Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài suy nghĩ về sự phát triển của Đạo Phật.

09/04/201317:30(Xem: 4245)
Vài suy nghĩ về sự phát triển của Đạo Phật.


MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ PHÁT TRIỂN ÐẠO PHẬT TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ÐOẠN PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Khương quang Ðồng
Tiến sĩ Khoa học

---o0o---

Trong bài này, tôi xin trình bày một vài suy nghĩ phát triển Phật giáo tại Việt Nam trong mấy thập niên tới, giai đoạn mà Việt nam sẽ được phát triển mạnh về kinh tế, và đời sống dân chúng sẽ được sung túc hơn. Ít nhất đó là những điều mà chúng ta hy vọng. Không những hy vọng mà chúng ta còn có bổn phận đóng góp.

Ðể phát triển kinh tế, trong tình hình chính trị trên thế giới hiện tại, Việt Nam không có đường nào khác là phải hợp tác với các nước tư bản, làm ăn với các công ty xuyên quốc gia, để họ bỏ vốn đầu tư và sản xuất ở trong nước. Trong công tác này, xã hội sẽ ảnh hưởng về nếp sống và lề lối làm việc của các nước tư bản. Nghĩa là tinh thần cạnh tranh sẽ là động cơ chính của xã hội, người sẽ cạnh tranh với người trong cuộc sống, trong làm việc; xí nghiệp sẽ cạnh tranh với xí nghiệp trên thị trường quốc gia và quốc tế. Ðể tăng thêm tinh thần cạnh tranh, người ta đã đẻ ra lý thuyết là nếu muốn tiến con người phải sống với stress. Dĩ nhiên là các xí nghiệp đã áp dụng với lý thuyết này từ lâu. Họ sẽ áp dụng tại Việt Nam nếu họ bỏ vốn làm ăn tại đó. Có thể còn nhiều nguyên nhân khác.

Ðặc điểm thứ hai là thành công được coi như giá trị quan trọng nhất để đánh giá con người. Xã hội dành nhiều ưu đãi cho những người thành công và thải bỏ những người không theo kịp xã hội. Một văn sĩ Mỹ đã viết: Xã hội tư bản chỉ có chỗ đứng hạng nhất và bỏ rơi những người không được xếp hạng.

Trong bối cảnh xã hội như vậy, làm sao Phật giáo có thể phát triển được ?

Có nhiều người nghĩ rằng rất khó vì đạo Phật quá bi quan và tiêu cực.

Những người Phật tử thông hiểu giáo lý không đồng ý với nhận định này , nhận định cho rằng Phật giáo bi quan và tiêu cực. Trong khuôn khổ bài này, tôi không đặt vấn đề đúng hay sai; vấn đề dặt ra là tại sao người ta lại có những nhận định như vậy ? Có nhiều nguyên nhân:

-Có thể là hậu quả của mấy chục năm Pháp thuộc.

-Có thể là ngôn ngữ dùng và cách diễn dịch giáo lý Phật giáo được truyền bá làm người ta có nhận định như vậy.

-Có thể là phong trào Phật giáo Việt Nam không có một tổ chức năng động, không tham gia tích cực vào đời sống xã hội.

Muốn phát triển Phật giáo, điều đầu tiên là chúng ta phải thay đổi hình ảnh đó trong dân chúng.

Nếu chúng ta không sửa được văn học Việt Nam, chúng ta không viết lại được truyện Kiều, và cũng không thay đổi được lịch sử, chúng ta có thể thay đổi ngôn ngữ và lối diễn dịch giáo lý. Ðể làm sáng tỏ ý này, tôi xin đưa ra hai thí dụ .

Nếu chúng ta truyền bá trong dân chúng đế thứ nhất của tứ diệu đế qua câu “Ðời là khổ” thì đúng là đạo Phật bi quan. Chữ khổ dùng đây không biết có đúng nghĩa của Dukkha không ? Thật ra, đời không chỉ có khổ mà cũng có nhiều lúc rất đáng sống, và bổn phận của tất cả mọi người là phải làm sao để dài ra những lúc đáng sống này. Lúc khỏe mạnh, không bệnh tật là lúc đáng sống, như vậy phải làm sao cho y học tiến lên, lúc ăn no mặc ấm là lúc đáng sống như vậy phải làm sao để kinh tế phát triển.

Nếu chúng ta truyền bá đế thứ ba của tứ diệu đế qua ý “Sống phải diệt khổ, diệt ham muốn”, thì đúng là đạo Phật tiêu cực. Ham muốn có thể là nguyên nhân của khổ. Nó là nguyên nhân của khổ, nhưng nó cũng là động cơ của cuộc sống, động cơ của tiến bộ. Có gì cao quý hơn ham muốn tìm hiểu của người làm khoa học. Bà Marie Curie đã đóng góp rất nhiều cho tiến bộ xã hội nhưng cái ham muốn tìm hiểu đã làm bà ta khổ vì bệnh tật và rồi bị chết. Cuộc sống của bà có phải là gương sống của chúng ta không ?

Có gì thú vị hơn ham muốn đạt đỉnh cao nghệ thuật của người nghệ sĩ.

Có gì ích lợi hơn ham muốn thành công của người làm kinh tế, khoa học kỹ thuật.

Tôi không hiểu những điều trên có hợp với giáo lý Phật giáo không. Ðó là điều phải tìm hiểu và bàn cãi. Nhưng tôi nghĩ đó là những quan niệm sống và phát triển ở Việt Nam nếu chúng ta muốn Việt Nam có một nền kinh tế phát triển, đời sống dân chúng Việt Nam được sung túc.

Tôi xin có một đề nghị về phương pháp làm việc, không áp dụng được cho công việc nghiên cứu, nhưng có thể áp dụng được cho công việc truyền bá đạo Phật. Thay vì từ giáo lý đi xuống, chúng ta tìm hiểu nhu cầu của xã hội rồi từ đó chúng ta áp dụng uyển chuyển giáo lý vào đời sống để cho đáp ứng được nhu cầu xã hội.

Khương Quang Ðồng


---o0o---

Vi tính: Nguyệt Cung Diệu Thanh
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/08/2019(Xem: 10815)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 11001)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11474)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16496)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
10/05/2019(Xem: 13149)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
12/02/2019(Xem: 6837)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 83505)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11346)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5409)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
03/06/2018(Xem: 21941)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567