Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV. Nguồn sử liệu và phương pháp viết sử

05/04/201313:09(Xem: 7184)
IV. Nguồn sử liệu và phương pháp viết sử
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

IV. Nguồn Sử Liệu Và Phương Pháp Viết Sử

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


Như đã thấy, cho đến những năm 1310 tình trạng sử liệu Phật giáo Việt Nam tương đối đã bị thất lạc một phần lớn, dẫn tới những phát biểu lịch sử rời rạc và thiếu sót trong Lược dẫn thiền phái đồ. Từ đó nảy sinh một ý thức và một nỗ lực mới nhằm giải quyết tình trạng ấy mà kết quả là sự ra đời của Thiền uyển tập anh. Để viết nó, người viết đã sưu tầm lại được một số lớn tài liệu, mà chủ yếu là gồm hai loại sau đây. Thứ nhất là những tác phẩm sử học Phật giáo Việt Nam ra đời trước nó như Chiếu đối lục của Thông Biện và Biện Tài, Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu và Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Đây là loại tư liệu cơ sở mà Thiền uyển tập anh đã dùng. Tiếp đến là loại tư liệu phụ bao gồm những tác phẩm sử học Việt Nam như Sử ký và Quốc sử, những tác phẩm của những tác gia Việt Nam kể cả những tác phẩm của các thiền sư, mà nó viết tới, những tài liệu trong bia, và cuối cùng là những tác phẩm thiền tông Trung Quốc, mà nổi bật nhất là Truyền đăng lục của Đạo Nguyên


1. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU CƠ SỞ

Về loại thứ nhất thì Chiếu đối lục không được Thiền uyển tập anh trực tiếp dẫn ra như một sử liệu kiểm soát những sử liệu khác. Điều này có nghĩa, hoặc Chiếu đối lục đã không được tác giả nó dùng đến, hoặc ngược lại, tác giả nó đã sử dụng Chiếu đối lục như một sử liệu chính để viết về những vị thiền sư ghi trong nó. Hai trường hợp này, chúng tôi nghĩ trường hợp sau tỏ ra gần sự thật hơn, bởi vì trong một chú thích ở truyện Định Huệ tờ 53b1, Thiền uyển tập anh viết: “Xét Nam tông tự pháp đồ nói Huệ là pháp tự của Vạn Hạnh, điều này sợ sai, nay cứ bản truyện”. Ta biết Định Huệ là thầy của Huệ Sinh, mà Huệ Sinh thì được Thông Biện nhắc tới trong buổi thuyết trình vào ngày 15 tháng 2 năm Hội Phong thứ 5 (1096). Do thế, Huệ Sinh cũng như Định Huệ chắc chắn phải được Biện ghi lại trong Chiếu đối lục. Cái gọi là bản truyện trong chú thích vừa dẫn mà tác giả Thiền uyển tập anh dựa và để nghi ngờ lối xếp đặt của Nam tông tự pháp đồ về thứ tự thừa kế của Huệ hẳn phải xuất phát từ Chiếu đối lục đó, chứ không thể một nơi nào khác. Bởi vì xuất phát từ đấy, nó mới có một sức thuyết phục tác giả Thiền uyển tập anh về sự đúng đắn của nó hơn Nam tông tự pháp đồ.

Dẫu sao chăng nữa, Chiếu đối lục là một tác phẩm chung của Thông Biện và Biện Tài. Chúng tôi nói là tác phẩm chung vì lẽ tác phẩm của Thông Biện nguyên có tên là Chiếu đối bản, như truyện Thần Nghi, tờ 40a9 đã ghi, còn Chiếu đối lục thực sự là tên của một tác phẩm của Biện Tài do vua ra lệnh “biên tu”, nhưng Biện Tài là học trò nối pháp của Thông Biện. Do thế, Chiếu đối lục thực chất là do Chiếu đối bản mà nhào nặn nên, và không khác gì nó cho lắm, để sau này, trong lịch sử truyền thừa, Thường Chiếu đã dùng Chiếu đối bản của Thông Biện để truyền lại cho đệ tử của mình là Thần Nghi. Bản truyền này dù vẫn gọi là Chiếu đối bản chúng tôi chắc rằng nó cũng bao gồm cả những “biên tu” do vua ra lệnh cho Biện Tài. Ngày nay, cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã mất, nên ta không thể bàn cãi gì thêm về những nội dung của chúng được. Song nếu cách hiểu trên của chúng tôi về chữ “bản truyện” trong chú thích vừa dẫn trước được chấp nhận, thì Chiếu đối bản lẫn Chiếu đối lục chủ yếu là ghi lại một cách đơn sơ những nét chính về cuộc đời của các vị thiền sư Việt Nam từ Tỳ Ni Đa Lưu Chi trở xuống cho tới Viên Chiếu (999-1090) và Huệ Sinh (?-1064), sau khi đã mở đầu bằng một giới thiệu đại cương về lai lịch và nguồn gốc của Phật giáo Việt Nam từa tựa như những gì mà Thông Biện đã thuyết trình trong buổi hội năm 1096 nói trên.

