Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sức mạnh của tâm

15/08/201407:31(Xem: 13182)
Sức mạnh của tâm
tam










Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.

Các nhà Phật học gọi tánh biết của muôn loài hữu tình chúng sinh là Phật tánh. Thế gian gọi là Tâm.Chất liệu nuôi dưỡng Tâm,Phật tánh được tồn tại,đó là trái tim và hơi thở.Phật tánh,là tánh vốn trong sáng nằm sâu trong bộ não chúng sinh. Phật tánh được kinh văn gọi Như Lai tạng.Cả hai,tánh không khác nhau, đều là đà sống của muôn loài hữu tình chúng sinh. Dù tánh biết sống theo bản năng(giác hồn,sinh hồn) của loài súc sinh, vẫn do lực Phật tánh mà có.( Vạn pháp duy tâm.Nhất thiết duy Phật tánh) Do vậy, có Phật tánh là có vạn hữu chúng sinh, không có Phật tánh, không có chúng sinh vạn hữu. Các nhà luận sư Phật học gọi Phật tánh, Như Lai tạng là linh tri, linh giác, tuệ giác bình đẳng, tâm trí sáng suốt. Chỉ khác nhau ở thô, tế, liệt, thắng, bản năng, nhận thức, biến kế sở chấp,bởi bản thân lớn,nhỏ,môi trường thác sinh (y báo, chánh báo),mà thôi, đúng như lời Phật nói: “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” và sẽ thành Phật ở tương lai, nếu Phật tánh của mỗi chúng sinh trở về nguyên thể thanh tịnh trong sáng.

Như vậy trước khi tâm con người nói riêng, được có tuệ giác thành Phật, tâm con người bị đen tối, Phật tánh lu mờ? Đích thực như kinh Lăng Già, Duy Thức xác định rõ rằng: Phật tánh Như Lai tạng trong bản thân chúng sinh vốn trong sáng như kim cương, nhưng bị đen tối, u ám, si mê, đần độn là do các thứ ô trược, phiền não, vô minh của tự thân chúng sinh bao vây chế ngự lấy Phật tánh.Điều này được ví như ĐườngTăng bị Yêu Tinh khống chế,bắt vào hang đọng.Hết Yêu Tinh.Đường Tăng vẫn là Đường Tăng.Ví dụ khác;viên ngọc kim cương bị rớt vào nước dơ.Lấy ra,rửa sạch,vẫn là kim cương.

Phật tánh, Như Lai tạng bị các thứ vô minh, triền phược, phiền não bao vây, chế ngự như vậy, được Lăng Già thay vào đó bằng cụm từ Thức A Lại Da, để diễn nói rõ; mặc dù Phật tánh bị các thứ ô nhiễm bao vây, nhận chìm như vậy, nhưng tâm chúng sinh vẫn có biết mọi thứ trong đời sống. Biết từ si mê không chánh trí, cho đến biết có chánh trí thánh thiện. Cho nên sức mạnh của tâm gồm có: tà tâm ( Thức a lại da) và chơn tâm (Phật tánh). Tâm biết si mê không chánh trí thường được hiển lộ ra lời nói và hành động ác.(Thức a lại da). Tâm biết có chánh trí được hiển lộ ra lời nói và hành động thiện, vô ngã không chấp trước (Phật tánh).

.Do vậy khi nào nghe, thấy được lời nói và hành động ác ở người nào đó, là biết ngay thức A Lại Da của người ấy chưa được tiếp nhận cam lồ pháp vũ của Phật, tức là Phật tánh của người ấy đang bị vô minh, phiền não nhận chìm xuống hố thẩm của 5 trược.Đây là thời điểm của của người chưa biết tu tập Phật pháp. Và khi nào nghe, thấy được lời nói và hành động thiện của người nào đó, là biết ngay thức A Lại Da của người ấy đang được lột xác vô minh, tiến dần đến Bạch tịnh thức. tức là Phật tánh của người ấy đang được hiển lộ như hoa sen kia sắp lên khỏi mặt nước. Đây là thời điểm của người biết tu tập Phật pháp.Hai lãnh vực có tu,không tu nói trên,là quy luật hiển nhiên của Hoa nghiêm: Thử hữu cố bỉ hữu.Thử vô cố bỉ vô (Cái này có,cái kia chẳng không.Cái này không,cái kia chẳng có),một cách bình đẳng.
chu-Tam

