Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Tập Niệm Sự Chết

12/02/201520:50(Xem: 7505)
Tu Tập Niệm Sự Chết

sunset1

 




Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia.

Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:

“- Ôi! Từ khi nẩy mầm li ti một sự sống

Nó rất nhỏ nằm trên đầu cây kim

Tượng hình trong thai bào

Là nó,

Là một chúng sanh

Cứ thế lớn lên

Cứ thế nó tiến dần về phía trước

Không thể trở lại

Chẳng thể quay lui

Dù chỉ một lần

Trong khi nó chảy trôi như vậy

Nó tiến dần đến cõi của sự chết

Giống như dòng sông

Nó nhỏ dần, hẹp dần rồi cạn dần

Dưới sức nóng thiêu đốt của hỏa đại

Như trái cây xanh kia

Chín dần rồi rơi rụng

Như chiếc bình đất nung kia

Búa thời gian đập vỡ

Như giọt sương ban mai kia

Chợt tan biến dưới ánh nắng mặt trời

Thế là ngày và đêm

Lặng lẽ trôi qua

Mạng sống của các loài hữu tình

Tàn dần, lụn dần cho đến khi diệt mất

Nó mong manh, nó hư ảo

Như bọt bể, như bóng nước

Tụ rồi tan ngay!

Hiện rồi mất ngay!

Ôi! Ai có biết chăng

Khi vừa sinh ra

Cái sống đi kèm với cái chết

Trên sinh mệnh của các loài hữu tình

Có một tên bạo chúa

Có một tên sát nhân

Chực sẵn với cây kiếm sắc

Chờ sẵn với lưỡi gươm bén

Nó kề bên cổ

Không biết sẽ tước đoạt mạng sống lúc nào

Như đức vua kia

Oanh oanh liệt liệt

Chinh phục cả quả đất

Nhưng thời khắc cuối cùng của đời người

Mọi thành tựu và mọi vinh quang

Giá trị xem ra không bằng nửa hạt dẻ

Xác thân và hơi thở héo tàn

Thần chết lạnh lùng cười khẩy mang đi!

Ôi! Loài người có biết chăng

Sức khỏe bị chấm dứt bằng tật bệnh

Tuổi trẻ bị tấn công bằng già nua

Sự sống bị xâm lăng bởi sự chết

Đấy là định luật tất yếu

Tất cả mạng sống có được từ ‘sinh’

Rồi bị ám ảnh bởi ‘già’

Rồi bị đoanh vây bởi ‘bệnh’

Và cuối cùng là cái ‘chết’ đánh gục

Ví như núi đá khổng lồ kia

Lớn rộng tận trời cao

Nó tiến đến từ mọi phía

Nghiền nát mọi sinh loài

Cũng tương tự như thế

Già chết nó nghiền nát

Sinh mệnh bà-la-môn

Sinh mệnh sát-đế-lỵ

Sinh mệnh các chiến sĩ

Sinh mệnh những thương gia

Sinh mệnh các thợ thuyền

Sinh mệnh những tiện dân

Sinh mệnh các nô lệ

Người hốt phân, kẻ nạo ống cống

Nó không chừa một ai

Và cho dẫu tượng quân, mã quân hùng mạnh

Và cho dẫu bộ quân lớp lớp hàng hàng

Và cho dẫu đại ảo gia, chú thuật gia

Hay dẫu đem tất cả tài sản thế gian gộp lại

Vẫn bất lực trước tử thần

Trong các loại phá sản

Sự chết là đệ nhất phá sản

Phá sản mọi sự nghiệp

Phá sản tất thảy mọi thành công ở trên đời

Phá sản mọi ước mơ và mọi ảo tưởng

Phá sản cho đến tận cùng hư vô và hủy diệt

Ôi! Loài người có biết chăng

Cho dẫu những người có danh vọng lớn

Có công đức lớn

Có sức mạnh lớn

Có thần thông lớn

Có trí tuệ lớn

Có đồ chúng lớn

Có tài sản lớn

Có uy lực lớn

Thế mà, cuối cùng

Cái chết nó tóm lấy hết

Nó quẳng tất thảy vào vực thẳm Rāhu

Cái chết nó gặm vào hàm

Như nai tơ non trong hàm sư tử

Như chú ếch con nằm trong miệng rắn

Cho dẫu như Moggallāna

Là đệ nhất thần thông

Cho dẫu như Sāriputta

Có trí tuệ siêu quần

Cũng đầu hàng, bất lực

Trước sức mạnh tử thần!

