Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vận dụng Logic học Phật giáo để Trợ giúp Việc làm

15/04/202305:50(Xem: 2425)
Vận dụng Logic học Phật giáo để Trợ giúp Việc làm


phat giang phap-2

Vận dụng Logic học Phật giáo để Trợ giúp Việc làm

 (以佛教邏輯來協助工作)

 

Đức Phật thuyết rằng đừng vội tiếp thu những điều gì Ngài dạy, chỉ dựa vào tín ngưỡng, thay vào đó, hãy nghiệm chứng nó bằng logic học và xác thực, giống như việc kiểm nghiệm vàng.

 

Có hai loại hình thức logic học (Nhân minh luận, khoa học luận lý) được sử dụng trong Phật giáo. Một là chứng minh hay thiết lập một luận đề (tôn) liên quan đến việc có hay không có một tính chất nào đó, áp dụng điều gì, bằng cách dựa vào các dòng lý luận. Chẳng hạn như luận đề: dự án mà tôi đang làm việc thì vô thường (sẽ thay đổi), bởi vì nó chịu sự ảnh hưởng của nhân duyên, giống như cơ thể của tôi. Phương pháp khác là phủ nhận luận điểm về việc một tính chất nào đó có áp dụng cho điều gì hay không, bằng cách nêu ra những kết luận vô lý, nếu nó xảy ra. Chẳng hạn như luận đề: dự án tôi đang làm việc thì thường hằng (cố định, sẽ không bao giờ thay đổi). Mục tiêu của cả hai loại  logic học là để khắc phuc sự thất bại và đảm bảo thành công, thông qua việc sử dụng các chiến lược thực tế, dựa trên tính hợp lý.  

 

Thứ nhất: dự án của tôi đang làm việc thì vô thường (sẽ thay đổi), bởi vì nó chịu ảnh hưởng của nhân duyên, giống như cơ thể của tôi. Có ba hạng đặc trưng của nguyên do hợp lý, để chứng minh luận đề phải được hoàn thành. Lý do ở đây là “bởi vì nó chịu sự ảnh hưởng của nhân duyên, giống như cơ thể của tôi.”.

 

* Lý do phải áp dụng cho đề tài của luận đề - Vấn đề của tôi trong công việc có chịu ảnh hưởng vì nhân duyên hay không? Có, nếu tình hình tài chính thay đổi, nếu một số nhân viên trong dự án bị bệnh, nếu tôi bị bệnh, thì sẽ ảnh hưởng đến dự án.

 

* Lý do phải áp dụng cho những trường hợp tương tự của tất cả các hiện tượng có chung  tính chất phải được chứng minh – Đúng, tất cả các hiện tượng thay đổi đều bị ảnh hưởng bởi nhân duyên, giống như cơ thể của tôi. Cơ thể của tôi là một ví dụ tương tự. Vậy thì bạn cũng nghĩ đế những ví dụ khác, chẳng hạn như mối quan hệ của tôi với người bạn đời, với cha mẹ tôi, với con cái – tất cả đều thay đổi, và tất cả đều chịu sự ảnh hưởng của nhân duyên, chẳng hạn như việc lão hóa. Rồi thì bạn phải bài trừ việc có bất cứ trường hợp ngoại lệ nào.

 

* Lý do không được áp dụng cho trường hợp đối nghịch của tất cả các hiện tượng không có tính chất phải được chứng minh – Đúng, tất cả các hiện tượng thường hằng và không bao giờ thay đổi đều không chịu sự ảnh hưởng của nhân duyên, giống như sự kiện rằng ở đây, trên trái đất, thì chỉ có 24 giờ trong một ngày. Những sự kiện này là những ví dụ đối nghịch, và chúng không bị ảnh hưởng vì bất cứ điều gì – cho dù mình có thuê bao nhiêu nhân viên đi nữa, thì vẫn có 24 giờ trong một ngày, để hoàn thành công việc.

 

Dựa vào tính hữu hiệu của dòng luận lý này, thì có thể kết luận rằng dự án mà tôi đang làm việc là vô thường, vì nó chịu sự ảnh hưởng của nhân duyên, nên sẽ thay đổi. Điều này cho mình một sách lược. Khi trợ duyên thay đổi, chẳng hạn như việc thử nghiệm người dùng (user testing) cho thấy có điều gì không hữu hiệu, sẽ ảnh hưởng đến dự án, nên chúng ta có thể sửa đổi nó, để cho nó phù hợp với nhu cầu.

Với hai loại logic học (Nhân minh luận, khoa học luậ̂n lý) trong đạo Phật, thì ta nêu ra những kết luận vô lý sẽ xảy ra, nếu dự án tôi đang làm việc là thường hằng – nó cố định và không bao giờ có thể thay đổi. Nếu như thế, thì nó đã không thể phát sinh ngay từ đầu, bởi nếu nó không chịu sự ảnh hưởng của nhân duyên, thì không cần thiết để được thiết kế, để hoàn thành. Hơn nữa, bất kể điều gì phát sinh, chẳng hạn như nhân viên nghỉ việc và phải thay thế nhân viên khác, thì việc này sẽ không ảnh hưởng gì đến dự án. Việc phân tích như thế sẽ giúp mình buông bỏ ý tưởng vu vơ rằng dự án của mình là cố định, và không thể nhanh lẹ, linh hoạt và thích ứng với các điều kiện, khi chúng thay đổi, là điều chắc chắn sẽ xảy ra.

 

Tác giả: Tiến sĩ Alexander Berzin

Việt dịch: Thích Vân Phong

Nguồn: Study Buddhism

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 13109)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9954)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
16/06/2010(Xem: 6388)
"Vô Ngã" là vấn đề tương đối hơi khó và khiến cho nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật phải tốn nhiều công sức để truy cứu, tìm hiểu. Nhưng Vô Ngã lại là vấn đề quan trọng trong giáo lý của Đạo Phật. Tại sao Đạo Phật lại chủ trương "Vô Ngã"?
14/06/2010(Xem: 3555)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không nhầm lẫn với những lời dạy bỡi các giáo chủ của các ngoại đạo khác qua: “Các hành là vô thường, các pháp vô ngã và, Niết-bàn tịch tĩnh” cho nên được gọi là ba pháp ấn. Ba phạm trù nội dung nghĩa lý này chúng luôn luôn phù hợp với chân lý cuộc sống qua mọi hiện tượng nhân sinh cùng vũ trụ. Trong ba tạng kinh điển dù là Đại thừa hay Tiểu thừa ba phạm trù tư tưởng nghĩa lý “ Vô thường, vô ngã, Niết-bàn” này đều có hết, với mục đích là dùng để ấn định bảo chứng cho những lời dạy của đức Đạo sư, chứ không phải là những lời nói của Ma. Nếu kinh điển nào mà không mang nghĩa lý của một trong ba phạm trù này thì những kinh điển đó không phải do đức Đạo sư nói ra.
03/03/2010(Xem: 9839)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm trước "thời đại hoang mang" (560 BC): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567