Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Trưởng Lão HT, TT, ĐĐ Tăng Ni nhị bộ
Kính bạch HT Thích Đồng Trí, Viện Chủ Tu Viện Viên Chiếu, Cali, Hoa Kỳ.
(Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN Hoa Kỳ)
Kính thưa quý đạo hữu đã và chưa xem trực tiếp livestream ngày 26/10/2022 trên Facebook của TT Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng.
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày.
Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
Với lời mở đầu cho buổi phỏng vấn này TT Nguyên Tạng đã nói lời chân thành cảm tạ sự nhiệt tình quang lâm của Ngài trong suốt thời gian có lễ Hiệp Kỵ và Lễ Mừng Chu niên 32 năm của Tu Viện Quảng Đức từ 9/10-16/10/2022 và sau đó lưu lại Tu Viện Quảng Đức 3 ngày trước khi lên máy bay về trú xứ hôm nay 26/10/2022 cũng như Ngài đã viếng thăm Sydney và Canberra.
Và để giới thiệu tiểu sử và hành trạng Ngài cùng những thâm tình pháp lữ giữa HT Thích Đồng Trí và HT Viện chủ Thích Tâm Phương chúng con đã được nghe như sau: HT là người con của đất Tây Sơn tỉnh Bình Định, Ngài sanh năm 1960 và xuất gia 1975 với HT Bửu Quang tại chùa Hưng Long (Bình Định, ngài là Sư đệ của HT THích Quảng Ba, Viện chủ Tu Viện Vạn Hạnh tai Canberra). Năm 1976 Ngài thọ Sa đi, và thọ cụ túc giới năm 1980. Ngài vượt biển tìm tự do năm 1988, tạm cư ở trại tỵ nạn trên đảo Pulau Bidong, Malaysia mãi tới 1990, được HT Thích Mãn Giác (Chùa Việt Nam, Los Angeles) Hội Chủ Tổng Hội PGVNTN Hoa Kỳ bảo lãnh để đến định cư Hoa Kỳ và tu học tại chùa Việt Nam trong 8 năm. Đến năm 1998 vì bịnh duyên , Ngài đã tìm một ngôi nhà nhỏ để ẩn cư và đó cũng là cơ duyên cho Tu Viện Viên Chiếu được ngài thành lập cho đến ngày nay.
Ngài là pháp lữ thâm tình của HT Thích Tâm Phương nên đây là lần thứ hai Ngài quang lâm về Tu Viện Quảng Đức nhân lễ hội Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Về nguồn lần thư 12. Được biết vào năm 2003, Ngài đã viếng thăm Tu Viện Quảng Đức nhân dịp khánh thành Chánh điện.
Vào năm 2012 đến nay Ngài được Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ giao phó đảm nhiệm chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp.của GHPGVNTN Hoa Kỳ .
Sau khi giới thiệu và chân thành cảm tạ TT Nguyên Tạng với câu hỏi thứ nhất đã cung thỉnh HT Đồng Trí kể lại mối thâm tình giữa Ngài và HT Viện Chủ Thích Tâm Phương trong nhiều năm qua. Kính mời nghe …
—Sau biến cố giữa nhà cầm quyền VN và Campuchia, năm 1978 có chiến dịch tuyển thi hành nghĩa vụ quân sự, nên HT đã rời chùa lang thang vào Saigon mà không có hộ khẩu, tối về nghỉ trọ tại nhà một Phật tử và sáng 3 giờ khuya thì về chùa Pháp Vân (Gia Định, Saigon) từ năm 1983 đã có thâm tình gắn bó với HT Viện Chủ Thích Tâm Phương, đến năm 1986 thì HT Tâm Phương vượt biên và đến Úc định cư để làm Phật Sự và chính bản thân Ngài mãi đến 1988 mới vượt biển đến Malaysia và được HT Thích Mãn Giác bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Với bản tánh trầm lặng và thích ẩn cư nên không tiếp xúc nhiều với ai nhưng thường được HT Thích Tâm Phương luôn thăm hỏi qua điện thoại và vì vậy Ngài đã đến dự lễ khánh thành Chánh điện Tu Viện Quảng Đức năm 2003 rồi mãi đến nay 2022, sau 2 năm lockdown vì đại dịch Covid-19, HT Viện chủ Tâm Phương vẫn đôi lần vấn an và có mời tham dự lễ chu niên 32 năm TV Quảng Đức. HT Đồng Trí nhấn mạnh mặc dù đời sống của những người tu …như Thiền Lão :
Đãn tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu Xuân Thu
Dịch
Sống ngày nay biết ngày nay
Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!