Về Nam tông tự pháp đồ, tác giả Thiền uyển tập anh dẫn ra cả thảy bốn lần, trong đó ba lần gọi tắt là Nam tông đồ ở những truyện Không Lộ tờ 25b11, truyện Ma Ha, tờ 51a5 và truyện Định Giác tờ 72a1, còn một lần gọi đủ tên trong truyện Định Huệ, tờ 53b1 dẫn trước. Căn cứ vào những dẫn chứng ấy, ta có thể rút ra hai kết luận khá rõ rệt về vị trí cũng như nội dung nó trong liên hệ với Chiếu đối lục. Thứ nhất, nó không phải là một chép lại hoàn toàn và y nguyên văn những gì Chiếu đối lục đã ghi. Điều này thể hiện dứt khoát nhất trong những dẫn chứng ở truyện Ma Ha và truyện Định Huệ. Ma Ha theo nó là thuộc pháp tự của Nam Dương, nhưng Thiền uyển tập anh đã xếp ông vào hàng đệ tử của Pháp Thuận. Việc xếp đấy tất phải đến từ Chiếu đối lục bởi vì ngoài Chiếu đối lục, nó không có một tài liệu nào khác có thể giúp xếp đặt được, mà ta có thể biết. Về Định Huệ thì ta đã bàn cãi ở trên. Thứ hai, vì nó không là một sao chép hoàn toàn Chiếu đối lục, Nam tông tự pháp đồ do thế đã có tham vọng trở thành một cuốn sử thứ hai song hành với Chiếu đối lục. Thực vậy, cũng cứ vào những dẫn chứng trên, thì nó đã không ghi lại tiểu sử và hệ phái không những của những người sống từ thời Thông Biện (?-1134) đến thời tác giả nó là Thường Chiếu (?-1203) một điều Chiếu đối lục không thể làm được, mà còn của những người đã được Thông Biện và Biện Tài chép ở Chiếu đối lục .

Như thế, qua hai kết luận đó thì Nam tông tự pháp đồ rõ rệt có tham vọng trở thành một cuốn sử đầy đủ và có thể thay thế cho Chiếu đối lục. Nội dung nó do vậy không phải chỉ đơn thuần bao gồm những bản đồ chỉ ra thứ tự các thế hệ truyền pháp của các dòng thiền Việt Nam, mà còn bao gồm chắc chắn cả những tiểu truyện về họ ghi rõ nơi ở, quê quán, niên đại, và hành tích nếu có, của họ. Có lẽ nhờ viết nó trên một qui mô loại đó, nên đến hậu bán thế kỷ 15 Lương Thế Vinh (1441-?) đã viết tựa cho việc in lại, như Văn tịch chí của Lịch triều hiến chương loại chí 45 tờ 105a6-7 đã ghi. Truyền bản của nó, qua bản in có bài tựa của Lương Thế Vinh chắc chắn đang còn lưu hành vào tiền bán thế kỷ thứ 19, lúc Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí bởi vì chính trong tác phẩm ấy Chú nói đến việc “Nam tông tự pháp đồ, 1 quyển, thầy Viên Chiếu soạn, trạng nguyên Lương Thế Vinh viết tựa”, một điều mà Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn không chép ra. Có thể, Đôn chưa có dịp thấy Nam tông tự pháp đồ như một truyền bản. Ông chỉ ghi lại nó theo những gì mà Thiền uyển tập anh đã báo cáo mà thôi.

Cuối cùng là Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Cả Chiếu đối lục lẫn Nam tông tự pháp đồ hình như cung ứng cho Thiền uyển tập anh những xương sườn tiểu sử của các vị thiền sư. Còn việc viết nên những tiểu sử như chúng xuất hiện ngày nay trong Thiền uyển tập anh, tác giả chúng đã phải dùng đến Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Nguyên do cho một suy nghĩ như vậy bắt nguồn từ hai trường hợp khá đặc biệt sau đó là truyện Tịnh Không và truyện Nguyện Học. Đặc diểm nổi bật nhất của hai truyện ấy là chúng có hoặc cơ duyên thoại ngữ, hoặc kệ thị tịch giống với cơ duyên thoại ngữ hoặc kệ thị tịch trong Truyền đăng lục của Đạo Nguyên. Cho nên, cuối truyện Tịnh Không, Thiền uyển tập anh đã viết câu chú ở tờ 29a5-6 thế này: “Cơ duyên thoại ngữ của truyện này cùng với truyện của hòa thượng Giáp Sơn trong Truyền đăng rất hiệp, nay xét Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật thì đều đã chép đủ, nên không dám cải chính”. Còn ở truyện Nguyện Học, nó viết ở tờ 36a9: “Truyện này cùng với truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng đại khái giống nhau. Nay cứ vào những gì do Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật chép”.

Bằng hai chú thích đó, ta có thể rút ra hai kết luận khá rõ rệt, đấy là 1- Chính Liệt tổ yếu ngữ đã cung cấp những “yếu ngữ”, tức những lời nói chính yếu của các Tổ sư cho Thiền uyển tập anh, và 2- Tác giả Thiền uyển tập anh có một đánh giá cao về quyền uy của những gì do Liệt tổ yếu ngữ ghi lại. Về kết luận thứ nhất, mặc dù truyện của các thiền sư khác không ghi là yếu ngữ của họ lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ, chúng tôi nghĩ chúng ta phải giả thiết là một sự thực như thế đã xảy ra. Lý do cho một giả thiết đó nằm ở chỗ không lẽ Liệt tổ yếu ngữ chỉ độc nhất chép yếu ngữ của Tịnh Không và Nguyện Học mà thôi chăng. Đương nhiên, nó không chỉ gồm yếu ngữ của hai người ấy. Vì nó còn chép lại yếu ngữ của những vị khác có tên trong Thiền uyển tập anh, nên ngay khi cả yếu ngữ của Tịnh Không và Nguyện Học không gì hơn là yếu ngữ của Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục của Đạo Nguyên nó vẫn được chấp nhận là đã chép trung thực yếu ngữ của những vị đó. Do thế, tác giả Thiền uyển tập anh đã có thể “dựa vào” những gì Liệt tổ yếu ngữ chép, mà “không dám cải chính” chúng. Ông đã đánh giá rất cao quyền uy của tác phẩm đấy.

