Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm thức tôn giáo trong thời hiện đại.

09/04/201317:10(Xem: 4908)
Cảm thức tôn giáo trong thời hiện đại.


CẢM THỨC TÔN GIÁO TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Trần Trung Phượng

Hiện nay, có ý kiến cho rằng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và sự lớn mạnh không ngừng của tinh thần duy lý, lãnh vực của tôn giáo - hiểu như một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội - sẽ dần dần thu hẹp lại. Cách đây độ ba chục năm, một số nhà dự báo đã tiên đoán về sự suy tàn và "cái chết" của tôn giáo trong một thế giới đã được con người "chế ngự bằng tinh thần khoa học và thực dụng. Do bởi tôn giáo chỉ là "sự phản ảnh hư ảo trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ trong cuộc sống hàng ngày", nên khi sự "phản ánh hư ảo" này không con chỗ dựa ở thực tề nữa thì tôn giáo cũng không còn có lý do tồn tại nữa. Nguồn gốc của tôn giáo, theo một quan niệm khá phổ biến, không gì khác hơn là "sự phản ánh tình trạng bất lực của co người trước các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của tự nhiên", và chấm dứt sự bất lực này cũng là để tạo điều kiện để chấm dứt sự tồn tại của tôn giáo...

Thế nhưng, chính trong thời kỳ bùng nổ khoa học-kỹ thuật như hiện nay, tôn giáo không những không "chết" đi, trái lại, còn đang chuẩn bị để "hồi sinh" mạnh mẽ vào thiên niên kỷ thứ ba sắp tới, như nhận định của John Naisbitt, tác giả của "Các xu thế vĩ mô năm 2000" (Megatrends 2000). Có thể, nếu xét cụ thể từng tôn giáo này hay tôn giáo kia, nhất là những tôn giáo có tổ chức thì sức thu hút của tôn giáo có thể giảm đi trong những thời điểm nhất định do bởi nhiều nguyên do khác nhau, từ những lý do xã hội cho đến những lý do thuộc về chính bên trong tôn giáo ấy. Song, nếu quan niệm tôn giáo như một ý thức tâm linh chứ không phải như một tổ chức hay như một giáo lý, thì hiện tượng trở về với "suối nguồn tâm linh" của nhân loại đã trở nên ngày càng phổ biến ở cả phương Đông lẫn phương Tây trong vài thập niên vừa qua. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng thế kỷ 21 sẽ là "thời kỳ phát triển tâm linh của nhân loại trên trái đất". Trong một thời đại mà khoa học-kỹ thuật phát triển như vũ bão và mang một ý nghĩa có tính chất quyết định cho sự phát triển của nhân loại như thời đại hiện nay, nhu cầu tâm linh của con người không những không giảm đi, trái lại, còn trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Và để thỏa mãn nhu cầu tâm linh không ngừng lớn mạnh này, con người đã vận dụng và sáng tạo nhiều hình thức truyền thống cho đến những hình thức đã được "đổi mới" để phù hợp hơn với những điều kiện của một thế giới hiện đại.

Phải giải thích hiện tượng nói trên như thế nào?

- Trước hết phải thấy rằng, mặc dù là một nhân tố nhận thức và là một động lực hành động quan trọng vào bậc nhất của con người, khoa học không phải là một sức mạnh vạn năng có thể giải quyết bất cứ vấn đề nào của nhân loại, nhất là những vấn đề có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến ý nghĩa sinh tồn của con người. Sự thành công của khoa học trong công cuộc khám phá, chinh phục thế giới vật chất hoàn toàn không có nghĩa là khoa học cũng sẽ thành công trong lĩnh vực tâm linh, hoặc trong việc truy tìm và thăng hoa các giá trị và ý nghĩa cuộc sống con người. Chính khi sự phát triển của khoa học được đẩy lên đến mức cao nhất, người ta mới nhận ra được sự giới hạn của khoa học, và sự giới hạn này không thể làm giảm giá trị của khoa học; bởi vì khoa học chỉ có thể làm những gì trong phạm vi khả năng mà nó cho phép. Sự đối lập giữa tôn giáo và khoa học như đã từng xảy ra trong lịch sử thật ra chỉ là một sự đối lập giả tạo khi tôn giáo kh6ng có thẩm quyền lại lên tiếng về những vấn đề thuộc phạm vi riêng của khoa học, và khoa học lại can thiệp vào những vấn đề thuộc vào bản chất và đặc trưng của tôn giáo, điều đó không có nghĩa là đem tôn giáo đối lập với khoa học, mà là để trả lại tôn giáo và khoa học những chức năng và vai trò mà cúng vốn có.