Tuy nhiên nhờ có những ngày vân tập câu hội thế này cũng có đôi lúc nhớ lại quá khứ, nhưng nhớ chỉ là nhớ thôi còn những vui buồn sướng khổ thì xem như áng mây trên trời ..
Đâu rồi một thoáng ngày qua
Phù Vân nhẹ áng Ta Bà thế thôi
Và câu chuyện đã giúp TT Nguyên Tạng Trụ trì nhớ lại những ngày còn ở quê nhà khi vào Saigon cùng thời ấy vào năm 1985 từ Nha Trang vào Saigon để thọ giới Sadi, từng được HT Tâm Phương và HT Đồng Trí dẫn đi ngủ nhờ nhà cô Diệu Báu (gần chợ Bà Chiểu) và cô Diệu Lạc (gần chùa Pháp Vân) nhưng không có hội khẩu phải trở về Nha Trang để tìm đường vượt biên năm 1987 và đã bị bắt, ở tù 3 tháng, để rồi 10 năm sau đó lưu trú tu học tại chùa Pháp Vân với giấy tờ tạm vắng ở Nha Trang và phải xin giấy tạm trú ở Saigon cho đến năm 1998 TT được bào huynh Tâm Phương bảo lãnh sang Úc theo diện Minister of Religion. TT đã nhắc lại chế độ hộ khẩu ở VN mãi những năm gần đây mới thay đổi để đời sống Tăng Ni bớt khó khăn.
Câu hỏi thứ hai TT Nguyên Tạng xin HT giải thích thêm về hai chữ Về Nguồn , khi trong giới Tăng Ni có người phản đối 2 từ Về Nguồn này.
TT Nguyên Tạng rất cẩn thận khi nhắc đến 11 lần tổ chức Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Ngày Về Nguồn từ lần thứ 1 đến lần thứ 12 kỳ này
- Lần thứ nhất, năm 2007, tại Chùa Pháp Vân, Toronto, Canada.
- Lần thứ 2, năm 2008, tại Chùa Bát Nhã, miền Nam California, Hoa Kỳ
- Lần thứ 3, năm 2009, tại Tu Viện An Lạc, Ventura, Hoa Kỳ
- Lần thứ 4, năm 2010, tại Tu Viện Viên Đức, Ravenburg, Đức Quốc
- Lần thứ 5, năm 2011, tại Chùa Thiện Minh, Lyon, Pháp Quốc
- Lần thứ 6, năm 2012, tại Chùa Pháp Hoa, Adelaide, Úc Châu
- Lần thứ 7, năm 2013, tại Chùa Cổ Lâm, Seattle, Hoa Kỳ
- Lần thứ 8, năm 2014, tại Chùa Pháp Bảo, Sydney, Úc Châu
- Lần thứ 9, năm 2015, tại Chùa Khánh Anh, Ervy, Pháp Quốc
- Lần thứ 10, năm 2016, tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada
- Lần thứ 11, năm 2018, tại Chùa Khánh Anh, Ervy, Pháp Quốc
Và lần thứ 12 , năm 2022 tại Tu Viện Quảng Đức, Úc Châu
đã được manh nha từ thông điệp của Tăng Thống GHPGVNTNT Thích Tịnh Khiết năm 1971 “ Chúng ta hãy góp phần tích cực xây dựng một quan niệm sống, một đường lối sống, một khuôn mẫu sống dựa trên tính chỉ từ bi trí tuệ bình đẳng giải thoát và tự chủ, hợp với rung cảm, suy tư và tình tự của một dân tộc tiến bộ, đi lên, thì đó là chúng ta xây dựng nổi một xã hội lành mạnh, ấm no, bình đẳng, đúng theo nghĩa “tình người” và lòng bao dung độ lượng của một nòi giống văn minh - nòi giống Lạc Hồng. Đó là Ý thức Về Nguồn của hết thảy chúng ta, ở bên này cũng như ở bên kia giới tuyến. Và, đó cũng chính là điều mà thâm tâm tôi hằng trông đợi.Với lòng tự tin, với ý chíï kiên nhẫn, với truyền thống bất khuất của dân tộc, càng nhìn vào quá khứ oanh liệt của tiền nhân, tôi càng thêm tin tưởng vào sức quật khởi của chúng ta - Một dân tộc đã tự chủ vượt qua mọi cuộc đồng hóa, đem vinh quang về dâng cho Tổ quốc mến yêu, suốt từ thời tự chủ Đinh - Lê - Lý - Trần, thế kỷ thứ IX XIII, đến các thời đại kế tiếp. Tổ tiên chúng ta khi ấy thực sự đã tạo được thế Hòa giải, đã hoàn thành được sứ mạng lịch sử cứu nước, giữ nòi. Thì, trong hiện tại và tương lai, chúng ta quyết không bao giờ phá vỡ, đi ngược lại truyền thống và đường hướng VỀ NGUỒN và KHỞI ĐI TỪ NGUỒN cao đẹp ấy.
