Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cặp song sinh dính liền vẫn lấy vợ và sinh 21 người con

10/11/201416:14(Xem: 6816)
Cặp song sinh dính liền vẫn lấy vợ và sinh 21 người con
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ


cap-song-sinh-dinh-lien-1

Cặp song sinh Chang Bunker và Eng Bunke



Chang Bunker và Eng Bunker là cặp song sinh được sinh ra vào năm 1811 ở Xiêm, nay là Thái Lan. Đến những bức trong buồng ngủ của anh em họ cũng có chuyện để nói nếu chúng có thể nói được. Giường cưới của họ được làm cho 4 người, anh em Chang và Eng nằm ở giữa, 2 người vợ của họ nằm ở 2 bên. Vậy mà trên chiếc giường ấy, họ đã sinh được 21 đứa trẻ.

Như một cuốn tiểu sử mới được tiết lộ, cặp song sinh đã chiến thắng được tỷ lệ cược bất thường và định kiến kinh khủng ở thế kỷ 19 tại Mỹ và Anh. Trở thành “vật thí nghiệm” cho các bác sĩ phương Tây, cuối cùng, anh em nhà Bunker đã trở thành những quý ông giàu có ở miền Nam và chủ đồn điền.

Nhưng, như viện sĩ người Mỹ Josseph Orser đã nói trong cuốn “The Lives of Chang and Eng”, cặp đôi này không bao giờ được phép quên rằng họ bị nhiều người xem là những “quái vật” và khi có ham muốn và mong muốn theo đuổi một cuộc sống gia đình bình thường thì là quái dị, thậm chí là độc ác, đáng ghê tởm

Sinh năm 1811 tại một làng chài cách Bangkok 60 dặm, cặp song sinh thực sự có nguồn gốc từ Trung Quốc hơn là Thái Lan. Cha của họ là một ngư dân người Trung Quốc, 35 tuổi, mẹ họ là một phụ nữ mang 2 dòng máu Trung Quốc, Mã Lai.

2 nữ hộ sinh thời ấy đã giật mình sợ hãi khi chứng kiến cảnh khiếp đảm là 2 đứa trẻ dính với nhau bởi một đám dây chằng ở phần eo. Mẹ 2 đứa bé đã cứu sống 2 sinh linh này bằng việc vặn chỗ dây chằng đã được kết nối với dây rốn duy nhất rồi để 2 đứa bé nhìn chằm chằm vào mắt nhau. Bà đặt tên cho 2 đứa bé là In và Jun (chuyển sang tiếng Anh là Eng và Chang). Chang - ở bên trái – luôn thấp hơn một chút và uốn cong người lên so với anh trai mình.

Mẹ họ luôn khuyến khích các cậu bé tập thể dục, kéo dài chỗ dây chằng để chúng dài thêm 5 inch đủ cho họ có thể chạy, bơi và điều khiển một chiếc thuyền. Quan trọng hơn, họ đã có thể cúi đầu 18 lần theo lệnh khi họ diện kiến vua Xiêm, Rama III.

cap-song-sinh-dinh-lien-2

Cặp song sinh Chang Bunker và Eng Bunke cùng với vợ và 2 con trai


Có lẽ họ sẽ sống một cuộc đời trôi qua trong quên lãng bằng việc bán trứng vịt giúp gia đình nếu không được một thương gia người Anh phát hiện ra khi họ đang còn trẻ.

Robert Hunter, tên người thương gia, ban đầu nghĩ cặp song sinh là “một động vật kỳ lạ” khi nhìn thấy họ đang bơi trên một dòng sông. Nhưng ông nhận ra tiềm năng thương mại của họ và thật dễ để thuyết phục gia đình nghèo khó của cặp song sinh hãy đi cùng mình sang phương Tây để biểu diễn trước những con mắt tò mò. Họ đồng ý nhưng nhà vua, người muốn đưa họ ra tòa lại không muốn vậy.

Phải mất 5 năm cùng với sự giú đỡ của một thuyền trưởng người Mỹ, Abel Coffin, họ mới chiến thắng nhà vua. Ông thuyền trưởng đã hối lộ cho hoàng đế một chiếc kính thiên văn và một nhóm vũ công đền thờ để có được cặp song sinh. Mẹ của cặp song sinh đã nhận được 500 USD cho bản hợp đồng “bán con” kéo dài 30 tháng với Hunter và Coffin.

Trên tàu của thuyền trưởng Coffin đi Massachusetts vào năm 1829 cùng với 1 người phiên dịch, 2 anh em song sinh 17 tuổi thấy rằng sự phối hợp của họ thật tuyệt vời. Họ nhanh chóng học được những câu tiếng Anh cơ bản và có thể leo lên cột buồm nhanh như bất kỳ thủy thủ nào trên tàu.

Tại Boston, họ được đem ra trưng bày như Cặp đôi chàng trai người Xiêm và ngay lập tức gây chấn động.

Trong nhà hát và những đại sảnh ở khắp nước Mỹ, họ biểu diễn 4 giờ mỗi ngày, 6 ngày mỗi tuần, mua vui cho hàng ngàn người bằng những trò nhào lộn, khả năng kéo lưới và chơi cờ vua kỳ lạ và những sức mạnh phi thường của họ - có thể vác một người đàn ông nặng hơn 100 kg.

Mặc dù thuyền trưởng Coffin nói với mọi người rằng ông ấy và Hunter đã “sở hữu” các chàng trai, nhưng cặp song sinh thực sự đã làm rất tốt những công việc khó khăn của mình.

Những năm sau đó, cặp đôi này đã đi thăm cả châu lục và trở về Mỹ vào năm 1831 ở tuổi 20. Lúc này, họ đã khỏe mạnh hơn, có giáo dục hơn và giàu có hơn.

