Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mục Đích Của Giáo Dục Phật Giáo

18/05/201102:21(Xem: 9768)
Mục Đích Của Giáo Dục Phật Giáo

Buddha_15


Mục Đích Của Giáo Dục Phật Giáo

Tác giả: Tỳ Kheo Bodhi

Người dịch: Huỳnh Kim Quang


(Lời giới thiệu: Bài viết dưới đây là của Tỳ Kheo Bodhi. Theo từ điển điện tử Wikipedia, Tỳ Kheo Bodhi (Bhikkhu Bodhi) thế danh là Jeffrey Block, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1944 tại New York. Xuất gia tại Sri Lanka theo truyền thống Nam Truyền Phật Giáo. Ngài hiện dạy tại New YorkNew Jersey. Ngài được mời làm chủ tịch thứ 2 của Hội the Buddhist Publication Society và đã xuất bản nhiều tác phẩm Phật học. Sau đây là phần Việt dịch từ bài viết “Aims of Buddhist Education” của Tỳ Kheo Bodhi.)

Lý tưởng mà nói, giáo dục là phương tiện chính để phát triển con người, đặc biệt để chuyển hóa trẻ em thất học trở thành người lớn thuần thục và có trách nhiệm. Tuy nhiên, cho đến nay, ở khắp mọi nơi, cả trong thế giới đã phát triển và đang phát triển, chúng ta có thể chứng kiến nền giáo dục chính thống đang trong tình trạng bất ổn nghiêm trọng. Giảng dạy học đường trở thành cố hũ đến đỗi mà trẻ em thường xem học đường như là nơi thực tập kiên nhẫn hơn là sự tiến bộ kiến thức. Ngay cả những học sinh thông minh và tận tâm nhất cũng dễ dàng trở thành lười biếng, và đối với nhiều em chỉ còn hứng thú trốn chạy vào con đường nguy hiểm của nghiện ngập hút xách, tình dục, và bùng nổ bạo động vô cảm. Các thầy cô giáo cũng cảm thấy khó xử, không hài lòng với hệ thống mà họ phục vụ nhưng không thể tìm thấy một sự thay đổi nào khác có ý nghĩa.

Một lý do chính cho trình trạng đau buồn này là sự thiếu vắng cái nhìn đối với mục đích chính của giáo dục. Chữ “giáo dục” có nghĩa là “làm phát sinh ra,” tức là nhiệm vụ thật sự của công tác này là lôi ra từ trong tâm thức khả tính bản hữu của sự hiểu biết. Sự ham thích học hỏi, hiểu biết và thông thạo là nét căn bản của con người, cũng như bản tính tâm thức của chúng ta về sự đói khát của cơ thể. Tuy nhiên, trong thế giới hỗn loạn ngày nay, sự khát khao học tập thường bị đánh lạc bởi sự tráo trở đạo đức làm tổn thất toàn bộ xã hội. Giáo dục chỉ như sự ham muốn của chúng ta đối với thực phẩm bị khai thác bởi kỹ nghệ thức ăn nhanh với những món ăn khoái khẩu chẳng có chút giá trị dinh dưỡng nào, học đường của chúng ta cũng thế, tâm thức của tuổi trẻ bị tước đoạt dinh dưỡng mà họ cần để phát triển khỏe mạnh. Trong giáo dục, học sinh được dạy những môn học của kiến thức tiêu chuẩn hóa nhằm làm cho họ trở thành những kẻ bầy tôi trung thành của hệ thống xã hội mất phẩm chất. Trong khi nền giáo dục như thế có thể cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định xã hội, thì nó lại làm quá ít để hoàn tất sự học hỏi cao hơn, sự chiếu rọi vào tâm thức với ánh sáng của sự thật và điều thiện.