Ý THỨC VỀ NGUỒN, nếu được mọi người chấp nhận, đó mới là căn bản chính thức của sự HÓA GIẢI chiến tranh, HÓA GIẢI hận thù, đem lại nguồn thương vui và hòa bình lâu dài cho dân tộc ta.” Con kính thỉnh HT giải thích thêm về để mọi người có thể liễu tri thêm .
Kính mời nghe lời giải thích tuyệt vời của HT Đồng Trí :
Thật ra ngôn từ vẫn chỉ là ngôn từ, như chúng ta đã biết vào năm 2007 HT Minh Tâm đã kêu gọi tất cả chư Tăng Ni sau nhiều năm đem chuông đi đánh xứ người nên họp mắt lại nhau để cùng ôn lại những bậc ân sư trên bước đường hoẵng hoá và để cho đúng ý nghĩa nên hai chữ họp mặt đã được thay thế bằng Lễ Hiệp kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn từ đấy.
Nhưng quý Thầy đã cho rằng VỀ NGUỒN có nghĩa là quay về với VN , nghĩa là bị ép bởi thế lực nào đó để tổ chức cho Tăng Ni đồng thuận với phương cách mà chư Tăng Ni tại VN đang áp dụng
Thật ra theo HT Đồng Trí bậc thông thạo Hán Văn, Ngài đã định nghĩa hai chữ Về Nguồn như sau :Về Nguồn là QUY NGUYÊN ( quay trở về bản giác thanh tịnh chân tâm của mỗi người )
TT Nguyên Tạng đã tán dương lời giải thích tuyệt vời trên và ước mong rằng mọi người nên suy ngẫm lại.
—Câu hỏi thứ ba qua 3 buổi hội thảo: (Hội thảo 1- chủ đề Tổ Giác Tiên, Hội thảo 2 - chủ đề Ni Trưởng Như Thanh, Hội Thảo 3- Đạo Pháp và Quê Hương mà Ngài đã được thay chỗ thuyết trình viên thế cho HT Thích Quảng Ba vì bịnh duyên nhưng thật tuyệt vời Ngài đã ôn nhắc lại những bài thơ tim óc để lại cho đời của những thiền sư VN) Kính cung thỉnh Ngài hãy nói về đặc thù của Thiền Tông VN khác với Thiền Tông Trung Hoa thế nào ?
Kính mời nghe lời đáp :
Thật ra Thiền là để chúng ta quay về Tự Tánh của chúng ta, và các pháp phái Thiền nước ta hầu hết đều có Tổ Sư đều xuất phát từ Trung Hoa và có mối dây chằng chịt lâu đời. Vào thế kỷ thứ 3 Ngài Khương Tăng Hội đã đưa ra kinh AN BAN THỦ Ý để đùng phương pháp thiền bằng quán niệm hơi thở .
Như chúng ta đã biết trải qua thời kỳ Bắc thuộc cả ngàn năm và sau khi dành lại độc lập qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần ta có các Sơ Tổ của Thiền Tông VN bắt đầu từ Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, rồi đến thiền phái Vô Ngôn Thông, và Thiền phái Thảo Đường. Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi là đệ tử của Ngài Tăng Xán, (Tổ thứ 3 của TH sau Tổ Huệ Khả ), rồi đến thiền phái Vô Ngôn Thông, mà Ngài Vô Ngôn Thông lại là đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải và thiền phái Thảo Đường bắt nguồn từ vị Tổ Sư tên là Thảo Đường, đệ tử của một thiền sư lớn ở bên Trung Quốc tên là thiền sư Tuyết Đậu ( thiền sư nổi tiếng của môn phái Vân Môn)
Trong những năm này nước VN ta đã có hàng ngàn thiền sư nổi tiếng như Quốc Sư Khuông Việt, Ngài Vạn Hạnh để lại nhiều tuyệt tác thi kệ mà nếu chúng ta cố gắng nghiệm trì học tập có thể đạt được yếu chỉ các Ngài.