Mặc dù Coffin và Hunter đã thuê những người quản lý riêng họ nhưng giờ đây họ đòi hỏi được đối xử tôn trọng. Họ bắt đầu chống lại những người xem thường họ, đặc biệt là những kẻ cho rằng mẹ họ bán con đi làm nô lệ.

Sau đó, họ theo đuổi các cô con gái của một người nông dân láng giềng, ông David Yates. Trong nhiều năm, Chang say mê cô chị Adelaide nhưng Eng và cô em gái Sarah thì không.

Tuy nhiên, việc kết hôn với 2 chị em này đã gây chấn động cho xã hội thời bấy giờ. Cuối cùng, 5 năm sau, cô em Sarah cũng đồng ý với lời cầu xin của Eng. Cả 2 cặp đôi đã làm đán cưới dưới sự chứng kiến của một mục sư Baptist tại phòng khách của Yates năm 1843.

Hôn lễ đã gây ra một vụ bê bối quốc gia, người ta cáo buộc đây là cuộc hôn nhân thú tính.

Khi cả 2 bà vợ nhanh chóng sinh ra những đứa con gái, chứng minh rằng họ không chỉ kết hôn thuần khiết thì sự phẫn nộ đạt tới đỉnh điểm. 

Cặp song sinh cuối cùng đã sinh được 21 người con, Eng 11 đứa và Chang 10 đứa.

Và phòng ngủ của 2 cặp vợ chồng vẫn là điều bí ẩn ở thời điểm đó.

Bảo Linh

Người đưa tin (tin tức Dailymail)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 4820)
Người tu Tịnh Độ, khi bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng...
13/07/2011(Xem: 3408)
Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu “ sanh ký tử quy, nghĩa là ; Sống gởi trần gian, chết lại về”. Vậy khi chết chúng ta đi về đâu? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, chỉ có bậc Đại giác ngộ mới thấy rõ con đường đi này và chỉ dạy cho chúng ta biết mà thôi. Đó là sáu con đường mà chúng sanh qua lại mãi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cõi Trời, Người, A-tu-la, còn gọi là sáu nẻo luân hồi. Khi con người còn sống, gây tạo nhân gì thì kết quả sẽ theo họ như thế ấy. Kết quả đó là động cơ thúc đẩy con người sau khi chết, đi vào các cảnh giới tương ưng trong sáu đường .
13/07/2011(Xem: 4096)
“Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thành tựu cho một chúng sanh tương lai thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn”. Hộ niệm là trợ giúp cho một người được vãng sanh. Người hộ niệm cần phải biết rõ phương pháp cũng như đạo lý về vãng sanh thì mới đem lại lợi ích cho người được hộ niệm. Người không tu hành, không hiểu Phật pháp, không được hướng dẫn vãng sanh, không có hộ niệm, giờ lâm chung đa phần thần thức của họ thường bị dìm trong ác mộng, bị rơi vào những cạm bẫy dữ ác, rơi vào những cảnh hung hiểm. Bị lôi vào đó rồi thì rất khó thoát thân, thần thức sẽ theo nghiệp đi thọ báo.
09/07/2011(Xem: 6566)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
01/07/2011(Xem: 8773)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
24/06/2011(Xem: 4529)
Đó là câu hỏi của một hãng Thông tấn ở phương Tây đưa ra trong một cuộc thăm dò ý kiến với đông đảo người dân ở nước Anh. Câu hỏi với tình huống giả định là một thiên thạch sắp đâm vào trái đất và bạn chỉ còn 60 phút nữa sống trên cõi đời, bạn sẽ làm gì trong 60 phút ngắn ngủi ấy…
19/06/2011(Xem: 8352)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
11/06/2011(Xem: 4322)
Chúng ta chết là chết như thế nào? Và sau khi chết, chúng ta đi về đâu? Đấy là những câu hỏi, những thắc mắc, những hoài nghi đeo bám tâm thức nhân loại từ xưa đến nay và dường như chúng vẫn đang còn treo lơ lửng ở đấy với những vấn nạn siêu hình nhức nhối và đầy bí ẩn. Đức Phật là bậc thầy của chư thiên và loài người (Thiên Nhân Sư), là bậc thông suốt thế gian, thông suốt tam giới (Thế Gian Giải), là bậc đã thấy biết toàn diện và chơn chánh (Chánh Biến Tri)... đã giảng giải cho những người học Phật và tu Phật như thế nào về “hiện tượng chết và tái sanh”? Bây giờ muốn đi vào nội dung ấy, chúng ta sẽ phải lần lượt nghiên cứu qua những tương quan liên hệ sau đây:
06/05/2011(Xem: 9250)
Khi truyền bá rộng rãi sang châu Á, Phật giáo thành công khi vượt qua một số vấn đề nổi bật từ những giới hạn về ngôn ngữ trong một số trường hợp phải phiên chuyển thành một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ nói của Ấn Độ. Giáo lý đạo Phật được truyền đạt bằng lời nói qua vô số ngôn ngữ và tiếng nói địa phương. Còn Kinh tạng, khi đã được viết ra, lại được phiên dịch thành hàng tá ngôn ngữ ngay cả trước thời kỳ hiện đại. Do vì nguồn gốc lịch sử không cho phép các học giả dùng ngôn ngữ nói trong việc giảng dạy, bài viết này sẽ tập trung vào những ý tưởng được viết ra, nhằm khảo sát việc truyền dạy qua lời nói chỉ trong thời kỳ Phật giáo Ấn Độ.
05/05/2011(Xem: 7349)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567