Người biết tu tập Phật pháp không hạn định là giới nào, mà hễ có đem tâm nhận thức rằng, còn vô minh chấp ngã, phiền não, ác trược trong tâm, là sức mạnh của ác tâm, nó dắt dẫn thối hóa bước đường tu tập.Liền quyết tâm tiêu trừ, dứt sạch cho hết, thì mới có thể yên tĩnh thân tâm trên bước đường tu tập,là sức mạnh thiện tâm.

Để chứng minh cho thấy người người bình dân,nghèo khổ mà đã có nhận thức về sức mạnh của ác tâm và sức mạnh của thiện tâm.Ác tâm, khó có thể yên lòng trên đường tu tập.Chỉ có thiện tâm;một tâm thanh tịnh,mới có thể hòa nhập vào tâm Phật (Phật,chúng sanh tâm thường rỗng lặng…) trên bước đường tu tập để đạt được con đường giải thoát, đó là một bà già nghèo khổ đã nhận thức như vậy,được tác phẩm “Hạt Đậu Biết Nhảy” nói đến.Người viết phỏng theo,có thêm nhiều đoạn văn,để diễn rộng nội dung,cho các đọc giả được hiểu rõ về sức mạnh của tâm qua câu chuyện sau đây:

Giữa biên giới Tây Tạng và Tây Khương có một bà lão nghèo, sống côi cút một mình trong mái nhà tranh. Cuộc sống vật chất của bà bằng nghề trồng trọt ngũ cốc trên vài sào đất ở thung lũng. Vốn có thiện căn Bồ đề, bà nhận thức rằng, con người và kiếp sống thực tại của bà đã và đang bị chìm đắm trong vũng sâu đầy khổ não, gian truân ở bản thân như vậy, là do quả báo nghiệp ác của đời trước đang đeo đẳng trong tâm,nó giày vò thân già bà ở kiếp sống hôm nay, là điều không thể tránh khỏi. Muốn ra khỏi sinh tử khổ đau ấy, là phải tu tập Phật pháp, trong đó có trì tụng kinh,chú và sám hối ăn năn , đừng tạo nghiệp ác nữa, thì các ác trược phiền não, vô minh, chấp ngã sẽ lần lượt bị tiêu trừ hết, được thay vào đó tâm Phật,là con đường giải thoát sinh tử. Sau nhận thức đó, bà quyết chí đi tìm thiện hữu tri thức Phật giáo, để hỏi thăm có cách hành trì Phật pháp nào,hợp với hoàn cảnh bà,để tiêu trừ hết nghiệp chướng phiền não trong tâm,để được có tâm an lạc thanh tịnh trường cửu,là hành trang giải thoát.Do có sức mạnh của tâm mong muốn cầu đạo giải thoát.

Thế là một hôm nọ, bà được một khách hành hương* đã chỉ và hướng dẫn cho bà cách trì tụng câu thần chú ngắn 6 chữ “Om Ma Ni Pát Mi Hôm” của Bồ Tát Quán Thế Âm rất cặn kẽ. Sau đó bà vui mừng và lẩm bẩm câu thần chú từ trên đường về nhà. Nhưng với tuổi già và không biết chữ, cho nên bà nhớ lộn âm “Hôm” thành ra âm “Khuya”. Từ đó bà cứ nhớ trong lòng “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”.