Đến thời Phật Hoàng Trần Nhân Tôn, Ngài đã gom tập 3 thiền phái trên và thành lập Trúc Lâm Yên Tử truyền đến nhị Tổ là Ngài Pháp Loa và tam Tổ là Ngài Huyền Quang, rồi sau đó Phật Giáo VN lại suy đồi để cho Nho Giáo được phục hưng và các vị vua chúa trưng dụng
Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, thì Đàng Ngoài vẫn còn truyền thừa Phật Giáo và Đàng Trong chúa Nguyễn Phúc Chu đã khôi phục lại thiền Tông bằng cách thỉnh mời các Thiền sư Trung Hoa sáng lập giới đàn và từ đó các Ngài ở lại VN mà phát triển Thiền tông. Như vậy miền Bắc có Tào Động và miền Trung và miền Nam có Thiền phái Lâm Tế (với nhánh Chúc Thánh và Liễu Quán )
HT Đồng Trí cũng giải thích điểm khác nhau và giống nhau giữa Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền mà điểm chính vẫn là nhận ra Tự tánh của chúng ta để tiến vào cảnh giới bất khả tư nghỉ, và khi giác ngộ rồi thì tâm không vướng mắc gì sẽ sống thong dong tự tại “Đói ăn, mệt nghỉ “ .
-Với Như Lai Thiền thuần tuý về Giới, Định,Tuệ- Văn, Tư, Tu và quán niệm Thân , Thọ, Tâm Pháp bằng pháp quán Tứ Niệm Xứ.
-Trong khi Tổ Sư Thiền là quán sát Tâm của chúng ta nhưng vì quý thầy quá chuyên về kinh điển nên Tổ đã chế ra các phương pháp công án, khán thoại đầu hoặc những tiếng hét, gậy để tỏ ngộ mà trực chỉ nhân tâm.
Như vậy cách thực dụng (kỹ thuật truyền dạy) có khác giữa Tổ và Phật nhưng mục đích chứng ngộ giải thoát là một.
Sau lời tán thán sự thâm huyền lý đạo của HT Đồng Trí, câu hỏi thứ tư của TT Thích Nguyên Tạng đặt ra là : Chư Tổ thường dạy “ LY KINH NHẤT TỰ , ĐỒNG VỚI MA THUYẾT” thế thì tại sao Tổ Bồ Đề Đạt Ma lại “Bất lập văn tự - Giáo ngoại biệt truyền - Trựcq chỉ chân tâm -Kiến tánh thành Phật .“ Hoà Thượng đã cho rằng câu hỏi của TT không dễ để trả lời tuy nhiên Ngài sẽ giải đáp như sau :
Sở dĩ có câu “Ly kinh nhất tự đồng với ma thuyết” là vì giáo pháp của Đức Phật thể hiện qua 3 tạng kinh điển, là kim chỉ nam cho bất cứ ai muốn tìm cầu con đường giải thoát. Nếu như không có kinh điển, chúng ta sẽ mãi ngụp lặn trong mê lầm, sanh tử khổ đau.
Hơn thế nữa, lời dạy của Đức Phật luôn là khuôn vàng thước ngọc mà tính chính xác của nó vượt cả thời gian và không gian. Kim ngôn của Đức Phật là không thể sửa đổi, thay thế.
Vì nếu như chỉ có một sự thay đổi nhỏ thì sự an lạc, giải thoát khó tìm về.
Nói cách khác, khổ đau sẽ đưa đến nếu như hành giả thoát ly lời dạy của Đức Phật. Ngay đây, có thể thấy không thể xa lìa kinh điển của Đức Phật vì nếu như xa rời kinh điển thì sẽ tức khắc rơi vào ma đạo.
Thế nhưng chúng ta cũng có nghe “ Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan “ vì trong kinh Viên Giác, Đức Phật dạy rằng, giáo pháp của Ngài như ngón tay chỉ mặt trăng, là phương tiện để đạt đến chân lý.
Tuy nhiên, kho tàng giáo pháp của Đức Phật là phương tiện cực kỳ sống động, không hề khô khan, cứng nhắc. Tùy theo, từng lúc, từng nơi, từng thời kỳ lịch sử xã hội mà có sự vận dụng cho thích hợp, ngõ hầu đạt đến chân lý. (Lời Đức Phật trong 45 năm hoằng hoá dựa vào NGÔN GIAO, THÔNG GIÁO và Ý GIÁO)
Mặt khác, xét cho cùng, ngôn ngữ khó có thể biểu đạt rốt ráo tính chắc thật của chân lý. Bởi lẽ, ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ trong kinh điển thì cũng chỉ là phương tiện để truyền tải thông tin. Nếu như cứ chấp chặt vào ngôn ngữ, văn tự thì khó bề lý giải và cảm nhận được chân ý nghĩa mà Đức Phật đã chỉ dạy, khó có thể tìm được chân lý rốt ráo của vạn vật.