Nguyên nhân chính tạo ra vấn đề của nền giáo dục chúng ta là “việc thương mại hóa” giáo dục. Mô thức phát triển kỹ nghệ của xã hội, ngày nay mở rộng vào các xã hội ở Nam và Đông Nam Á, những nhu cầu mà hệ thống giáo dục chuẩn bị cho học sinh trở thành các công dân sản xuất trong trật tự kinh tế được điều hành bởi lợi quyền tối đa. Quan niệm về mục đích giáo dục như thế là hoàn toàn khác biệt từ sự kiên định với những nguyên tắc Phật Giáo. Chắc chắn nền giáo dục Phật Giáo có hiệu quả thực sự. Đối với đề xuất của Phật Giáo về con đường trung đạo thừa nhận rằng ước vọng tâm linh cao cả phải dựa trên một thân thể khỏe mạnh và xã hội an toàn. Nhưng với Phật Giáo, khía cạnh giáo dục thực sự phải được hợp nhất; với những đòi hỏi khác được đề ra để mang khả tính của con người tới sự trưởng dưỡng trong phương cách mà Đức Phật đã khai thị. Trên hết, chính sách giáo dục được hướng dẫn bởi các nguyên lý Phật Giáo là phải nhằm mục đích truyền đạt những giá trị phổ quát. Nó phải dẫn tới, không chỉ việc phát triển năng khiếu xã hội và thương mại, mà còn bồi bổ cho học sinh những hạt giống cao thượng của tâm linh.

Kể từ khi xã hội thế tục hiện đại tuyên bố rằng nền giáo dục quy ước tập trung vào việc chuẩn bị nghề nghiệp cho học sinh, trong một quốc gia Phật Giáo như Sri Lanka trách nhiệm tiên khởi cho việc truyền đạt những nguyên lý của Giáo Pháp cho học sinh đã tự động sút giảm tại các trường Phật Pháp. Giáo dục Phật Giáo tại những trường Phật Pháp nên được quan tâm trên hết với sự chuyển hóa cá tính. Từ khi cá tính con người được hun đúc bởi những giá trị, và các giá trị được chuyên tải bởi lý tưởng khích lệ, nhiệm vụ đầu tiên của những nhà giáo dục Phật Giáo là quyết định lý tưởng của hệ thống giáo dục của họ. Nếu chúng ta chuyển những bài giảng của đức Phật vào sự nghiên cứu lý tưởng đúng cho cuộc sống của một người con Phật, chúng ta sẽ tìm thấy 5 phẩm tính mà đức Phật thường nhấn mạnh như là những dấu hiệu của một người đệ tử kiểu mẫu, bất kể là tăng, ni hay cư sĩ. Năm phẩm tính này là chánh tín, đức hạnh, khoan dung, học hỏi và trí tuệ. 2 phẩm tính trong 5 phẩm tính nói trên – chánh tín và khoan dung – liên hệ tới cái tâm: chúng liên quan tới việc thuần thục khía cạnh cảm xúc của nhân tính. 2 phẩm tính liên quan tới kiến thức: học hỏi và trí tuệ. Phẩm tính thứ 2, đức hạnh hay đạo đức, có phần trong cả 2 mặt của cá tính con người: 3 giới đầu trong 5 giới từ việc sát sanh, trộm cắp, và tà dâm -- khống chế cảm xúc; các giới tiết chế sự nói dối và uống rượu say sưa giúp phát triển sự trong sáng và thành thật đối với việc nhận thức sự thật. Giáo dục Phật Giáo như thế là nhắm mục đích chuyển hóa cá tính và kiến thức con người, giữ quân bình cả hai và đảm bảo cả hai cùng được đưa tới sự hoàn thiện.

Toàn bộ hệ thống giáo dục Phật Giáo phải được bắt rễ trong chánh tín – chánh tín vào Tam Bảo, và trên hết vào đức Phật như là đấng Toàn Giác, vị đạo sư và vị hướng đạo tối thượng dẫn tới chánh mạng và chánh kiến. Dựa vào chánh tín này, các học sinh phải được khích lệ để hoàn thiện đức hạnh bằng cách thực hành theo những hướng dẫn đạo đức bao gồm trong Ngũ Giới. Họ phải đạt đến hiểu biết về năm giới, để thấu rõ các lý do tại sao họ phải thực hành chúng, và biết cách để áp dụng chúng trong những hoàn cảnh khó khăn của đời sống hàng ngày. Quan trọng nhất, họ nên thích thú với những đức hạnh tích cực mà năm giới tượng trưng: lòng tể tế, thành thật, trong sạch, chân thật, và tiết độ tinh thần. Họ cũng phải đạt được tấm lòng khoan dung và xả kỷ, để vượt qua sự ích kỷ, tham lam và chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân mà bỏ quên xã hội. Đánh động việc hoàn thiện lý tưởng khoan dung là phát triển lòng từ bi và hòa giải, là những phẩm tính thủy chung trong suốt cả cuộc đời hóa đạo của đức Phật. Điều đó dạy cho chúng ta biết sự hợp tác là tốt hơn cạnh tranh, vị tha tốt hơn tham vọng, và điều thiện của chúng ta được thành đạt qua sự hòa hợp và việc thiện hơn là qua sự lợi dụng và khống chế người khác.