Điều đáng ngạc nhiên là, ngoài Thiền uyển tập anh ra không thấy một tác giả nào khác nhắc tới Liệt tổ yếu ngữ. Ngay cả tác giả nó là Huệ Nhật, ta ngày nay hiện chưa phát hiện được một tài liệu nào có ghi tên đó. Dẫu thế, chúng tôi nghi Huệ Nhật là người cùng thời với Ứng Thuận, vì lẽ những người kế thừa cuối cùng của hai dòng thiền Pháp Vân và Kiến Sơ như Tức Lự, Hiện Quang và Y Sơn thì đều có ghi “yếu ngữ” của họ cả, trừ một mình Ứng Thuận, là người kế thừa cuối cùng nhất của dòng thiền Kiến Sơ đã không có ghi lại một yếu ngữ nào. Nói khác đi, Huệ Nhật đã không gồm Ứng Thuận vào số những vị tổ mà mình chọn lọc yếu ngữ. Dĩ nhiên, không phải chỉ một mình Ứng Thuận là không có yếu ngữ trong Thiền uyển tập anh. Điểm đáng kể là ông là người nối dõi sau cùng dòng thiền Kiến Sơ và là một trong vị khai sáng ra dòng thiền Trúc Lâm, mà lại không có yếu ngữ. Đó là lý do cho ta đề nghị Huệ Nhật sống cùng thời với Ứng Thuận và viết Liệt tổ yếu ngữ khoảng những năm 1250 trở đi.

Về nội dung, thì trong số 68 vị thiền sư thuộc hai dòng thiền Pháp Vân và Kiến Sơ có tên trong Thiền uyển tập anh thì có 13 vị là không có một yếu ngữ nào hết. Lối văn mô tả cuộc đời 13 vị đó mang nặng tính chất biền ngẫu của loại văn bia. Còn lại 55 vị kia thì đều có yếu ngữ dưới một hình thức này hay nọ, trong đó riêng về Viên Chiếu, thì có lẽ là không, chứ tất cả những vị khác, Thiền uyển tập anh rút yếu ngữ của họ ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Thật ra, dẫu ta muốn có một nguồn tài liệu khác cho nó rút ra, ta hiện cũng không thể đề nghị đích danh nguồn tài liệu đấy được. Từ đó, nội dung của Liệt tổ yếu ngữ ghi chép lại những lời nói chính yếu của khoảng 54 vị thiền sư hiện có tên trong Thiền uyển tập anh. Vấn đề ta chưa thể giải quyết là Huệ Nhật đã lấy tài liệu ở đâu để viết nên Liệt tổ yếu ngữ.


2. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU PHỤ

Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu sơ ba tư liệu chủ yếu, đấy là Chiếu đối lục của Thông Biện và Biện Tài, Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu và Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, mà tác giả Thiền uyển tập anh đã dùng để viết tác phẩm mình. Trong số ba tư liệu đây thì Chiếu đối lục và Nam tông tự pháp đồ cung cấp cho ông những dữ kiện tiểu sử như nơi ở, quê quán, niên đại và hành tích còn Liệt tổ yếu ngữ giúp ông có được những đối thoại giữa các thầy trò thiền sư cũng như những bài thơ và những bài kệ thị tịch và thị chúng. Ngoài những tư liệu cơ sở ấy, ông còn tham cứu và sử dụng bốn loại tư liệu phụ sau mà Thiền uyển tập anh ghi rõ lại tên hay để lại một số dấu vết và ta có thể suy luận ra.

Hầu hết là những tư liệu lịch sử chính trị Việt Nam, về loại này Thiền uyển tập anh đã dẫn rõ hai tên, đó là Quốc sử và Sử ký. Quốc sử được dẫn ba lần ở những truyện Tịnh Giới tờ 34b7, truyện Vạn Hạnh tờ 53a8 và truyện Đạo Hạnh tờ 56b2. Cứ vào hai lần dẫn sau, ta có thể chắc chắn là, Quốc sử, đấy không chỉ tác phẩm nào khác hơn là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, tức bộ sử cổ Trần Thái Tông sai Hưu trùng tu lại bộ sử của Trần Chu Phổ và đến năm 1272 mới hoàn thành dưới triều Trần Thánh Tông, “chép việc từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, phàm 30 quyển”. Thực vậy, lấy lần dẫn ở truyện Đạo Hạnh làm thí dụ. Thiền uyển tập anh viết: “Xét Quốc sử thì năm Hội Tường Đại Khánh thứ 8 (1117) các con của Sùng Hiền Hầu, Thành Khánh Hầu, Thành Chiêu Hầu, Thành Quảng Hầu và Thành Hưng Hầu được đón vào trong cung để nuôi dạy. Con của Sùng Hiền Hầu năm ấy mới hai tuổi. Vua rất yêu thương, bèn lập làm Thái tử... Đại Việt sử ký toàn thư B3, tờ 18a8-b3 cũng chép tương tợ. Đủ rõ Quốc sử không gì khác hơn là Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu”.