Do đó, hành giả có thể hiểu sai lời Phật, và rõ ràng “oan cho chư Phật ba đời”.
Vì vậy mà Tổ Bồ Đề Dạt Ma sợ chúng ta vướng kẹt trong ngôn ngữ nên đã khai thị cảnh giới tự chứng giải thoát, vượt quá giới hạn của thế trí để ngay đó phương tiện mở lối (khai thị) giúp người đối diện bất giác ngoảnh đầu, chỉ sátnna toàn bộ trí hiểu biết của tâm phân biệt cố hữu bị xóa sạch, như "mây đen qua trăng lộ sáng", đưa người đối diện trực diện Trung đạo, nhận rõ tự tánh (ngộ) để từ đây sống chơn thật với chính mình, cũng là sống đồng bổn lai tự tánh, cũng là Phật tánh (nhập) của mỗi người mà tu hành để tự giải thoát.
Đến chỗ nầy, nói tu hành mà trong đây thật chẳng có gì gọi là tu nếu đã tự sống chân thật với chính nó, với tự thể tánh trọn thanh-tịnh, thì không còn đối đãi. tránh được Ngôn ngữ hy luận mà nhận ra được Thực tướng của vạn pháp .
Đến chỗ này ngôn ngữ chẳng thể với tới, mà chỉ có thân chứng mới tự tri, như chư Tổ thường nói, uống nước nóng lạnh tự biết, dưa hấu phải bổ xẻ ra , cũng như đường muối phải nếm mới biết vị của nó.
Ngoài ra HT còn nói thêm rằng Vũ trụ này nơi đâu cũng là Đạo , khi ta nhìn một giọt sương trên đầu ngọn cỏ , một tiếng chim hoạt véo von , một đoá hoa vừa nở rộ đó là ý đạo, là ý thiền mà nếu chúng ta thấy được những đạo lý này thì dù Thế Tôn cá tịch diệt Niết Bàn ta cũng Thấy tất cả lá trong rừng chứ không phải chỉ có nắm lá trong tay Thế Tôn
TT Thích Nguyên Tạng một lần nữa đã cám ơn lời giải đáp về yếu chỉ của Thiền Tông quá tuyệt vời để tiếp tục với câu hỏi thứ năm, kính mời H T Đồng Trí giải thích thêm về Ngữ Gia Thất Tông của Lục Tổ Huệ Năng truyền thừa , có còn ảnh hưởng sâu rộng đến ngày nay hay không mà sao bây giờ đâu đâu cũng nói đến Pháp môn Niệm Phật?
Hoà Thượng Đồng Trí đã bắt đầu thế nào là Ngũ Gia Thất Tông-
Từ Thiền phái Lục Tổ Huệ Năng truyền Tổ sư thiền đốn ngộ Nam tông về sau, gốc cổ thụ Thiền tông hưng thịnh, đâm chồi nẩy lộc “Thất chi, Ngũ diệp” (Ngũ gia, Thất tông), tức các Thiền phái Lâm Tế tông; Tào Động tông; Quy Ngưỡng tông; Vân Môn tông; Pháp Nhãn tông tức “Ngũ gia”. Lâm Tế tông chia thành hai chi phái Hoàng Long phái và Dương Kỳ phái, hợp xưng “Thất tông”, các thiền phái ra đời đều phồn thịnh trong hoằng dương chính pháp, cục diện hợp thịnh, Thiền tông đã bước vào thời kỳ hưng thịnh.
Tuy nhiên vào thời Thanh triều (Vua cha của Hoàng đế Khang Hy sau khi quy y với Nhật Long Pháp Sư đã thiết lập ra Nhị thời khoá tụng) vẫn còn áp dụng mà các chùa chiền hiện nay, thật ra Nhị thời khá tụng đã có từ thời nhà Minh, đó là:
(Công phu buổi sáng, sau khi tụng lời phát nguyện, tụng chú Lăng Nghiêm . Tiếp theo, tụng chú Đại bi, chú Bát nhã, niệm Phật, phát nguyện theo nguyện Phổ hiền, và tam tự qui.
Công phu buổi chiều, sau khi tụng kinh Di đà, chú Đại bi, chú Bát nhã, niệm Phật, phát nguyện theo nguyện Phổ hiền, và tam tự qui.)