Và cho dẫu là Như Lai

Với sắc thân ba hai quý tướng

Và tám mươi vẻ đẹp

Được trang bị viên mãn giới uẩn

Viên mãn định uẩn

Viên mãn tuệ uẩn

Viên mãn giải thoát uẩn

Viên mãn giải thoát tri kiến uẩn

Viên mãn về danh xưng

Viên mãn về công đức

Viên mãn về hùng lực

Viên mãn về thần thông

Chẳng có ai sánh bằng

Nhưng chẳng thể nào né tránh

Trận mưa lũ thình lình

Của sự chết ập đến

Như một đống lửa lớn

Bị dập tắt bởi một trận dông

Chẳng một ai  trốn được!

Chẳng một ai thoát được!”

Bài kệ thơ trầm hùng như sóng biển, như âm vọng đại ngàn rì rào lướt qua không gian điện thờ Aggāḷava làm cho hội chúng tỳ-khưu cùng nam nữ cư sĩ như nín thở. Sự chết như hiển hiện trước tầm mắt mọi người bằng lưỡi hái sắc bén, rực lửa của tử thần đang chực sẵn, đang hờm sẵn ở đâu đó trong bóng tối, bên ngưỡng cửa, bên chiếc giường của già bệnh và ngay cả ở nơi tuổi thanh xuân!

Đức Phật lại tiếp tục bài giảng:

- Như vậy, mỗi người phải biết suy niệm, quán tưởng về sự chết. Cái thân của chúng sanh nó già, nó bệnh, nó chết trong từng khoảnh khắc. Hãy xem đây, và hãy nhìn cho ra:

Hiện nó là nơi cộng cư, đồng trú

Của “tám mươi” (1) gia đình vi trùng

Nó bám vào da, lấy da làm thức ăn

Nó trú vào thịt, rúc thịt làm món ngon

Nó dính vào gân, moi gân làm bữa nhậu

Nó bám vào xương, rỉa xương làm thức nhắm

Nó bám vào tủy, mút tủy làm thực phẩm

Chúng ăn rồi chúng ỉa, chúng đái

Chúng bài tiết dơ uế

Rồi chúng làm tình

Rồi chúng sinh con đẻ cái

Rồi chúng bệnh, chúng già và chúng chết

Vậy, cái thân này là nhà bảo sanh

Là viện dưỡng thương

Đồng thời là chỗ tiểu tiện, đại tiện

Mà cũng là nghĩa địa của chúng

Và khi chúng bất hòa, nổi loạn

Khi chúng chiến tranh, dịch bệnh

Thì cái thân này là bãi chiến trường

Là cái hầm xác thối

Làm cho cơ thể nầy

Hoặc xanh xao, hư mòn, tiều tụy

Hoặc suy kiệt và đi đến cái chết!

Còn nữa, cái thân này không những san sẻ, cộng cư với tám mươi gia đình vi trùng mà còn chia nhau gánh chịu trăm ngàn thứ bệnh nội thương từ tim, từ phổi, từ gan, từ não, từ tim, từ lá lách, từ mật, từ bao tử, từ máu, từ ruột non, ruột già nữa. Nó lại còn bị mọi sự chết chóc từ bên ngoài đem đến như bởi rắn, bởi hổ, bởi báo, bởi bò cạp, bởi nước, bởi lửa, bởi mũi tên, bởi đao và bởi kiếm nữa.

Bài pháp hiên ngang, hào hùng của đức Phật hôm ấy như tuyến chiến với hư vô, bước ra khỏi hư vô đã giúp cho không biết bao nhiêu người thấy rõ bộ mặt thật của sự chết; đồng thời biết đâu là sanh tử trong một niệm, biết đâu là vô sanh bất tử cũng trong một niệm; một số trong họ đi vào vài quả thánh đầu tiên.

