Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Ý Nghĩa Của Việc Cầu Nguyện

01/01/201109:04(Xem: 7491)
23. Ý Nghĩa Của Việc Cầu Nguyện

Ý NGHĨA CỦA VIỆC CẦU NGUYỆN

Thiên nhiên thì không thiên vị; nó không thể được tâng bốc bằng những sự cầu nguyện. Nó không đảm bảo được bất kỳ những đặc ân nào khi yêu cầu.

Con người không phải là một sinh vật bị sa ngã để vang xin cho những nhu cầu khi anh ta chờ đợi lòng từ bi ban bố. Theo Phật giáo, con người là một bậc đạo sư đầy đủ khả năng kiểm soát chính mình. Chỉ vì sự vô minh tìm ẩn sâu kín trong tâm của anh ta, mà anh ta không nhận ra khả năng đầy đủ ẩn náu trong mình. Bởi vì Ðức Phật đã chỉ ra năng lực tìm ẩn bên trong này, nên con người phải tu tập tâm và cố phát triển tâm bằng cách nhận ra khả năng bẩm sinh của anh ta.

Phật giáo ban cho con người những khả năng, trách nhiệm đầy đủ và chân giá trị. Chính vì thế khiến cho con người trở thành bậc đạo sư của chính mình. Theo Phật giáo, không có một chúng sanh nào cao hơn ngồi đó để phán xét những lợi ích và thân phận của con người. Ðiều đó có nghĩa là cuộc sống của chúng ta, xã hội chúng ta, thế giới chúng ta là những gì các bạn và tôi muốn tìm hiểu về nó và không phải những gì mà một chúng sanh vô hình muốn nó phải là.

Hãy nên nhớ rằng Thiên nhiên thì không thiên vị; nó không thể được tâng bốc bằng những sự cầu nguyện. Nó không đảm bảo được bất kỳ những đặc ân đặc biệt nào khi yêu cầu. Do vậy trong Phật giáo cầu nguyện là thực hành thiền định lấy đối tượng tự chuyển hoá lục mục tiêu. Cầu nguyện trong thiền định là sự phục hồi bản chất tự nhiên của con người. Ðó là sự chuyển hoá bản chất nội tâm của con người được thành tựu bởi sự thanh tịnh hoá của ba nghiệp thân, khẩu và ý. Thông qua thiền định, chúng ta có thể hiểu rằng ‘chúng ta trở thành những gì chúng ta suy nghĩ’ tương xứng với những phát minh của tâm lý học. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta kinh qua một sự nhẹ nhõm trong tâm của chúng ta; đó là hậu quả tâm lý mà chúng ta đã tạo thông qua niềm tin và sự thành kính, tận tâm của chúng ta. Sau khi tụng một số bài kệ, chúng ta cũng kinh qua một kết quả tương tự. Danh hiệu và những biểu tượng tôn giáo quan trọng tới mức độ mà chúng có thể giúp phát huy lòng tự tin và sự nhiệt tâm.

Chính Ðức Phật cũng đã bày tỏ một cách rõ ràng rằng không phải do cầu nguyện những bộ thánh điển hoặc là tự ép xác, hoặc là ngủ trên đất, lặp đi lặp lại việc cầu nguyện, thi kệ, chú thuật, bùa, hành xác để hối lỗi, niệm thần chú và cầu khẩn mà chúng ta có thể đạt được niềm an lạc, hạnh phúc của Niết-bàn.

Xem như việc sử dụng cầu nguyện phục vụ cho mục tiêu đạt quả vị cứu cánh, một thuở nọ Ðức Phật đưa ra một phép loại suy về một con người muốn vượt qua một dòng sông. Nếu anh ta ngồi xuống và cầu nguyện van nài rằng bờ bên kia của dòng sông sẽ đến gần với anh ta và mang anh ta sang sông, thì lúc đó sự cầu nguyện của anh ta không được đáp ứng. Nếu anh ta thực sự muốn vượt qua khỏi sông để đến bờ bên kia, thì anh ta phải nỗ lực làm một số việc như phải tìm những khúc củi và đóng một chiếc bè hoặc là tìm xem có cây cầu nào không hoặc là đóng một chiếc thuyền hoặc là bơi qua. Bằng cách này hay cách khác anh ta phải vượt qua bờ bên kia của con sông. Ngược lại, nếu anh ta muốn vượt qua con sông của sanh tử luân hồi, thì những hành động cầu nguyện suông không đủ khả năng đưa anh ta vượt qua con sông đó. Anh ta phải nỗ lực, làm việc chăm chỉ bằng cách sống một đời phạm hạnh, kiềm chế lòng tham, thanh tịnh tâm ý và đoạn trừ hết tất cả những cấu uế và bất tịnh trong tâm. Chỉ khi đó anh ta mới có thể đạt được mục đích cứu cánh. Việc cầu nguyện suông sẽ không bao giờ đưa anh ta đến mục đích cứu cánh.

Nếu sự cầu nguyện là cần thiết, thì chúng ta nên sử dụng nó để làm tăng thêm sức mạnh của tâm chứ không thể để van xin lợi dưỡng. Lời cầu nguyện sau đây của một nhà thơ nổi tiếng, dạy chúng ta cách cầu nguyện, người Phật tử xem lời cầu nguyện này như là việc định tâm để tu tập.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/11/2020(Xem: 9102)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 24295)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13406)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 10824)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 12107)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 13635)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
29/02/2020(Xem: 4905)
Trong xã hội văn minh, hiện đại ngày nay, con người đã đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật cao, điều đó cho phép con người lý giải được nhiều hiện tượng tự nhiên mà trước đây chưa thể giải thích được. Điều đó cũng khiến cho con người cho rằng mình đã chế ngự được tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục tùng và vì thế con người cũng làm nhiều việc trái với tự nhiên, khai thác, bóc lột tự nhiên một cách thái quá làm ảnh hưởng, tác động đến chính cuộc sống của mình.
06/01/2020(Xem: 12949)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
04/01/2020(Xem: 8413)
Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.
04/01/2020(Xem: 9425)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]