Tuy nhiên sang đến triều đại nhà Đường, Tống, Nguyên, Minh thì đâu đâu cũng là Tịnh Độ Tong có nghĩa là Thiền Tông đã có chiều hướng đi xuống và dĩ nhiên tại VN cũng vậy dù rằng nói là truyền thừa của Tổ Lâm Tế nhưng chùa nào cũng theo pháp môn Niệm Phật.
Nhưng từ giữa thế kỷ 20, tại quốc nội chúng ta có HT Thích Thanh Từ đã phục hoạt dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử với chủ trương “ BIẾT VỌNG KHÔNG THEO” và đã thành công với nhiều Phật tử và nhiều thiền viện khắp nơi và vì vậy Ngài đã được tôn xưng là Đệ Tứ Tổ Thiền Tông.
Và tại Hải ngoại, HT Thích Nhất Hạnh đã thành lập Làng Mai tuy dùng kinh điển Đại Thừa “ Tất cả là một, một là tất cả “ nhưng Ngài lại áp dụng Như Lai Thiền bằng phương pháp quán niệm hơi thở và hiện tại lạc trú với kinh Tứ Niệm Xứ và Nhất Dạ Hiền Giả, và vì vậy đã được tôn xưng là “The Father of Mindfulness “ hơn thế nữa với phương pháp Thiền của Ngài đã đi vào thế giới phương Tây không chỉ trong Đạo Phật mà còn cho những tôn giáo khác
Thật ra Phật giáo VN hiện nay cũng có những Thiền sư đắc đạo nhưng các Ngài đều ẩn cư , và các chùa chiền thì vẫn áp dụng Nhị thời khoá tụng với Thiền , Tịnh, Mật nhưng thật ra Niệm Phật cũng đạt đến Nhất Tâm. Mà “Nhất tâm là chỉ có một tâm niệm Phật và bất loạn là lòng không rối loạn duyên tưởng cảnh nào ngoài cảnh niệm Phật. Trên nền tảng của Sự nhất tâm, tiếp tục dụng công đến chỗ tâm địa rỗng suốt, ngộ vào thật tướng. Khi ấy hiện tại tức là Tây phương, tánh mình chính là Di Đà”.
Nhất tâm có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, và được khai ngộ. Như vậy tuỳ vào mỗi hành giả nếu ta cố gắng học hỏi giáo lý hoặc y cứ vào kinh điển của Phật hoặc tu tập theo các Tổ ta cũng có ngày giác ngộ tuy đường lối khác nhau.
TT Thích Nguyên Tạng đã tán dương công đức của nhị vị HT Thích Thanh Từ và Thích Nhất Hạnh vì đã dung thông được Tổ Sư Thiền và Như Lai Thiền .
Và đã bắt đầu câu hỏi thứ sáu với Tội và Nghiệp trong Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia Huyền Giác như sau : “Liễu tức nghiệp chướng bản lại không “ thế thì tại sắp Đức Thế Tôn đã đến địa vị Đẳng giác vẫn còn những nghiệp nạn như ăn lúa ngựa và bị vết thương chảy máu do đá lăn đè nơi chân.
HT Đồng trí thật đúng là bậc đã kinh nghiệm tu chứng, Ngài đã đi vòng từ quá khứ đến hiện tại để thuyết giảng giảng về Thiền Tông bất cứ câu hỏi nào đó TT Nguyên Tạng nêu lên, Ngài đều có thể lý giải huyền nhiệm, viên minh .
Kính tán thán công đức HT Thanh Từ và Nhất Hạnh đã đại diện Tổ Sư Thiền và Như Lai Thiền dung thông đưa Chánh pháp vào cuộc đời,
Với câu hỏi thứ sáu đã được nêu lên về Tội và Nghiệp mà quý đọc giả Trang nhà Quảng Đức có hỏi như sau :
Trong Chứng Đạo Ca Thiền sư Huyền Giác viết:
“Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái”
Nghĩa là là khi đã liễu ngộ, rõ ràng nghiệp chướng xưa nay vốn không; nhưng nếu chưa liễu, thì mọi oan trái đã gây đều phải trả , điều này có gì mâu thuẫn với Đức Phật chăng ?
HT Đồng Trí đáp : Thật ra nếu chúng ta có cái nhìn xuyên suốt thì mọi người đệ tử Phật phải biết nhân quả có điều tuy thọ quả nhưng các ngài vẫn an nhiên tự tại, vì biết tự tánh của nghiệp chướng vốn là không. Vì Đức Phật còn vướng mắc Cửu nạn, huống chi chúng ta sao tránh khỏi tai ba.