Còn về Sử ký vấn đề hơi rắc rối hơn. Nó chỉ được dẫn một lần ở chuyện Khánh Hỷ tờ 62a11, ghi rằng: “Sử ký nói năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135) Sư mất”. Cần mở ngoặc để nói thêm là hai bản in đời Lê và Nguyễn đều viết chữ Sử thành chữ Lại, nên trước đây có người đọc là Lại ký rồi tự hỏi có phải là Sử ký hay không. Chi tiết này, ngày nay ta có thể giải quyết một cách ổn thỏa với khẳng định rằng chữ Lại là một cách viết sai của chữ Sử, bởi vì truyện Đạo Hạnh tờ 56b3 cũng có trường hợp tương tự, ở đấy, Quốc sử bị viết thành Quốc lại. Thế thì, Sử ký của truyện này muốn chỉ cho cuốn sử nào? Trước đây, giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho lời chua vừa dẫn là của người đứng in bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh nên ông đồng nhất Sử ký với Đại Việt sử ký toàn thư. Nhưng hiển nhiên đó là một quan niệm sai lầm, vì tất cả những lời chua trong bản in đấy phải là của chính tác giả Thiền uyển tập anh. Do thế, Sử ký đấy tất không thể chỉ Đại Việt sử ký toàn thư. Nếu vậy phải chăng nó chỉ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu? Theo chúng tôi, không phải vì lẽ Đại Việt sử ký đã được gọi bằng Quốc sử, như vừa thấy trên. Ấy thì, Sử ký chỉ cuốn sử nào?.

Chúng tôi nghĩ, nó chỉ cuốn Sử ký của Đỗ Thiện, mà Việt điện u linh tập dẫn đích danh tới những bốn lần ở những truyện Trương Hống và Trương Hát tờ 24, truyện Lý Phục Nan tờ 25, truyện Cao Lỗ tờ 29 và truyện Thần Đằng Châu tờ 38. Ngoài những lần dẫn đích danh này, những truyện Hai Bà Trưng tờ 11, truyện Tô Lịch tờ 18, truyện Phạm Cự Lượng tờ 19 và truyện Mục Thận tờ 22 trong đấy cũng đều nói là xuất phát từ Sử ký, Việt điện u linh tập, như chính bài tựa nó xác định, là một tác phẩm vào năm Khai Hựu thứ 1 (1329) do Lý Tế Xuyên thực hiện. Mặc dù niên đại ấy bị một số người nghi ngờ, sự nghi ngờ đó không dựa trên một bằng chứng xác đáng nào, ngoài trừ cứ vào việc kyỹ húy, mà chủ yếu là cái họ Lý của Lý Tế Xuyên. Tuy nhiên, vì truyền bản đời Trần của Việt điện u linh tập ngày nay không còn nữa, ta khó có thể dựa vào kỵ húy đó để bác bỏ niên đại 1329 vừa nêu. Thực sự, thì tất cả những sách vở đời Trần cải họ Lý thành họ Nguyễn đều bị các tác giả đời Lê chữa lại thành họ Lý hết. Việc Nguyễn Tế Xuyên đời Trần bị đổi lại thành Lý Tế Xuyên đời Lê tất cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Một khi Việt điện u linh tập đã viết vào năm 1329 và đã dẫn Sử ký như một tác phẩm của Đỗ Thiện thì Sử ký do Thiền uyển tập anh dẫn năm sau đó chắc chắn không thể chỉ một cuốn sách nào hơn là cuốn sách của Đỗ Thiện.

Nhân vật Đỗ Thiện này cùng Sử ký của ông cũng gây ra khá nhiều bàn cãi. Nguyên do là Đại Việt sử ký toàn thư B3 tờ 27a có ghi tên một nội nhân Đỗ Thiện được Thần Tông giao cho nhiệm vụ cùng xá nhân Bồ Sùng đi báo việc lên ngôi của mình cho Sùng Hiền Hầu, cha của Thần Tông, vào năm 1127. Như vậy, nếu Đỗ Thiện của Sử ký là nội nhân Đỗ Thiện đây, thì ông phải sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ XII và viết Sử ký vào khoảng thời gian đó. Song, vì Việt điện u linh tập đã dẫn Sử ký với những thêm thắt của mình cho nên có người dựa vào những thêm thắt đấy để quả quyết có một Đỗ Thiện sống vào nửa sau thế kỷ thứ XIII cho đến nửa đầu thế kỷ thứ XIV, còn Sử ký của Đỗ Thiện đây chắc chắn phải viết vào khoảng đầu thế kỷ XIV, tức khoảng giữa những năm 1287-1329. Những quả quyết như thế, đương nhiên là sai lầm, do không phân biệt được đâu là những trích dẫn từ Sử ký và đâu là những thêm thắt của Việt điện u linh tập. Một khi đã phân biệt được, thì Đỗ Thiện của Sử ký chính là nội nhân Đỗ Thiện phục vụ dưới triều Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông. Và Sử ký dẫn trong truyện Khánh Hỷ của Thiền uyển tập anh chính là Sử ký của Đỗ Thiện.

