nào đó của bản thân trong sự cai trị quốc gia. Nếu xét thấy rằng ông ta lãnh đạo một cách bất công, quần chúng sẽ phàn nàn rằng họ đang bị hủy hoại bởi kẻ cai trị độc ác bằng sự cư xử bất công, trừng phạt, tăng thuế, hoặc những áp bức khác bao gồm tham nhũng dưới bất kỳ hình thức nào, và họ sẽ phản ứng chống lại ông ta trong cách này hay cách khác. Ngược lại, nếu người cai trị công chính, quần chúng sẽ cầu chúc cho ông ta: ‘Hoàng thượng vạn tuế’. (Majjhima Nikaya)

Sự đặt nặng của Đức Phật về trách nhiệm đạo đức của một người cai trị xử dụng sức mạnh công cộng để nâng cao phúc lợi của người dân đã được cảm hứng từ Hoàng đế Asoka trong thế kỷ thứ ba trước Công nguyên với việc thực thi như thế. Hoàng đế Asoka, một ví dụ nổi bật đối với nguyên tắc này, ứng dụng nó để hành xử xuyên qua việc truyền bá Phật pháp và phục vụ những đối tượng của mình và tất cả nhân loại. Ông ta tuyên bố ý định không xâm lược của mình với các nước láng giềng của ông ta, đảm bảo cho họ về thiện chí của mình và gửi các phái viên đến các vị vua xa đem thông điệp của mình về hòa bình và không xâm lược. Ông thúc đẩy việc thực hành năng động về các đạo đức xã hội đối với sự lương thiện, tính trung thực, lòng từ bi, lòng nhân từ, hành vi bất bạo động, thái độ ân cần đối với tất cả, không phung phí, không tham lam, và không gây thương tích cho động vật. Ông ta khuyến khích tự do tôn giáo và tôn trọng tín ngưỡng của nhau. Ông ta có những chuyến đi định kỳ đến các vùng nông thôn để rao giảng Phật pháp cho người dân. Ông ta đã tiến hành các công trình công ích, chẳng hạn như thành lập các bệnh viện cho người và vật, cung cấp thuốc, trồng cây bên đường và trồng rừng, đào giếng, xây dựng nhà kho chứa nước và nhà nghỉ, và nổi bật, đã cấm sự tàn ác với các loài động vật.

Đôi khi Đức Phật được cho là một nhà cải cách xã hội. Trong số những điều khác, Ngài đã lên án hệ thống giai cấp, công nhận sự bình đẳng của con người, và đã đề cập về sự cần thiết để cải thiện những điều kiện kinh tế - xã hội, thừa nhận sự quan trọng về sự phân phối công bằng hơn đối với của cải giữa người giàu và người nghèo, tạo cơ hội cho phụ nữ, đề nghị sự kết hợp của chủ nghĩa nhân đạo trong chính phủ và chính quyền, và dạy rằng xã hội không nên điều hành bởi sự tham lam nhưng với sự quan tâm và lòng từ bi đối với người dân. Có lẽ, tất cả những đóng góp của Ngài cho nhân loại nhiều hơn vì Ngài đã dẫn đến một vấn đề mà không có nhà cải cách xã hội nào trước đó hoặc về sau đã làm, đó là, bằng cách đi tới gốc rễ sâu xa nhất của bệnh nhân được tìm thấy bên trong tâm người. Nó chỉ có thể tác động được với người có tư tưởng cải cách thực sự. Những sự cải cách được áp đặt bằng vũ lực dựa vào thế giới bên ngoài thì có một sự tồn tại rất ngắn vì chúng nó không có gốc rễ. Nhưng những sự cải cách đó nổi lên như là một kết quả của sự biến đổi bên trong ý thức con người vẫn còn tiếp tục được bắt rễ. Trong khi những chi nhánh của chúng lan rộng ra phía ngoài, chúng hút dinh dưỡng của chúng từ một nguồn sống không bao giờ khô kiệt –những dinh dưỡng tiềm thức của dòng sống chính nó . Vì vậy, những cải cách xảy ra khi tâm trí con người đã chuẩn bị phương pháp cho chúng, và ngoài tình yêu sự thật, công lý và những người đồng loại, sự cải cách tồn tại mãi khi con người tiếp sinh khí vào chúng.

Giáo pháp của Đức Phật không phải là dựa trên "Triết học chính trị '. Cũng không phải là một học thuyết khuyến khích con người với những lạc thú thế gian. Nó đặt ra một phương pháp để đạt được Niết Bàn. Nói cách khác, mục đích cuối cùng của nó là để chấm dứt ái dục (tanha) điều đã ràng buộc con người trong sự nô lệ thế giới này. Một đoạn từ Kinh Pháp Cú tốt nhất tóm tắt sự phát biểu này: “Đó là con đường dẫn thế gian, và đây là con đường dẫn đến Niết Bàn”.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Phật tử không có thể hoặc không nên tham gia vào tiến trình chính trị, nó là một thực tế xã hội. Cuộc sống của các thành viên của một xã hội được hình thành bởi luật pháp và các quy định, sự xếp đặt kinh tế được phép thực thi trong phạm vi một quốc gia, thể chế và bị ảnh hưởng bởi sự sắp đặt chính trị của xã hội đó. Tuy nhiên, nếu Phật tử muốn được tham gia vào chính trị, ông ta không nên lạm dụng tôn giáo để đạt được quyền lực chính trị, cũng không được khuyến khích cho những người đã xuất gia tích cực tham gia vào chính trị.

Trích từ: E Book 3D (dạng sách đọc): Sự Quyến Rũ Của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới - Thích nữ Tịnh Quang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/08/2019(Xem: 10670)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11088)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 15867)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
17/05/2019(Xem: 3468)
Williams kể lại trong sách về cuộc đời nhiều người bị rung chuyển vì biến đổi gay gắt và trong các chuyện đời đó đã tìm thấy một hòa lẫn của trí tuệ Phật Giáo và kinh nghiệm Hoa Kỳ: “Những chuyện bỏ quên từ lâu về các Phật Tử gốc Nhật nỗ lực xây dựng một Hoa Kỳ tự do – không phải là một quốc gia Thiên Chúa Giáo, nhưng một quốc gia của tự do tôn giáo – không chứa đựng những câu trả lời tận cùng, nhưng các chuyện này dạy chúng ta về sức năng động của chuyển hóa: những gì mang ý nghĩa trở thành Hoa Kỳ -- và Phật Tử -- như một phần của một thế giới chuyển biến năng động và tương liên.”
10/05/2019(Xem: 12614)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
02/03/2019(Xem: 7466)
Con người là một sinh vật thượng đẳng, tối linh. Theo thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mọi hiện tượng tự thích nghi với hoàn cảnh chung quanh, dần dà phát sinh những hiện tượng kế tục được gọi là tiến hóa hay còn gọi là biến thể để thăng tiến. Giám mục Leadbeater) người Anh, nhiều năm sống với các vị chân sư trên núi Tuyết Hy Mã tiết lộ: “Một vị chân sư còn cho biết thêm rằng toàn thể Thái dương hệ của chùng ta cũng đang tiến hóa từ thấp lên cao, không những các hành tinh đang tiến hóa mà các sinh vật trong đó cũng đều tiến hóa trong một cơ trời vĩ đại,mầu nhiệm vô cùng.
12/02/2019(Xem: 6600)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 79185)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 10955)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5210)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567