Để giữ cho tâm yên tịnh đừng tạp niệm, bà để một cái bát có đậu nành, một cái bát không trước mặt cho việc trì tụng vào buổi tối. Sau mỗi lần đọc xong câu thần chú như vậy, bà đưa tay lấy một hạt đậu từ bát có đậu bỏ qua bát không. Cứ như thế, từ có qua không, rồi ngược lại suốt 30 năm không ngừng nghỉ bữa nào. Ngoài ra, bà còn trì tụng trong lúc ngồi nghỉ cuốc đất, trồng trọt trên nương dâu nữa.
tam-3

Với tâm thanh tịnh không hề bị tạp niệm, một lòng thành kính, lễ bái lên chư Phật và cương quyết trì tụng thần chú,một cách tinh tấn,không lơi bữa nào. Chính là sức mạnh của tâm,năng lực mầu nhiệm, cho nên vào thời gian gần 30 năm, bà lão không cần đưa tay nhặt hột đậu. Có lẽ do vì chí thành trì tụng mà quên nhặt hạt đậu. Ấy thế vậy mà những hột đậu từ bát có, tự động nhảy qua bát không, sau mỗi lần đọc xong câu thần chú “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”.Nếu không nói rằng; tâm của bà đang có định lực lớn,do không còn khởi tâm lấy hạt đậu ở bát có,bỏ qua bát không nữa.

Vào một chiều chạng vạng (twilight) nọ, có một vị cao Tăng Tây Tạng đi ngang qua vùng đó trên đồi, bỗng nhiên thấy có một vừng ánh sáng rực rỡ thật kỳ diệu,bao trùm khắp không gian trên,dưới,chung quanh ngôi nhà tranh lẻ loi dưới đồi. Làm cho vị cao Tăng Tây Tạng lấy làm kinh ngạc, nghĩ thầm trong lòng rằng; hào quang chung quanh mái nhà tranh kia đang chiếu rọi cả một góc trời như vậy, phải là hào quang của những bậc đạo sư chứng đắc quả vị Phật, Bồ Tát, từ trong ngôi nhà tranh ấy phát ra. Sau đó vị tăng Tây Tạng xuống đồi,vào ngôi nhà tranh.

Khi vào, bà lão không hay biết gì, vẫn ngồi trì tụng thần chú. Vị tăng đứng lắng nghe âm thanh “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”. Thấy dấu hiệu có người vào, bà lão quay lui, đứng lên chấp tay bái xá vị Tăng, nhưng âm thanh “Om Ma Ni Pát Mi Khuya” vẫn phát ra từ đôi môi của bà một cách tự nhiên.

Sau giây phút thăm hỏi, vị Ttăng nhã ý với bà lão:

- Bà cụ ơi, bà đã đọc sai chữ chót của câu thần chú rồi.

- Thưa ngài, sai như thế nào, xin ngài chỉ lại cho con được biết ạ !

- Chữ “HÔM” chứ không phải chữ “KHUYA”. Bà phải đọc “Om Ma Ni Pát Mi Hôm” mới là đúng, đừng đọc “Om Ma Ni Pát Mi Khuya”nữa.

Sau lời sửa sai của vị Tăng, bà lão nhận ra biết mình đã đọc sai suốt 30 năm qua. Từ đó bà rất là buồn cho sự nhầm lẫn trọng đại ấy, suốt 30 năm chỉ là giả tràng xây cát biển đông. Tuy vậy bà vẫn nói lời cảm ơn sự sửa sai của vị Tăng.

Sau khi vị Tăng chào tạm biệt bà lão ra về, bà lão tiếp tục trì tụng thần chú. Lần này bà tụng “Om Ma Ni Pát Mi Hôm” đúng như vị Tăng đã chỉ nhưng, trong lòng vẫn buồn rầu được xen kẽ lúc trì tụng, vì thấy rằng sự trì tụng 30 năm qua thật là uổng công, do đó bà vừa tụng vừa rơi nước mắt.

Vì thế cho nên, lần tụng câu thần chú sau này, những hột đậu không còn tự động nhảy nữa, do không còn sức mạnh chơn tâm,bị thay vào đó sức mạnh tà tâm (bị rối loạn, mất thanh tịnh), Vì vậy ánh sáng hào quang kia cũng bị mất theo luôn.Đúng với định lý Hoa Nghiêm “ Thử vô,cố bỉ vô”(cái này không,cái kia cũng chẳng có).