Phẩm tính thứ 4 và thứ 5 cùng song hành với nhau. Qua việc học hỏi là phương tiện đạt được kiến thức rộng lớn với các kinh điển Phật Giáo có được nhờ đọc và nghiên cứu chăm chỉ. Nhưng chỉ có sự học hỏi không thôi thì không đủ. Kiến thức chỉ được hoàn hảo khi nào nó phục vụ như là chiếc bè cho trí tuệ, là sự trực thức của cá nhân vào chân lý của Chánh Pháp. Dĩ nhiên, trí tuệ cao hơn để thành tựu Bát Chánh Đạo thì không dựa vào trong phạm vị của trường Phật Pháp. Trí tuệ này phải được phát triển bởi sự huấn luyện tâm linh có phương pháp trong chỉ và quán, là đôi cánh của thiền Phật Giáo. Nhưng nền giáo dục Phật Giáo có thể đi xa hơn trong việc đặt nền tảng đối với trí tuệ này bằng cách gạn lọc những nguyên lý được thẩm thấu bởi sự quán chiếu. Trong mối tương quan chặt chẽ giữa học hỏi và trí tuệ, cái cũ cung ứng căn bản cho cái mới. Trí tuệ hưng phát bằng việc thực hiện lý tưởng và nguyên lý có hệ thống được học hỏi qua nghiên cứu cơ cấu của tâm thức, đòi hỏi sự suy tư sâu sắc, thảo luận sáng suốt, và nghiên tầm sắc bén.

Đó là trí tuệ mà đức Phật đã dùng như là phương tiện trực tiếp đưa tới sự giải thoát cứu cánh, như là chìa khóa mở cánh cửa Niết Bàn bất diệt, và cũng như là hướng dẫn chính xác đưa tới sự thành tựu việc thích ứng với những thách thức của đời sống thế tục. Trí tuệ như thế là tối thượng của toàn bộ hệ thống giáo dục Phật Giáo, và tất cả những bước căn bản trong hệ thống giáo dục Phật Giáo nên ăn khớp với đức tính tối thượng này. Đó là với bước căn bản này thì giáo dục đạt được sự hoàn thiện, và rằng nó trở nên rực rỡ trong ý nghĩa thực và sâu xa nhất, như được dạy bởi đức Phật trong đêm Ngài Thành Đạo, “Trong ta khởi lên tri kiến, hiểu biết, trí tuệ, liễu ngộ, và ánh sáng.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2023(Xem: 4768)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?
16/05/2023(Xem: 3476)
Được sự tài trợ bởi Quỹ Từ thiện Glorisun, Hội thảo này được điều hành bởi Mạng lưới Nghiên cứu Toàn cầu Glorisun (https://glorisunglobalnetwork.org) và FROGBEAR (www.frogbear.org) tại Đại học British Columbia, và được tổ chức bởi Đại học British Columbia. Hồng Kông. Sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 09-12 tháng 08 năm 2023 tại Hồng Kông.
03/05/2023(Xem: 7602)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
24/04/2023(Xem: 2868)
Đạo Phật và Cơ đốc giáo đều được khai sáng bởi những bậc Đạo sư tâm linh vĩ đại, những người đã tìm cách đưa ra con đường dẫn đến sự giải thoát và cứu rỗi. Thuật ngữ các Ngài sử dụng thường khá khác nhau. Ngoài ra, đo hoàn cảnh khác nhau mà các Ngài hóa thân, giáo lý của các Ngài đã dạy những con đường khác nhau và đối với tâm kinh nhấn mạnh những cách tiếp cận khác nhau.
21/04/2023(Xem: 8699)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
21/04/2023(Xem: 2908)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80). Đến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng đã thuận theo định luật vô thường mà lão hóa. Năm ấy Ngài ở tại rừng cây Sala tại Kushinagar (Kusinara, Câu-thi-na), nơi Đức Phật nhập diệt. Trước khi rời bỏ xác thân tứ đại giả hợp, Ngài gọi tôn giả A Nan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Đức Ngài đến và phán rằng:
20/04/2023(Xem: 9743)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
12/04/2023(Xem: 3705)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
22/03/2023(Xem: 3446)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
18/03/2023(Xem: 6359)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567