Cuốn Sử ký ấy ngày nay đã mất, nhưng cứ tám truyện dẫn trong Việt điện u linh tập và truyện Khánh Hỷ trong Thiền uyển tập anh, ta có thể nghĩ rằng nó có lẽ là một bộ sử mô phỏng theo lối Sử ký của Tư Mã Thiên. Nói khác đi, nội dung nó rất có thể đã bao gồm những bộ phận chính của một cuốn sử viết theo lối đó, tức phần Bản kỷ ghi tóm tắt những sự việc của một đời vua, phần Chí chép lại các chế độ của một triều đại, và phần Liệt truyện ghi chép hành tích và sự nghiệp của những công thần và nghịch tiếm thần. Truyện Khánh Hỷ và truyện của tám người nói trên chắc được trích từ phần Liệt truyện của cuốn Sử ký đó. Tám truyện đấy, đều đề cập tới những việc xảy ra trước thời Lý Thần Tông. Trừ truyện Hai Bà Trưng có ghi việc dưới triều Lý Anh Tông. Lời dẫn trong truyện Khánh Hỷ nói: “Sử ký viết năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135) Hỷ mất..”. Như thế, Đỗ Thiện chắc chắn phải viết Sử ký sau năm1135, nếu không là dưới triều Lý Anh Tông.

Điều này giải thích không ít cho ta, tại sao những truyện do Sử ký ghi lại và dẫn trong Việt điện u linh tập quả đã phủ trong một không khí u linh đáng sợ. Đỗ Thiện đã phục vụ một triều đại cực kỳ ưa thích việc lạ lùng, đó là triều đại Thần Tông nhà Lý. Cho nên, dù Thần Tông chỉ trị vì có 10 năm, sử ghi tới những 29 “việc lạ” như chuyện “đào bốn tấc sanh hoa” hay “phướn chùa không gió mà nhảy múa”, “hươu trắng xuất hiện” v.v... Với một triều đại chú trọng đến những “việc lạ” loại đó, Đỗ Thiện tất không thể nào không chịu ảnh hưởng. Do thế, khi viết Sử ký khoảng dưới triều Lý Anh Tông, Thiện đã viết nó theo xu hướng chính đó của triều đại. Và có lẽ vì viết theo xu hướng đấy, Sử ký đã tự đánh mất giá trị mình đi rất nhiều trước những cặp mắt phê bình lịch sử khách quan, dẫn cuối cùng đến một sự quên lãng hầu như hoàn toàn, nếu không nhờ những cây bút có ít nhiều thiện cảm với sự u linh của nó nhắc tới như Việt điện u linh tập hay Thiền uyển tập anh.

Tiếp đến là những tài liệu trong tác phẩm của các tác giả sống trước năm 1337. Về loại này, Thiền uyển tập anh chỉ nêu đích danh một tác phẩm, đấy là Tự Ngu Tập, ở truyện Hiện Quang tờ 42b5. Tự ngu tập đây, ngày nay ta không thấy một sách sử nào ghi lại hết. Chỉ biết chắc chắn là, nó phải viết giữa giai đoạn khi Hiện Quang mất vào năm 1221 và lúc Thiền uyển tập anh ra đời. Về tác giả, thì cứ nhan đề Tự ngu tập, chúng tôi đoán là nó do Ngu Ông viết. Lược dẫn thiền phái đồ tờ 7b có kê một đệ tử của Tiêu Diêu tên Ngu Ông sống đồng thời với Tuệ Trung cùng chín đệ tử khác như Vị Hài, Đạo Tiềm, Thủ Nhân, Thạch Đầu, Thần Tán v.v... Tuệ Trung, cứ vào Hành trạng do Trần Nhân Tông viết trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 42 b1, ra đời năm 1230 và mất năm 1291. Niên đại của Ngu Ông chắc cũng rơi vào khoảng đó, tức khoảng giữa những năm 1221-1337. Về nội dung, cứ vào câu dẫn ở truyện Hiện Quang vừa nói, theo đấy khi Quang “mất, không biết ở đâu”, ta có thể tưởng tượng nó là một tập hợp thi văn ghi chú đủ loại, đặc biệt là những gì liên hệ với núi Yên Tử, trung tâm xuất phát của phái thiền Trúc Lâm.

Ngoài Tự ngu tập ra, Thiền uyển tập anh đã sử dụng một số tác phẩm khác của các tác gia trước nó, nhưng không nêu rõ tên đề. Trường hợp tiêu biểu nhất là những cơ duyên thoại ngữ, tức câu hỏi và câu trả lời giữa hai thầy trò thiền sư, chép trong truyện Viên Chiếu. Đây là một tập đại thành những thoại ngữ đó lớn nhất và xưa nhất trong lịch sử thiền tông Việt Nam hiện còn. So với đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, nơi chép những thoại ngữ giữa Tuệ Trung và những học trò của mình, thì về số lượng cũng như chất lượng, những thoại ngữ của truyện Viên Chiếu đã vượt hẳn. Truyện Viên Chiếu chứa đựng đến những 118 câu hỏi và trả lời, trong khi phần đối cơ chỉ gồm vẻn vẹn có 92. Bây giờ, khảo về nguyên lai chúng, ban đầu chúng tôi tưởng chúng được rút ra từ Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Nhưng sau đọc kỹ lại phần Phương Ngoại trong An nam chí lược 15 tờ 147, ở đây, Lê Tắc đã ghi một vài dòng sơ lược về Mai Viên Chiếu chúng tôi mới hiểu ra và tin chắc rằng những 118 thoại ngữ đấy đều phải trực tiếp rút ra từ tác phẩm Tham đồ hiển quyết của chính Viên Chiếu. Tắc viết: “Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại lược nói rằng: Một hôm trong lúc đang ngồi trước nhà, bỗng có vị tăng đến hỏi: ‘Phật cùng với Thánh nghĩa ấy thế nào?’ Trả lời:

‘Cúc trùng dương dưới dậu
oanh thục khí đầu cành’.