Đức Phật đã từng dạy “ Dã sử dù cho trải qua trăm ngàn kiếp nhưng khi nhân duyên hội đủ thì bất cứ ai cũng phải chịu trả quả báo” và hẳn nhiên ai trong chúng ta cũng còn nhớ trong câu chuyện Thiền “ Bách Trượng Dã Hồ" ( Thiền Sư Bách Trượng và ông già chồn)
-Người tu hành có rơi vào nhân quả không?
-Người tu phải không lầm nhân quả”
Thật ra, tuy lý Nhân quả có tính phổ thông, nhưng muốn quán triệt đạo lý này, chúng ta phải nghiền ngẫm tư duy thật sâu sắc; và sau đó, nhờ công phu chuyển hóa tự thân, tịnh tu ba nghiệp, ta mới có thể thẩm thấu ý nghĩa uyên áo của nó.
Vì biết bản tánh nó là Không nên Tổ Sư Tử, Ngài Huệ Khả và Ngài Mục Kiền Liên tuy phải thọ nghiệp báo nhưng tâm thì rỗng rang.
Và đây là câu hỏi cuối cùng mà TT Nguyên Tạng đã dựa vào sự thành công viên mãn của Đại lễ Hiệp kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng Chu Niên 32 năm khai Sơn Tu Viện Quảng Đức với sự tham dự của 120 HT, TT , và ĐĐ Tăng Ni khắp nơi vân tập về cùng sự tham gia đông đảo của quý đồng hương Phật Tử, kính xin phép HT chỉ rõ làm thế nào để đánh giá sự thành công của một tu sĩ trên đường Đạo ? Với chuẩn mực nào trong khi người thế gian thì đánh giá trên danh vọng , tiền tài , địa vị bằng cấp và Tại sao một vị tu sĩ đã từng đóng góp hy hiến cả cuộc đời mình cho Giáo Hội có chùa to Phật lớn, đông đảo đệ tử mà khi cuối đời phải trả giá cho những bệnh nan y nằm một chỗ không biết ngày giờ để về cõi Phật ?
Hoà Thượng Đồng Trí đã rất khéo léo trả lời khi cho rằng câu hỏi rất thực tế .
Câu hỏi này có hai vế, vế thứ nhất là “Thế nào là sự nghiệp của một người tu” và vế thứ hai “Tại sao các Ngài tu tập hành đạo rất tinh chuyên thế mà cuối đời phải gặp bịnh duyên nan y không biết ngày giờ ra đi “
Để trả lời vế thứ nhất - Sự nghiệp của một người tu được đánh giá bằng mục đích giải thoát có đạt đến chưa?. Khi biết mình có thấy đạo, chứng đạo và thành đạo trên cuộc đời này chưa? Mà không phải đánh giá bằng chùa to Phật lớn mặc dù muốn có một ngôi chùa khang trang như Tu Viện Quảng Đức không phải là dễ mà phải là một cơ duyên ngàn năm ..Vì Mục đích Phật chỉ dạy là “ khi việc cần làm phải làm xong “ tức là phải giác ngộ giải thoát.
Riêng vế thứ hai phần nghiệp và nhân quả đã nói ở trên đã có thể giải đáp rồi… chúng ta sanh ra trên cõi đời này dù 70 năm hay 100 năm không phải nghiệp bây giờ chỉ là quả của túc trái một kiếp mà còn là của vô lượng kiếp, thời gian tu chỉ là một thời gian sau này. Hãy để chỉ bị một mũi tên độc nơi thân thôi chứ đừng gánh thêm mũi tên độc thứ hai là TÂM BỊNH nữa để có thể tuỳ duyên ra đi một cách an lành vậy
Đến đây thời gian đã kéo dài hơn 1:30 phút, TT Nguyên Tạng đã cảm tạ HT Đồng Trí trong một tiếng đồng hồ hơn đã ban pháp nhủ thật là lợi lạc biết bao cho hàng Phật Tử nhất là mục Phật Pháp vấn đáp trên Facebook và trang nhà QĐ .
Kính chúc Ngài pháp thể khinh an , pháp duyên vô ngại và khi trở về trú xứ sẽ tiếp tục hành trì làm rạng rỡ tông môn và Giáo Hội.
Lời kết:
Kính bạch Hoà Thượng Đồng Trí ,
Không biết cơ duyên nào mà con được tường thuật lại bài phỏng vấn này, con chỉ biết những gì con đã học về Tổ Sư Thiền và những gì về Thiền Tứ Niệm Xứ của Nam Tông đã hiện rõ trong trí con từng chi tiết khi Ngài ban pháp nhủ .
