Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần IV: Học giả John Van Auken

08/04/201319:30(Xem: 4489)
Phần IV: Học giả John Van Auken

Những Chuyện Luân Hồi Hiện Đại

Phần IV: Học Giả John Van Auken

Học giả John Van Auken

Nguồn:Tỳ kheo Thích Tâm Quang trích dịch


John Van Auken là một học giả, thành viên của Hội A.R.E. (Association for Research And Enlightement, Hội Nghiên Cứu và Giác Ngộ) của tổ chức Edgar Cayce từ 19 năm qua và rất nổi tiếng về những bài thuyết giảng và những tác phẩm của Ông, trong đó có tác phẩm "Reincarnation: Your Secret Life (Luân Hồi:Bí Mật về Ðời Sống Của Quý Vị) do nhà xuất bản Ballantine Publishing Co. phát hành Năm 1991. Cuốn sách chứng tỏ tầm hiểu biết sâu rộng của Ông trong đó có phần Phụ lục nói về Edgar Cayce.

Chúng tôi xin trích dịch phần Phụ lục nói về Edgar Cayce .

-22-

LUÂN HỒI VỀ EGAR CAYCE



Tác Giả: John Van Auken

Edgar Cayce sanh Ngày 18 Tháng 3 năm 1877 tại một nông trại gần Hopkinsville, Kentucky. Thuở còn nhỏ Cayce đã chứng tỏ có trúc giác thần thông. Năm lên 6, Cayce cho cha mẹ biết có thể nói chuyện với những người họ hàng mới chết. Gục đầu ngủ trên cuốn sách, lúc thức dậy Cayce có thể nhớ trọn vẹn nội dung cuốn sách. Hết lớp bẩy, Cayce bỏ học và bước vào đời. Năm 21 tuổi, Cayce bị chứng sưng yết hầu làm mất giọng nói. Các bác sĩ điều trị không ai tìm được nguyên nhân căn bệnh. Cayce đã nhờ một người bạn giúp ông vào trạng thái thôi miên (trước khi còn đi học, ông vẫn hay áp dụng). Người bạn đã giúp ông. Trong trạng thái thôi miên ông đã nói rõ ràng và đi thẳng ngay vào bệnh trạng của ông. Ông cho biết phải dùng đến thuốc gì và phải điều trị như thế nào. Nhờ đó ông đã tự chữa được hết bệnh đau cổ họng mất tiếng.

Các bác sĩ của Thành Phố Hopkinsville và Bowling Green tại Kentucky đã lợi dụng tài năng độc nhất vô nhị của Cayce để chữa trị cho bệnh nhân của họ. Chỉ cần cho Cayce biết tên và địa chỉ của bệnh nhân là Cayce có thể dùng thần giao cách cảm để đến với xác cũng như tâm linh của người này. Người bệnh không cần phải ở gần Cayce mà bất cứ ở đâu Cayce cũng có thể đến với bệnh nhân bằng thần giao cách cảm.

Một vị bác sĩ trẻ làm việc chung với Cayce, đã tường trình cái khả năng kỳ diệu này của Cayce cho Hội Nghiên Cứu Bệnh Lý của Boston; sự kiện làm kinh ngạc mọi người. Tờ Nữu Uớc Thời Báo số ra Ngày 9 Tháng 10 Năm 1910 đã đăng tải hai trang cột chính về đề tài này với nhiều hình ảnh. Từ đó mọi người trên toàn quốc đều tìm đến Cayce "Nhà Tiên Tri Hôn Mê" và Cayce nổi tiếng.

Ðể đi vào trạng thái hôn mê, Ông thường nằm trên một chiếc trường kỷ, tay khoanh trước ngực và thở mạnh. Khi cặp chân mày Ông nhíu lại, đó là dấu hiệu báo cho người phụ trách (thường là Gertrude, vợ Ông) có thể nói chuyện với Ông. Nếu không có cái nhíu mày báo hiệu tức là Ông không tới được trạng thái hôn mê mà ông chìm vào giấc ngủ. Ông thực hiện phương pháp như có người bệnh ở sát bên Ông, và đầu óc Ông như một bộ máy quang tuyến X khám xét từng mỗi tế bào trong cơ thể. Khi công việc này xong, Ông nói: "Sẵn sàng trả lời". Ðầu óc sắp sẵn những câu trả lời cho các câu hỏi của bệnh nhân trong lúc Ông vẫn hôn mê. Khi nào Ông nói: "Bây giờ đã xong" là người phụ trách phải biết làm cho Ông tỉnh lại.