- Sự giới hạn của các lý thuyết và giải pháp trong việc giải quyết các vấn đề xã hội cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tình cảm và ý hướng tôn giáo. Cho đến nay, các lý thuyết tốt đẹp nhất về xã hội, mặc dù chứa đầy thiện chí của những người sáng lập ra nó, cũng chưa thể biến trần gian này thành một "thiên đàng tại thế", và đó cũng là một trong những "khoảng trống" để tôn giáo có thể lấp vào.

- Trong những thời kỳ có những bước ngoặt lịch sử lớn lao, khi một giai đoạn cũ đã trôi qua và một giai đoạn mới sắp sửa mở ra nhưng chưa được định hình rõ nét, con người thường rơi vào một "cảm thức quá độ" với nhiều cung bậc tình cảm và ý hướng khác nhau. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, khi thiên niên kỷ thứ hai sắp kết thúc, và thiên niên kỷ thứ ba sắp mở ra với biết bao lo âu và hy vọng, hơn bao giờ hết, con người dễ có khuynh hướng rơi vào một cảm thức đầy mâu thuẫn, trài nghịch: vừa hy vọng, tự hào với những thành quả văn minh mà mình đã đạt được trong lịch sử, lại vừa hốt hoảng, lo âu trước những tiến bộ vượt bực của mình. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ của nhân loại lại rơi vào trạng thái chân không và đó cũng chính là mảnh đất màu mở để phát sinh các cảm thức về tôn giáo. Không phải là phông có lý do mà trong những thời kỳ "chuyển tiếp vĩ đại" này, cảm thức về "hư không" đó rất dễ chuyển biến thành cảm thức về ngày tận thế, một trong những nổi ám ảnh sâu thẳm hất trong tâm hồn con người.

- Chúng ta đang sống trong một thế giới mà có người gọi là "thế giới của sự tha hóa" hoặc "vong thân" (aliennation). Đối với các quan điểm triết học có tính chất bi quan, sự truy tìm bản thể đích thực" của con người luôn luôn là một cuộc rượt bắt vô vọng, con người không thể tránh được sự tha hóa không những đối với thiên nhiên và lịch sử, mà còn đối với chính bản thân mình. Theo ý kiến của các nhà xã hội học Melvin Seeman có năm hình thức tha hóa khác nhau, đó là cảm thức về sự bất lực, vô nghĩa, phi chuẩn, cô lập và về sự tự xa lạ với chính mình. Và một khi sự tha hóa được đẩy lên đến mức cùng cực, con người có nhu cầu phải giải thoát ra khỏi sự tha hóa này bằng bất cứ hình thức nào, kể cả hình thức tôn giáo.

- Cuối cùng, cảm thức tôn giáo có thể ra đời từ sự "tranh chấp", "mâu thuẫn" ở ngay chính bên trong bản chất của con người vừa với tư cách là một "thực thể trần thế", lại vừa với tư cách là một "thực thể siêu trần thế", nhất là khi sự giải thoát ra ngoài những "ràng buộc" của trần gian (cả từ bên trong lẫn bên ngoài con người) đã trở thành một trong những nhu cầu sâu thẳm nhất ở bên trong tâm hồn con người. Theo lý thuyết về "các cấp bậc nhu cầu" của nhà tâm lý học nhân bản Abraham Maslow, ngoài các nhu cầu có tính chất sinh vật, bản ngã, xã hội và an ninh, con người còn có nhu cầu "tự thể hiện" (self-actualizing need) nhằm thực hiện một cách đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo và sự "toàn mãn" của con người. Tôn giáo, hiểu theo ý nghĩa chân chính của nó, không phải là một sự tha hóa con người bằng những hình thức ngụy tín, trái lại, đó là một phương thức do chính con người tạo ra để thực hiện sự toàn mãn ở ngay chính bên trong bản thân mình, ở sự hợp nhất với những gì mà tôn giáo cho là thiêng liêng nhất và có tính chất tối hậu. Tôn giáo không đem lại những trí thức khoa học hiểu theo nghĩa hẹp của danh từ này, mà chỉ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống và con đường dẫn đến ý nghĩa tối hậu này. Có thể nói, cảm thức tôn giáo không thể phát sinh được nếu từ bên trong bản chất của mình, con người không có nhu cầu giải thoát hoặc nhu cầu hợp nhất. Con người đúng là một "thực thể hữu hạn", nhưng lại là một thực thể hữu hạn khao khát vươn lên "cái vô hạn", và chính đó là điều kiện làm phát sinh các cảm thức về tôn giáo.