Sách đó phần lớn gồm những loại như thế”. Rõ rằng, hai thoại ngữ Tắc dẫn như tiêu biểu cho nội dung và loại văn chương của Tham đồ hiển quyết là hai thoại ngữ bắt đầu cho 116 thoại ngữ tiếp theo trong truyện Viên Chiếu. Như vậy, kết luận tất yếu phải là, 118 thoại ngữ trong truyện Viên Chiếu chính là Tham đồ hiển quyết, chứ không gì nữa. Nói chúng là Tham đồ hiển quyết, vì qua sự so sánh trên, ta thấy ngay cả phần đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục cũng chỉ gồm có 92 câu hỏi và đáp, do thế, 118 thoại ngữ tự chúng có thể tạo thành ra một tác phẩm, và tác phẩm đó là Tham đồ hiển quyết. Quả vậy, cái tên Tham đồ hiển quyết có nghĩa “làm rõ những bí quyết (giác ngộ) cho những đồ đệ học tham thiền” và từ đó, biểu dương khá rõ rệt bản chất của những thoại ngữ, mà nó chứa đựng. Những thoại ngữ đấy không nhằm một mục đích nào khác hơn là “làm rõ cái bí quyết tiến tới giác ngộ cho những ai tham thiền”.

Với kết luận đấy, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, ta đã tìm thấy lại một tác phẩm đời Lý với tất cả thịt xương nó. Tham đồ hiển quyết có thể nói là tác phẩm đó. Nó duy nhất được bảo tồn có lẽ một cách hoàn toàn giữa 18 tác phẩm khác liệt ra trong Thiền uyển tập anh như Dược sư thập nhị nguyện văn, Tán viên giác kinh, Thập nhị bồ tát hạnh chứng đạo trường và Viên Chiếu tập của Viên Chiếu, Chiếu đối bản của Thông Biện, Chiếu đối lục của Biện Tài, Nam tông tự pháp đồ và Thích đạo khoa giáo của Thường Chiếu, Bồ tát hiệu sám hối văn của Pháp Thuận, Pháp sự trai nghi, Chư đạo tràng khánh tán văn và Bia văn của Huệ Sinh, Ngộ đạo thi tập của Khánh Hỷ và Chư Phật Tích duyên sự, Hồng chung văn bia ký, Tăng gia tạp lục, Viên Thông thi tập của Viên Thông. Ngoài Tham đồ hiển quyết ra, ta chưa biết Thiền uyển tập anh có trích dẫn tác phẩm khác của những người vừa dẫn không, vì không có vết tích nào để có thể truy cứu. Thứ ba là những tài liệu văn bia, Thiền uyển tâp anh hai lần dẫn rõ tên loại tư liệu đấy. Ở cuối truyện Tịnh Giới tờ 34b7, người viết chua thêm: “Truyện này đại khái cùng với Quốc sử và Bia văn không giống, nay khảo chính lại”. Còn ở cuối truyện Tịnh Thiền tờ 68a10-b3, ông không những nói văn bia của Tịnh Thiền là do môn đồ Pháp Ký soạn, mà còn chép nguyên lại một đoạn tiêu biểu cho những gì viết trong đó. Như thế, Thiền uyển tập anh sử dụng văn bia vào hai mục đích chính, đấy là: 1- để kiểm tra giá trị sử liệu những loại tư liệu khác, và 2- là để bổ sung cho những gì đã biết về một nhân vật. Ngoài hai mục đích đó, hình như nó cũng dùng văn bia để viết lại tiểu truyện của một người trong trường hợp người ấy không có được đề cập tới qua những loại tư liệu khác. Chẳng hạn, truyện Bản Tịch tờ 60b2-11 với những câu “Từ đó, Sư không vướng mắc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm, đến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa gợi gió huyền, quan lại dốc theo, anh hào ngưỡng mộ”, rõ rệt thể hiện một thứ văn bia, mà tác giả Thiền uyển tập anh đã nhào nặn lại. Việc sử dụng văn bia cho mục đích cuối cùng này chắc xảy ra nhiều, nhưng ta hiện chưa thể phát hiện nó hết được.

Cuối cùng là loại tài liệu Trung Quốc, mà chủ yếu là Truyền đăng lục do Đạo Nguyên viết vào khoảng năm 1004-1007 của niên hiệu Cảnh Đức đời Tống Chân Tông, nên cũng gọi Cảnh Đức Truyền đăng lục. Thiền uyển tập anh chắc đã tham khảo Truyền đăng lục một cách rất kỹ càng, thể hiện qua các lời chua trong các truyện Vô Ngôn Thông, Tịnh Không và Nguyện Học, nhất là hai truyện sau. Bởi vì hai truyện sau chứa đựng những cơ duyên thoại ngữ và kệ thị chúng có trùng hợp với những gì do hai thiền sư Trung Quốc phát biểu và chép lại trong Truyền đăng lục. Đây là một nỗ lực đối chiếu cố ý nhằm không những xác định vị trí tư tưởng của các vị thiền sư Việt Nam mà còn giúp ta kiểm soát được cả truyền bản của Thiền uyển tập anh lẫn truyền bản Truyền đăng lục bằng cách dựa vào những trường hợp vừa nói. Ngoài Truyền đăng lục ra, Thiền uyển tập anh còn nói tới Tuyết đậu ngữ lục của Trùng Hiển (980-1052), nhưng không dẫn ra trong một lời chua nào. Về những tác phẩm thiền tông Trung Quốc nổi danh khác như Bích nham lục của Viên Ngộ
Khắc Cần, Vô môn quan của Vô Môn Huệ Khai, Nhân thiên nhãn mục của Hối Nham Trí Chiếu v.v... mà các thiền sư đời Trần nghiên cứu và giảng thuyết khá rộng rãi, Thiền uyển tập anh chắc có tham khảo, nhưng đã không thấy nhắc tới hay dẫn ra.

