Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Đức Nhuận

14/12/201017:52(Xem: 10976)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Đức Nhuận

TIỂU SỬ

HOÀ THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN

thichducnhuan

THÂN THẾ:

Thiền sư THÍCH ĐỨCNHUẬN pháp danh Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng chạp năm Quý Hợi (thứ 7 ngày 19 tháng giêng năm 1924).

Chánh quán: làng Lạc Chánh, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Thân phụ là Đồng Văn Xuân và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần).

Ngài là con thứ tư trong một gia đình thanh bần- dòng quý tộc. Ngài có 2 anh, 1chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).

XUẤT GIA:

Ngài xuất gia năm 1937, Y chỉ sư là Hoà thượng thượng TÂM hạTHƯỞNG, trụ trì chùa làng LIÊU HẢI, phủ Nghĩa Hưng, thuộc sơn môn Phú Ninh( Nam Định)

Năm 1941 thụ Sa di giới tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh.

Năm 1942 thụ Đại giới Tỳ Khưu tại giới đàn Tổ đình Phú Ninh.

Đã học tại các Tùng Lâm:

Tổ đình Phú Ninh

Phật học viện chùa Cồn (Nam Định)

Tổ đình Tế Xuyên (Hà Nam)

Phật học viện Báo Quốc (Huế)

Phật học đường Ấn Quang (Sài Gòn)

ĐẠO NGHIỆP:

Năm 1949, chính thức hoạt động phật sự với chức vụ phó chủ tịch Hội Phật Giáo Nam Định ( Miền Xuân Trường HảiHậu), chủ tịch là Hoà Thượng THÍCH TRUNG QUÁN, trụ trì chùa làng Quần Thượng ( Hải Hậu) và cuối năm 1950, xin từ chức trở về sống nếp sống của một tăng sĩ, tiếp tục sự nghiệp học vấn và nghiên cứu Phật học.

Đầu năm 1954 vào Nam sống cuộc đời tĩnh tu.

Năm 1956-1957, được sự tín nhiệm của chư tăng cử giữ chức chủ tịch ( trị sự trưởng) Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam (GHTGVN).

Năm 1959-61, giữ chức uỷ viên văn hoá Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Năm 1962-63, đảm nhận chức tổng thư ký Giáo hội Tăng Già Việt Nam.

Năm 1963, khởi động phong trào đầu tiên chống chế độ độc tài nhà Ngô (tại Sài Gòn) trong vụ triệt hạ cờ Phật giáo và đàn áp phật tử tại Huế, nhân mùa Phật đản PL 2507(1963).

Năm 1964-65, giữ chức vụ trưởng vụ kiểm duyệt GHPGVNTN.

Năm 1965-66, chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san VạnHạnh, tạp chí nghiên cứu, phát huy Văn hóa Phật giáo và văn hoá dân tộc, với sự cộng tác của một số học giả, giáo sư đại học, văn nghệ sĩ tại thủ đô Sài Gòn (tạp chí xuất bản được tròn 2 năm, 24 số)

Năm 1969-73, Giáo sư phân khoa Phật học và triết học Đông Phương Viện Đại học Vạn Hạnh( sau niên khoá đó, vì bận công tác nên đã xin nghỉ dạy).

Năm 1967-73, giữ chức chánh thư ký Viện Tăng Thống, do đức tăng thống THÍCH TỊNH KHIẾT lãnh đạo và là hộiviên Hội đồng giá phẩm trung ương GHPGVNTN.

Năm 1969-71, trùng tu tổ đình Giác Minh. Nguyên trụ sở Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại Miền Nam.

Năm 1971-72, chủ bút nguyệt san Hoá Đạo, cơ quan truyền bá chánh phátp của Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN.

Năm 1975-87, đảm trách trụ trì tổ đình Giác Minh.

Năm 1985-93, bị nhà nước Việt Nam bắt giam với tội danh “tổ chức chống cách mạng”.

Năm 1993 đến nay (1996), tĩnh tu chùa Giác Minh, Sài Gòn.

Hoà thượng vẫn tiếp tục đọc, viết và ưu tư về đường hướng phát triển của Phật giáo Việt Nam.

Năm 1998 Hoà Thượng đã được chính thức suy tôn lên ngôi vị Cố Vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo GHPGVNTN.

Ngài đã viết cho các Nhật báo: Thời Luận, Tin Sáng, Dân chủ, Gió Nam, và các tạp chí: Phật giáo Việt Nam, Văn Hoá Á Châu, Liên Hoa, Văn, Vấn Đề, Tư Tưởng…..

Đã diễn thuyết về đề tài Phật giáo và Văn Hoá Dân tộc tại các trường Đại học:

Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn (1959)

Trường Quốc gia Âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn(1963).

Viện Phật Học Vạn Hạnh (1970) và đã đề tựa cùng giới thiệu những tác giả và tác phẩm có giá trị về mặt tôn giáo và văn học.

TÁC PHẨM ĐÃ IN:

GIÓ THIÊNG (thơ) Vạn Hạnh, 1959

PHẬT HỌC TINH HOA- Một Tổng Hợp Đạo Lý (đã tái bản 4 lần) Vạn Hạnh 1960

CHUYỂN HIỆN ĐẠO PHẬT VÀO THỜI ĐẠI, Vạn Hạnh 1967

TRAO CHO THỜI ĐẠI MỘT NỘI DUNG PHẬT CHẤT (sách đã dịch ra Anh ngữ, Vạn Hạnh 1969)

SỨ MỆNH NGƯỜI PHẬT TỬ ĐỐI VỚI DÂN TỘC VÀ ĐẠO PHÁP

KIẾN THIẾT VĂN MINH PHẬT GIÁO

ĐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỦ VIỆT

( ba tác phẩm này do Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, USA ấn hành 1995-1996) và tái bản tại Sài Gòn năm 1997.