Như vậy, sống trong một thế giới được mệnh danh là "hiện đại", dù khoa học - kỹ thuật phát triển đến mức nào chăng nữa, nhưng nếu bao lâu con người vẫn còn thắc mắc về ý nghĩa của cuộc sống, vẫn còn ngạc nhiên về sự huyền bí và vô tận của vũ trụ, cũng như có nhu cầu mạnh mẽ về sự giải thoát tâm linh... thì khi đó cảm thức tôn giáo vẫn còn hiện hữu không phải như một sự dự cảm tiền khoa học về thế giới, mà như là một kinh nghiệm nội tại hoặc siêu việt của cá nhân. Kinh nghiệm tôn giáo này có một nội dung phong phú và đa dạng, tùy theo đặc điểm của từng tôn giáo một cũng như chịu ảnh hưởng rất sâu sắc từ nhân cách và lời dạy của các bậc giáo chủ. Chẳng hạn như đối với Thiên Chúa giáo, kinh nghiệm về sự hiện hữu của "thánh tính", cũng như về sự tùy thuộc của con người vào các đấng thần linh hoặc vào mộ sức mạnh siêu nhiên, kinh nghiệm về sự tội lỗi, xao xuyến, phán xét và tha thứ thường rất phổ biến ở những tín đồ của đạo này. Trong khi đó, ở Phật giáo, kinh nghiệm về sự giải thoát tâm linh trong quá trình tu chứng đã được khẳng định và phổ biến ở nhiều thế kỷ.

Chính do bởi tính đa dạng (và cả tính đơn nhất, không lặp lại) của kinh nghiệm tôn giáo mà chúng ta chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều giáo phái ở khắp nơi trên thế giới với những "giáo chủ" tự xưng bằng nhiều tên gọi khác nhau, từ những tên gọi thông thường cho đến những danh xưng mang đầy màu sắc thần bí. "Vấn đề tôn giáo", do đó không chỉ thu hẹp trong phạm vi các tôn giáo truyền thống mà còn mở rộng ra bên ngoài khuôn khổ của các tôn giáo có tổ chức này, để trở thành một vấn đề xã hội chứ không đơn thuần mang tính chất tôn giáo. Từ đó nảy sinh ra một vấn đề quan trọng là làm để phân biệt được những kinh nghiệm, cảm thức tôn giáo dẫn đến sự thăng hoa và giải thoát thật sự cho con gười; và đâu là những "cảm thức tôn giáo" có tính chất hư ngụy, có thể dẫn đến sự sa đạo của con người. đôi khi ranh giới giữa ai loại cảm thức tôn giáo này chỉ là một khoảng cách mong manh, mà nếu không nắm được bản chất và tinh hoa của tôn giáo, chúng ta rất dễ xóa nhòa và dễ đi vào con đường lạm dụng tôn giáo. Ở đây, tiêu chuẩn quan trọng dùng để phân biệt, đó là tác động của cảm thức tôn giáo đối với quá trình phát triển tâm linh của con người mà Đức Phật dạy là: Mỗi người hãy tự trực nhận cái hiện hữu thánh thiện (presence of the devine) ngay trong chính con người của mình, chứ không phải ở một đấng siêu nhiên hay một Thượng đế toàn năng nào bên ngoài con người. Nếu quá trình phát triển này bị bế tắc hoặc gặp trở ngại thì cò lẽ "cảm thức tôn giáo" đã rơi vào con đường hư ngụy, không có khả năng tạo nên sự chuyển hóa nội tâm. Ngoài ra sự tác động tích cực hoặc tiêu cực đến đời sống xã hội của cảm thức tôn giáo cũng là một tiêu chuẩn khác cần vận dụng...


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/02/2020(Xem: 4344)
Trong xã hội văn minh, hiện đại ngày nay, con người đã đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật cao, điều đó cho phép con người lý giải được nhiều hiện tượng tự nhiên mà trước đây chưa thể giải thích được. Điều đó cũng khiến cho con người cho rằng mình đã chế ngự được tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục tùng và vì thế con người cũng làm nhiều việc trái với tự nhiên, khai thác, bóc lột tự nhiên một cách thái quá làm ảnh hưởng, tác động đến chính cuộc sống của mình.
06/01/2020(Xem: 10748)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
04/01/2020(Xem: 7156)
Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.
04/01/2020(Xem: 8180)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
08/12/2019(Xem: 23809)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 23476)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
22/11/2019(Xem: 22930)
Nam mô ADIĐÀ PHẬT , xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu : “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “: 1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ? 2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏
08/11/2019(Xem: 13377)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
29/08/2019(Xem: 10623)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10829)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567