Con đã thọ nhận được từ Ngài những kinh nghiệm quý báu qua sự hành trì và tu chứng. Tuy đã biết Đức Phật tùy căn cơ mà giảng pháp cho từng người, nhiều trường hợp một người chỉ nghe một bài kệ cũng đủ đắc đạo quả, vị khác chỉ nhìn cái khăn mà đắc đạo quả, trong khi học kinh luật chẳng nhớ gì cả. nhưng Hoà Thượng đã dạy cho con biết rằng trong đời hành đạo phải biết nhìn cả khổ đau và hạnh phúc bằng con mắt trầm tĩnh, biết hiểu thấu và chuyển hóa khổ đau, biết trân quý và nuôi dưỡng hạnh phúc, và cuối cùng, biết thưởng thức từng giây phút của cuộc sống.
Giác ngộ không chỉ xảy ra giống như một ánh chớp sáng; đôi khi đó là sự nhận biết của buổi rạng đông mà bầu trời dần dần sáng lên. Ở giữa cuộc sống hàng ngày, chúng ta nhận ra những phút giây thấy được tánh rỗng không của sự việc trong nhà, ở chung quanh. Những câu chuyện, những sự việc xảy ra hàng ngày cũng có thể cho chúng ta nhìn thấy lập tức sự rỗng không trong đó.
Hơn thế nữa Tri Tuệ không có nghĩa chỉ là kiến thức thế gian mà còn bao gồm luôn sự hiểu biết thực tiễn kinh nghiệm.Trí tuệ sẽ giúp chúng ta chuyển hoá thay đổi được gốc rễ tất cả những thói quen, tập khí, quan niệm, thành kiến ….Và một khi chúng ta đã chuyển hoá được nội tâm, chúng ta sẽ khám phá được luôn tính chất tương quan vô thường của vạn hữu vũ trụ.
Con đã nghe những lời Pháp từ HT dạy, suy nghĩ về Pháp, và nguyện sẽ thực hành Pháp để được chứng ngộ Pháp (đấy là sự nghiệp hay mục đích mà một hành giả tu Phật phải có). Và con đã ghi vào cầm nang con hôm nay: “Thật tâm lắng nghe, suy nghĩ, thực hành, kiểm chứng. Làm tất cả, đó là tu tập. Tất cả, đó là điều chúng ta đang làm và phải làm thì dù có trả nghiệp từ vô thỉ kiếp mà tâm vẫn bình an” .
Kính tri ân những lời vàng mà HT đã trao tặng hôm nay, con kính chúc Ngài được tứ đại thường an, Bồ đề quả mãn , Phật đạo viên thành.
Con cũng cung kính tri ân HT Viện chủ Tu Viện Quảng Đức Thích Tâm Phương và TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng nhân dịp Lễ Hiệp kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng Chu niên 32 năm khai sơn đã thỉnh mời được rất nhiều quý cao tăng giảng pháp, hội thảo, nhờ vậy mà chúng đệ tử được gieo duyên hy vọng trên trên bước đường tái sinh sẽ tiếp cận được bậc hiền trí cao tăng như quý Ngài vì mỗi người sinh ra đều có duyên nghiệp của họ tương ứng với những bài học mà pháp đưa đến.
Kính bạch HT Thích Đồng Trí, con kính xin tỏ bày điều học được :
Nay đã biết đổi thay là …bản chất đối tượng,
Nhưng duyên nghiệp nhân quả lại tương ưng
Nhận ra giá trị này…hết mọi băn khoăn
CÓ THỌ THÌ KHỔ … bài học nhận thức!
Từ khi nghe giảng không còn “ yếm thế tiêu cực”!
Chỉ là Phật dạy … Nhìn rõ cuộc đời,
Khi mê, khi tỉnh … cho thuốc theo thời
“TÁNH GIÁC CHÚNG SINH” không bao giờ thay đổi!
Kính tri ân Hoà Thượng ,
Trí Tuệ cần để mạng mạch Phật Pháp tiếp nối!
Đã biết Vô Thường không nắm giữ thói quen
Xét đoán tư duy qua mỗi chê khen
Sẽ chuyển hóa được nghiệp xấu thành tốt!
Không chán nản khi bịnh duyên nan y giờ chót !
Tâm không bịnh …lòng vẫn rỗng rang
Sẵn sàng cho ngày mai, và những khó khăn
Tin sâu nhân quả,
tin chính mình là chủ nhân của điều họa phúc!
Kính trân trọng,
Melbourne 28/10/2022
Phật tử Huệ Hương kính trình pháp