Đặc biệt, trong hội chúng hôm ấy có một cô gái mười sáu tuổi con người thợ dệt (2) đã bừng bừng hỷ hoan trên khuôn mặt; và cô tự hứa với lòng là sẽ tu tập niệm chết này từ khoảnh khắc này, sẽ không dám biếng lười, dể duôi, giải đãi...

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

 

Ghi chú:

(1) Phỏng theo Visuddhi Magga (chưa tìm ra ý nghĩa tượng trưng của con số này).

(2) Xem câu chuyện trong chú giải Dhammapada. iii. 170f.

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/03/2011(Xem: 5436)
1. Quan niệm về tái sanh 2. Đâu là nguồn gốc tường tận của sự sống? 3. Do đâu chúng ta tin có sự tái sanh? 4. Nghiệp báo và tái sanh biện minh những chi? 5. Triều lưu diễn tiến của sự tái sanh. 6. Hình thức của sanh tử . 7. Sự tái sanh xuất hiện cách nào? 8. Cái gì đi tái sanh?
17/03/2011(Xem: 3779)
Vào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi. Đây là một "talk show" của Mỹ. Khách mời là Dr. Hazel Denning, bác sĩ phân tâm học, là một phụ nữ có tuổi, thông minh, ăn nói rất lưu loát và là sáng lập viên của hội Association for Past life and Therapies (Hội Nghiên cứu kiếp trước kiếp sau để ứng dụng vào việc chữa trị). Là một người tiền phong trong lãnh vực này, bà đã đi nhiều nơi trên thế giới thuyết giảng về luân hồi.
02/03/2011(Xem: 11572)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
21/02/2011(Xem: 10584)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
20/02/2011(Xem: 8399)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
12/02/2011(Xem: 14583)
Hàng năm mỗi khi Đông tàn xuân đến, Phật tử khắp nơi lại nhớ ngày thành đạo của đức Thích Tôn. Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi. Danh từ Bụt xuất hiện rất sớm trên đất nước ta (tức Giao Châu, khi còn Bắc thuộc). Vào đầu thế kỷ Tây lịch, những nhà sư Ấn Độ theo tàu buôn sang Trung Quốc truyền đạo, đã ghé lại đất Giao Châu. Trong thời gian chờ gió yên biển lặng để tiếp tục hành trình, các nhà sư và các thương gia Ấn Độ đã truyền cho dân chúng Việt nam nhiều khái niệm căn bản của đạo Phật như nhân quả tội phúc, quy y, cúng dường, bố thí.
28/01/2011(Xem: 4544)
Tất cả mọi hiện tượng đều tương liên với nhau và biến đổi, không có một sự gián đoạnhay ngưng nghỉ nào, không có gì bớt đi cũng không có gì thêm vào, chỉ có nguyênnhân này sinh ra hậu quả kia, rồi hậu quả kia lại tạo ra nguyên nhân khác. Đó là cáinhìn của Phật giáo đối với tất cả các hiện tượng trong vũ trụ cũng như đối vớisự sống và cái chết của từng cá thể.
18/01/2011(Xem: 20509)
Sở dĩ được gọi là Mật giáo vì đa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
09/01/2011(Xem: 5027)
agpo Rimpochélà một gương mặt lớn của Phật giáo Tây tạng tại Âu châu. Khi vừa mới một tuổiDagpo Rimpoché đã được Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thứ XIII xác nhận là vị hóa thân (tulku)của Ngài Mã-nhĩ-ba (Marpa, 1012-1097) một vị Đại sư của Tây tạng và là thầy củaĐại sư Mật-lặc Nhật-ba (Milarepa, 1052-1135). Dagpo Rimpoché sinh năm 1932, vàochùa từ lúc sáu tuổi, tu học tại các tu viện đại học danh tiếng nhất ở Tây tạng.Ngài rời Tây Tạng vượt sang Ấn vào năm 1959 và sau đó lưu trú tại Pháp từ năm1960.
07/01/2011(Xem: 9125)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]