THƠ: Sáng một niềm tin ( dịch và sáng tác từ năm1975 đến nay), viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành 1999.

HƯỚNG ĐI CỦA THỜI ĐẠI, Viện Triết Lý và Triết Học Thế giới tại California, U.S.A ấn hành 2001.

DỊCH KINH:

- NHỮNG ĐIỀU PHẬT DẠY- Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương.

-LỜI DẠY CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT- Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh.

(cả hai tác phẩm trên nguyên văn chữ Hán trích trong “Thánh Điển Yếu Tập” chùa Giác Minh ấn tống 1980-1995, kýtên: Thái Không).

KHÁI NIỆM TRIẾT LÝ KINH HOA NGHIÊM, Viện Triết LýViệt Nam và Triết học Thế Giới tại California, U.S.A ấn hành 1999.

Vào những năm cuối cuộc đời, chư Tăng và tín đồ chúng theo học hỏi trực tiếp với ngài rất đông.

Vào ngày mồng 8 tháng chạp năm Tân Tỵ (2001), HoàThượng cảm thấy pháp thể khiếm an, mặc dù được các hàng đệ tử, các bác sĩ tại Bệnh Viện Đại Học Y Dược tận tình chăm sóc chữa trị, nhưng vì tuổi cao sứuu yếu, Ngài không qua khỏi và đã an tường xả thân vào lúc 16 giờ 53 phút chiều ngày thứ hai, 21 tháng giêng năm 2002 ( nhằm ngày mùng 9 tháng chạp năm TânTỵ) hưởng thọ 79 tuổi, 59 hạ lạp.

Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đếnlúc viên tịch, Hoà Thượng đã nổ lực không ngừng trong việc xiễn dương đạo Pháp. Cuôc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đao hạnh và sự nghiệp hoằng hoá cho Tăng ni va Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở mai sau.

Sabba pàpassa akaranam
Kusalassa upasampada
Sacitta pariyodapamam
Etam Buddhâna sâsanam.
Dhammapada XIV, 5

Chấm dứt mọi việc ác
Thực hiện những điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Ấy lời đức Phật dạy.

“Đừng tin tưởng vào một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gìvì cớ được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy các người. Nhưng chỉ tin tưởng cái gì mà chính các người đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, có lợi cho mình và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn.”

Anguttara Nikaya

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2017(Xem: 6005)
Đa số chúng ta, ít ra đã có một lần, từng đọc qua lời tuyên bố nổi danh của nhà bác học Albert Einstein, tôi xin dịch lại cho sát ‘ý của Einstein từ Tây sang.’ “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạo và loại bỏ những giáo điều và thần học. Bao gồm cả thực tại và tâm linh, nó nên được đặt trên nền tảng của một tôn giáo trí tuệ, vượt trên tất cả những kinh nghiệm của hiện tại, tự tánh và Tâm Thức, đầy ý nghĩa ‘Đồng Nhất Thể.’ Phật Giáo đáp ứng được công án này. “The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description.” Albert Einsteinle
23/03/2017(Xem: 11064)
Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : Núi cao, thác ghềnh, quán cà phê, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa,
20/03/2017(Xem: 12466)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
20/03/2017(Xem: 8507)
Nhân dịp đức Phật về Thành Ca Tỳ La Vệ giáo hóa hay tin công chúa Da Du Đà La mới bảo con mình đến gặp Phật xin chia gia tài, Phật mới nói rằng ta bây giờ không còn nắm giữ tài sản thế gian, chỉ có tài sản của bậc Thánh, nếu con muốn ta sẽ chia cho con? La Hầu La nghe Phật nói liền chấp nhận và sau đó phát tâm xuất gia tu theo Phật. Các bạn biết gia tài tâm linh đó là gì không? Này các bạn, đức Phật của chúng ta trước khi đi tu vẫn có vợ có con, sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề thấu rõ mọi nguyên lý sai biệt như phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do chính mình tạo lấy, sau đó Phật mới trở về tiếp chúng độ sinh. Bảy thứ gia tài Thánh nếu chúng ta biết ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta sẽ giàu có và tràn đầy hạnh phúc, không một ai có thể cướp đi được. Đức Phật của chúng ta đã thừa hưởng gia tài đó, nên đã không còn luyến tiếc cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, và thần dân thiên hạ.
20/03/2017(Xem: 9891)
Sau khi nhịp đập của con tim bị ngừng lại và cùng lúc 5 giác quan của toàn thân con người không còn biết cảm giác, gọi là Chết. Nhưng thức A-lại-da bên trong vẫn còn hằng chuyển liên tục và hoạt động một mình. Sự hoạt động đơn phương của nó y như lúc con người còn sống đang ngủ say.Thức A-lại-da hoạt động một mình, không có 5 giác quan của cơ thể bên ngoài cộng tác
16/03/2017(Xem: 8691)
Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.
16/03/2017(Xem: 9052)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
13/03/2017(Xem: 6353)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực.
11/03/2017(Xem: 9239)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
01/02/2017(Xem: 5267)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]