Để quan sát lại ngôi nhà tranh của bà lão, còn tiếp tục có ánh sáng ấy hay, không. Vị Tăng trên đường trở về bản xứ,có chủ tâm đi vào buổi tối, để xem ngôi nhà tranh của bà lão còn ánh hào quang nữa hay không.Khi đến đúng vị trí nhà tranh của bà lão.Ngài từ trên đồi nhìn xuống chỉ thấy màn đêm buông xuống tối đen, thật là đìu hiu và ủ dột vô cùng! Vị tăng liền giựt mình, nghĩ rằng mình đã hại bà lão ấy rồi, là làm cho bà mất sức mạnh thanh tịnh tâm, không còn tập trung tâm ý, bị rối loạn tâm, nên chi không còn hào quang chư Phật chiếu rọi,hộ niệm cho bà nữa. Vị Tăng liền vội vã xuống đồi,vào nhà bà lão và nói rằng:

- Bà cụ ơi, lời ta nói với bà chiều xưa ấy,chỉ là lời vui đùa thôi! Chứ câu thần chú mà bà đã tụng lâu nay mới đích thực là đúng đấy.

- Con cám ơn Hòa Thượng. Vậy mà con tưởng rằng công lao trì tụng thần chú 30 năm của con đã bị trôi theo mây,khói rồi!

Vị Tăng đi rồi, bà lão vào tiếp tục tụng thần chú “Om Ma Ni Pát Mi Khuya” như thuở nào.

Để xem lại sự tụng niệm của bà lão lần này ở câu “Om Ma Ni Pát Mi Khuya” có còn được hiệu lực như cũ hay,không.Mấy hôm sau, vị Tăng trở lại vào chiều tối,nhân cơ hội đến ngôi chùa gần đó.Ngài đứng trên đồi,nhìn xuống, thấy ngôi nhà tranh của bà lão được tiếp tục tỏa ra ánh sáng hào quang rực rỡ như trước, do tâm tư bà lão được có lại chơn tâm thanh tịnh như ngày nào,là sức mạnh làm cho những hột đậu tự động nhảy trở lại từ bát có qua bát không.Cứ như thế có qua không,khi đầy bát,nhảy vào bát không…


tam-2

Qua câu chuyện trên, cho ta thấy thức A Lại Da(Tâm) ở mỗi con người, bất luận giai cấp nào, hễ có tu tập Phật pháp đúng cách, đúng pháp môn, dù cho có tụng sai âm mà tâm vẫn thanh tịnh, không bị rối loạn,thì Thức a lại da được chuyển thành Bạch Tịnh Thức (Phật tánh được trở về nguyên thể). Từ đây cho ta thấy rằng tâm trên hết,rất quan trọng đối với con người,nó là chủ tể mọi việc hằng ngày của vạn loại hữu tình chúng sanh nói chung,con người nói riêng.Chủ, có nghĩa là tự tại, an nhiên, không bị ngăn cấm, cản trở giống như ông vua,chủ của một nước,cai trị toàn dân, nên chi muốn đi đâu, ở đâu cũng được, do có uy quyền. Tể, có nghĩa là cắt đặt, điều động, điều khiển, sắp đặt, sai sử… giống như quan tể tướng trong triều vua, là vị quan đứng đầu trong tất cả các quan với vai trò cắt đặt, sai sử trông coi việc triều chính quốc gia.Ngày nay,theo thể chế Cộng hòa hay Dân chủ, Tổng Thống kiêm luôn Tổng Tư Lệnh,vừa Chủ,vừa Tể.Cũng như vậy,tâm con người Chủ và Tể cả hai.

Tâm là chủ tể được ví như ông vua trong một nước. Đã là vua, có vua thiện và vua ác đều là chủ tể cai trị dân trong nước. Cho nên vua ác, vua thiện đều chủ tể, tự tại như nhau. Với ông vua có thiện tâm, nhân từ, đạo đức thì luôn quan tâm đến đời sống toàn dân, chăm lo cho dân được an cư lạc nghiệp và khuyên dân tu tập Phật pháp,như vua Trần Nhân Tông của Việt Nam. Còn ông vua có ác tâm, thì buông xuôi việc của dân, để mặc cho toàn dân ra sao đó thì ra, đói no mặc kệ, khổ ách mặc ai, vua an nhiên hưởng lạc, trác táng, sa đọa với cung phi mỹ nữ.

Hai ông vua nói trên, bên thiện, bên ác, cả hai đều có sức mạnh uy quyền như nhau. Ông vua ác có uy quyền qua hành động ác. Ông vua thiện có uy quyền qua hành động thiện.