Nếu phương pháp không được thi hành đúng, Ông có thể ở trong tình trạng nguy hiểm. Có lần Ông bị hôn mê ba ngày liền khiến các bác sĩ tưởng là Ông phải chết.

Cứ mỗi lần ở trong tình trạng xuất hồn, viên tốc kỷ của Ông là Gladys Davis Turner phải ghi nhanh tất cả những gì Ông nói ra, đôi khi cô thư kỷ này ghi sai thì chính Ông dù đang hôn mê vẫn có thể sửa lại cho đúng. Thần thức của Ông có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ chung quanh Ông và cả ở xa nữa.

Ngày 10 Tháng 8 Năm 1923, trong một cuộc thí nghiệm, mọi người đều muốn hỏi về sự sống, sự chết và tiền đồ của nhân loại. Trong một căn phòng nhỏ ở một khách sạn tại Dayton, Ohio, Arthur Lammers đã nêu vấn đề triết lý ra để hỏi Ông về cái khả năng kỳ diệu của Ông. Trong cuộc khảo sát này, ông bắt đầu nói đến luân hồi như một sự thật hiển nhiên, như một thực thể.

Cuối cùng Edgar Cayce đã chuyển về Virginia Beach (Virginia) thiết lập một bệnh viện do chính Ông điều khiển để chẩn bệnh theo phương pháp của Ông. Từ năm 1925 đến năm 1944 Ông đã tiên đoán 2500 lần, mô tả đời sống tiền kiếp nếu mọi người hiểu rằng luân hồi là thực. Những vấn đề như quá sợ hãi, thần kinh rung động, thiên tài về ca nhạc, khả năng thiên phú, khó khăn trong hôn nhân, học tập của các trẻ em theo Edgar Cayce cho biết là do nghiệp quả của tiền kiếp.

Ngày 3 Tháng Giêng năm 1945 Edgar Cayce từ trần tại Virginia Beach, để lại trên 14000 tài liệu tốc kỷ của hơn 6000 người thuộc mọi tầng lớp xã hội trong thời gian 43 năm qua.

Những lời tiên đoán của ông về siêu linh là một trong những hồ sơ quan trọng bậc nhất về tâm linh. Qua những hồ sơ, những thư từ, báo cáo, qua những sự phối kiểm của hàng ngàn những cuộc thí nghiệm về những lời tiên đoán của Cayce đã đem lại lợi ích quý báu cho các nhà tâm lý học, học sinh, các nhà văn, những nhân viên điều tra, và cho tất cả các lớp quần chúng.