Ngoài những loại tư liệu chính và phụ vừa kể, tác giả Thiền uyển tập anh còn sử dụng cả đến những tư liệu truyền khẩu, phản ảnh không ít những quan niệm và đánh giá của quần chúng nhân dân đối với những nhân vật lịch sử mà nó viết về. Điển hình nhất là lời chua ở truyện Tịnh Giới tờ 34a3-6, nói về việc “tục truyền” Tịnh Giới nhờ cầu được mưa, mà thoát khỏi nạn đóng thuế. Ghi lại một sự kiện truyền khẩu như thế, Thiền uyển tập anh đã cho ta một cảnh tượng bòn rút của cải từ nhân dân lao động bằng chế độ thuế khóa khắc nghiệt của chính quyền Lý Cao Tông. Cũng cần thêm là, Thiền uyển tập anh nói Giới “xuất thân trong một gia đình hàn vi” nghĩa là trong một gia đình nghèo hèn không có một tấc đất. Sử dụng đến tư liệu khẩu truyền để viết về Tịnh Giới, nó do thế đã phản ảnh khá trung thực những quan niệm và đánh giá của nhân dân lao động đối với những nhân vật lịch sử, mà các sử sách khác thường bỏ qua.


3. PHƯƠNG PHÁP VIẾT SỬ

Trên đây, chúng tôi đã phân tích những nguồn tư liệu chính và phụ mà tác giả Thiền uyển tập anh sưu tập và sử dụng. Trong lối viết sử thì thông thường sau khi đã lựa chọn đề tài công tác sưu tầm tài liệu lịch sử liên hệ, nếu hoàn thành, là đã xác định không ít phương pháp viết sử của một sử gia. Ở trường hợp Thiền uyển tập anh đây, vì ngày nay bài tựa của chính tác giả cuốn sách đã bị thất lạc không biết tự đời nào, cho nên ta rất khó mà biết một cách đích xác quan niệm và phương cách viết sử của ông. Dẫu thế, qua những nguồn sử liệu vừa phân tích trên, ta có thể nói ông muốn đạt đến một lối viết sử khách quan khoa học, nhằm trình bày lại quá khứ vừa như một thực tế sinh động có những màu sắc của riêng nó, vừa như một khí cụ giáo dục rút tỉa những kinh nghiệm có ích không những cho công tác tu hành, mà còn cho những công tác chính trị xã hội khác. Một quan niệm viết sử như thế, đương nhiên không có gì là lạ, nhất là khi Kim Sơn, một nhà sư thân cận và được tin cậy của Trần Minh Tông, quả đã viết ra Thiền uyển tập anh. Lối viết sử của ông chủ yếu là như thế này.

Ông dùng ba tài liệu sử học chính yếu trước thời ông, đấy là Chiếu đối lục, Nam tông tự pháp đồ và Liệt tổ yếu ngữ, để nhào nặn nên những người kế thừa hai dòng thiền chính của Việt Nam, từ lúc chúng bắt đầu cho đến đời Lý và bước sang đời Trần khoảng năm mười năm. Trong khi nhào nặn, ông có lẽ đã sử dụng những tài liệu của Chiếu đối lục và Nam tông tự pháp đồ làm những xương sườn tiểu sử, rồi chắc chắn sử dụng Liệt tổ yếu ngữ để bôi phết thịt da lên cho những bộ xương sườn đó. Song, ông dùng những tài liệu phụ gồm từ Quốc sử cho đến văn phẩm các tác gia hay tục truyền và Bia văn cùng tài liệu Trung Quốc để kiểm tra sự thực cùng mức độ sự thực của những truyện ông vừa nhào nặn nên, đồng thời bồi dưỡng cho chúng thêm những mẫu tin và dữ kiện mới góp phần làm cho chúng phong phú hơn lên. Đấy là lối sử dụng mà ông đã để lộ ra một cách công nhiên trong Thiền uyển tập anh. Với một lối sử dụng như thế, ta phải thành thực nhìn nhận tác giả nó đã đạt được vào thời đại ông, một mức độ viết sử khoa học khách quan nhất định.