Cũng như vậy, tâm thiện và tâm ác, cả hai đều có lực chủ tể như nhau. Chủ tể của tâm thiện là tâm luôn luôn hằng chuyển trên dòng sống vô ngã, yểm ly, thanh tịnh, luôn vị tha, thường cứu giúp chúng sinh ly khổ đắc lạc về vật chất và tinh thần,là chỉ cho mọi người biết tu tập các thiện pháp. Chủ tể của tâm ác, là tâm luôn luôn hằng chuyển trên dòng sóng hữu ngã, ích kỷ, không cứu giúp chúng sinh một chút lợi lạc nào, luôn làm cho chúng sinh bị nghèo đói, khổ nạn…

Cho nên tâm là chủ tể của Lục đạo và chủ tể của Phật đạo, Bồ Tát đạo,Thanh văn,Duyên giác đạo, đúng như kinh văn nói: “Tâm giả, đạo chi chủ tể”. Đúng như vậy, có tâm là có đạo, đạo theo tâm, tâm nào thì đạo ấy. Tâm Phật là có Phật đạo trong tâm. Tâm Bồ Tát là có Bồ Tát đạo trong tâm. Tâm nhân từ là có Nhân đạo trong tâm. Tâm tu phước không tu huệ là có Thiên đạo trong tâm. Tâm sân hận và nghi ngờ là có Atula đạo trong tâm. Tâm hung bạo gây khổ đau cho tha nhân là tâm có Địa ngục đạo trong tâm. Tâm tham lam bỏn sẻn là tâm có Ngạ quỷ đạo trong tâm. Tâm si mê tham dục là tâm có Súc sanh đạo trong tâm.

Qua tư tưởng “Tâm giả, đạo chi chủ tể” của kinh văn nói về chủ tể của tâm được qua phần giảng luận trên, cho ta thấy rõ thêm về vai trò của tâm, nó vừa chủ tể nghiệp đạo, vừa tạo tác ra nghiệp đạo, tức là các chủng tử thiện, ác và cũng tự thải hồi chủng tử ác,duy trì chủng tử thiện. Cho nên tâm chủ tể bám sát theo các nghiệp đạo đó, từ thực tại cho đến đoạn cuối ngày mai của đời người, là một quy luật ắt phải,không thể chối từ được, dù là đạo nghiệp cuối cùng đó, là đạo nghiệp Atula, Ngạ quỷ… hay Phật đạo, Nhân đạo, Thiên đạo… tất cả đều là nghiệp đạo cả. Bởi vì một cõi đến của mỗi con người ở cuối đời tại cõi Phật, Trời, Người, hay ngạ quỷ… đều do quả báo nghiệp của những nghiệp đạo đó trong tâm, là sức mạnh dẫn đến một cỏi(một cỏi đi về). Nói rõ thêm, tâm có sức mạnh về loại đạo nào, tâm liền liên kết với loại đạo đó trong đời này và đời sau.

Kết luận..Sức mạnh của Tâm,là tâm chủ tể các đạo,tạo tác ra các thứ Thiện đạo,Ác đạo.Những thứ đạo này luôn đeo đẳng trong tâm,cho nên nói nhiều tâm,là có nhiều đạo trong tâm rất đúng.Nói một tâm (nhất tâm),một đạo,đó là Phật đạo càng đúng hơn đối với các hành giả trên vận hành tu tập Phật pháp,để mong cầu đạt được con đường giải thoát .


* Khách hành hương chính là Bồ Tát Quán Thế Âm sau khi nghe được bà lão vùng Tây Khương khởi tâm mong muốn gặp Phật pháp, để học hỏi mà tu tập sám hối nghiệp chướng, nên Ngài thị hiện ra, chỉ cho bà lão câu thần chú của Ngài là “Om Ma Ni Pát Mi Hôm”( Ưng dĩ Cư sĩ thân đắc độ giả,tức hiện Cư Sĩ thân nhi vị thuyết pháp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9902)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 29105)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15722)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 10026)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7402)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5395)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 13229)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12982)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17592)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35855)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]