Một tổ chức gọi là A.R.E. (Association For Research and Enlightement, 67th St & Atlantic Avenue, Virginia Beach, VA 23451) được thành lập từ năm 1932 để gìn giữ những tài liệu quý báu của Cayce. Ðây là một tổ chức mà hội viên những người tự do tư tưởng, tiếp tục ghi nhận, thâu lượm các tin tức, thực hành các vô điều tra và thí nghiệm, tổ chức các khóa học, hội thảo và diễn thuyết. Hội này có một thư viện lớn bậc nhất về khoa bán tâm lý, siêu linh học. Hội cũng giữ một bản thống kê trên 300 cuốn sách quý giá về lĩnh vực này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2010(Xem: 5493)
Khi Đức Phật còn là thái tử, trong lúc đi dạo chơi, Ngài đã trông thấy những cảnh khổ đau của kiếp sống con người là bệnh hoạn, già yếu và chết. Từ đó, cuộc sống khổ đau và tạm bợ của con người đã khiến cho thái tử suy tư rất nhiều và thôi thúc Ngài quyết tâm đi tìm cuộc sống an lạc, vĩnh hằng, bất tử. Trải qua năm năm tìm đạo, sáu năm khổ hạnh chốn rừng già và sau 49 ngày Thiền định ở Bồ đề đạo tràng, Đức Phật đã nhận thấy rõ đặc tính của cuộc sống con người nói riêng và của muôn vật, muôn loài nói chung ở trong thế giới sanh diệt là vô thường (Anicca), khổ (Dukkha) và vô ngã (Anatta).
13/10/2010(Xem: 4164)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ. Mọi người đồng ý rằng bạn nên khởi lòng bi mẫn. Vấn đề là, cách lòng bi mẫn chuyển thành những hành động cụ thể thì lại không mấy giống nhau. Đối với một số người, bi mẫn có nghĩa là kéo dài mạng sống càng lâu càng tốt; nhưng đối với một số người khác, bi mẫn là chấm dứt đời sống - thông qua việc trợ tử - khi mà phẩm chất đời sống của người bệnh không còn là bao. Và không có ai trong hai nhóm này xem nhóm khác là có lòng bi mẫn thực sự. Nhóm trước xem nhóm sau là tội phạm; còn nhóm sau xem nhóm trước là tàn nhẫn và độc ác.
13/10/2010(Xem: 6086)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
13/10/2010(Xem: 3965)
Gần đây, trên thế giới nhất là tại Mỹ, dư luận bị kích động vì vài người y sĩ công khai tham gia hành động "trợ tử" (Euthanasia), và chấp nhận trách nhiệm, tự ý đưa tay vào còng của cảnh sát, hầu như thách đố pháp luật. Dư luận quần chúng rất phân tán, kẻ chê vô lương, người thì yểm trợ và đặc biệt là các tôn giáo lớn trong nước đều lên tiếng xác định lập trường. Câu hỏi ta tự đặt ra để tìm hiểu là lập trường của đạo Phật trong một vấn đề nặng về đạo đức, triết lý như vấn đề trợ tử, đã được đức Phật ngày xưa và kinh điển của Ngài để lại minh định như thế nào.
11/10/2010(Xem: 7452)
Hạnh phúc hay đau khổ là số phận chung của mọi chúng sinh, nhất là con người, và theo quan điểm Phật giáo thì đây không phải là phần thưởng hay hình phạt do Thượng Đế ban cho một sinh linh đã làm điều thiện hay điều ác. Tín đồ Phật giáo tin vào một định luật tự nhiên, gọi là “ luật nhân quả”, áp dụng chung cho tất cả mọi hiện tượng trong thế giới này. Tín đồ Phật giáo không tin vào một Đấng Thượng Đế toàn năng, và do đó một Đấng Thượng Đế như vậy, và ngay cả Đức Phật đại từ bi cũng không thể ngăn cản được định luật này.
07/10/2010(Xem: 5425)
Các lý thuyết tôn giáo cũng như các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra những lý giải khác nhau về nguồn gốc xuất hiện của con người trên trái đất này. Phải chăng con người là sản phẩm do Thượng Đế tạo dựng hay chỉ là một giống vượn người trải qua một chuổi quá trình tiến hoá lâu dài rồi biến thành người theo thuyết tiến hoá của Darwin? Trước vấn đề này, Phật giáo vốn tin tưởng vào thuyết tái sanh, luân hồi, cho rằng tất cả các loài chúng sanh luôn quanh quẩn trong vòng luân hồi sinh tử (samsâra), và được tái sinh qua bốn cách thế khác nhau: noãn sinh - andaja, tức là sự sanh ra từ trứng; thai sinh - jatâbuja, tức là sanh ra từ bào thai của người mẹ; thấp sinh - samsedja, tức là sanh ra từ sự ẩm thấp hay từ rịn rỉ của các thành tố, đất, nước v.v... ; và hóa sinh - oppâtika, tức là do hóa hiện mà sanh ra, không phải trải qua các giai đoạn phôi thai; những con người đầu tiên là những chúng sanh thuộc loại hoá sinh này.
06/10/2010(Xem: 10473)
Thưa thớt vài chục nóc nhà xong thôn Tân Mỹ (Thừa Thiên Huế) lại có cả trăm ngôi mộ được xây dựng công phu, hoành tráng như một thành phố ma với chi phí lên tới vài ba tỷ đồng cho một ngôi.
03/10/2010(Xem: 7746)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
01/10/2010(Xem: 10997)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
29/09/2010(Xem: 5585)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]