Nhưng tiếp đến, vấn đề bố cục cuốn sách và viết nên truyện các thiền sư thì tác giả Thiền uyển tập anh đã phạm phải một số khuyết điểm làm cản trở việc triển khai những ưu điểm có sẵn trong phương thức sử dụng sử liệu. Thứ nhất, về bố cục, ông đã để cho quan điểm trường phái ông chi phối cách xếp đặt và tổ chức tư liệu, dẫn đến một hiện tượng khá lạ kỳ trong một cuốn sách về lịch sử thiền tông Việt Nam là, thứ tự niên biểu của các dòng thiền bị đảo ngược. Dòng thiền Pháp Vân, dù xuất hiện trước đến hơn 200 năm, đã bị xếp lui sau dòng thiền Kiến Sơ, dòng thiền của người viết Thiền uyển tập anh. Rồi tới việc viết nên tiểu sử các thiền sư, mặc dù người viết đã biết sưu tầm và sử dụng những sử liệu, ông đã để cho ảnh hưởng phương pháp sử thiền tông của Truyền đăng lục, một phần nào lấn át khả năng phán đoán của mình, từ đó chưa vận dụng hết những ưu điểm tư liệu sẵn có cho việc tạo dựng nên những tiểu sử đầy đủ hơn. Cuối cùng, ông chưa vượt khỏi những cản ngăn của quan điểm sử học Phật giáo của Thông Biện và Thường Chiếu, cho nên vẫn tiếp tục bỏ rơi, không ghi lại một cách đầy đủ hai dòng thiền khác của nền Phật giáo thời Lý, đấy là dòng thiền Nguyễn Đại Điên và dòng thiền Nguyễn Bát Nhã. Đương nhiên, việc ông ghi kèm theo Thiền uyển tập anh bảng danh sách các thiền sư của dòng thiền Nguyễn Bát Nhã, đã tỏ ra ông có một đánh giá mới đối với dòng thiền này, mà trước đây đã không được ngay cả kể tới tên. Đấy là một tiến bộ đáng kể. Dẫu thế, ông đã bỏ lỡ cơ hội để viết một cách đầy đủ về các dòng thiền ấy, như ông đã làm đối với dòng thiền Pháp Vân và Kiến Sơ. Nguyên do của tình trạng ấy tất nhiên không phải vì tác giả Thiền uyển tập anh thiếu tài liệu về chúng. Tên phản quốc Lê Tắc còn có thể ghi lại một vài nét về Thảo Đường trong An nam chí lược, đang khi sống vất vưởng nơi quê người. Sau này, Tây hồ chí còn cho ta biết Thảo Đường họ Lý, và chính bản thân Thiền uyển tập anh đã đề cập tới Đại Điên trong truyện Đạo Hạnh. Do thế, ta phải kết luận là, chính những quan điểm sử học Phật giáo thời Thông Biện và Thường Chiếu đang còn chủ trì xu thế sử quan những người viết sử Phật giáo thiền tông Việt Nam đời Trần.

Đấy là những giới hạn và khuyết điểm cụ thể của phương pháp viết sử của tác giả Thiền uyển tập anh. Dĩ nhiên, con người làm nên lịch sử, nhưng lịch sử cũng phát triển theo nhưng qui luật tất yếu của nó. Cho nên, những giới hạn và khuyết điểm ấy cũng đã xuất hiện trong một thời kỳ lịch sử nhất định.

Vấn đề đánh giá phương pháp viết sử của tác giả Thiền uyển tập anh cũng phải giải quyết theo chiều hướng đó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6460)
Buổi sáng, trời hơi se lạnh và ẩm ướt âm u, hồi đêm hình như rất gió và ầm ì những tiếng sấm gợi lại những lo sợ xa xôi của thời còn chinh chiến. Nhìn ra khung cửa, đồi cỏ vẫn trải dài thoai thoải, những khu vườn xung quanh đã rực rỡ những đóa hoa xuân.
09/04/2013(Xem: 925)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo.
09/04/2013(Xem: 8419)
Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi. Nếu con người hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi. Để phá trừ hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Đức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
08/04/2013(Xem: 22416)
Cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, được chuyển tải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Mục đích chính yếu của tôi là trình bày những giáo lý không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa.
08/04/2013(Xem: 10845)
Nói đến Ấn Độ là nói đến một nền văn hóa với nhiều truyền thống tôn giáo. Nơi đây có nhiều triết thuyết ra đời với nhiều tư tưởng khác nhau. Nhưng tất cả các học thuyết sau này đều dựa vào tư tưởng triết học Upanishad; vì từ rất sớm, . . .
08/04/2013(Xem: 25374)
Quan điểm của triết học Ấn Độ, các thần linh là không thể tách rời trong nhận thức mọi người, cho dù đã mấy ngàn năm qua cho đến hiện này và mãi đến ngàn sau thì Phạm Thiên thư cũng không thay đổi. Và con người phải chấp nhận Đấng Phạm Thiên (Brahma), . . .
08/04/2013(Xem: 6260)
Việc tế đàn ngoài mục đích cầu mưa rơi xuống tưới mát ruộng đồng đem thắng lợi cho số đông, an cư lạc nghiệp, thành công, con đàn cháu đống, gia súc tăng trưởng, trường thọ, cường tráng…
08/04/2013(Xem: 7203)
Đi tìm bản chất của bản ngã cùng các quy luật của nó chính là nội dung mà bao thế hệ Veda đã và đang nỗ lực xây dựng nhằm hoàn thiện thiên chức thiêng liêng mà Đấng tối cao Brahman đã giáo phó.
08/04/2013(Xem: 5941)
Thuyết vô thần[1], hay chủ nghĩa vô thần, là một quan điểm khẳng định rằng thần thánh không tồn tại, hoặc phủ nhận “đức tin”[2] vào thần thánh. Từ “vô thần” còn được định nghĩa một cách rộng hơn là sự không có đức tin vào thần thánh, đồng nghĩa với phi thần luận (nontheism).
08/04/2013(Xem: 5684)
Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567