Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại Cương Về Luận Câu Xá

11/11/201017:36(Xem: 17833)
Đại Cương Về Luận Câu Xá


ĐẠI CƯƠNGVỀ LUẬN CÂU XÁ

Hòathượng Thích Thiện Siêu
Họcviện Phật giáo Việt Nam tại Huế, PL. 2543 - TL. 1999

TỰA

Toànbộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mêkhai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui.Mê thì khổ, ngộ thì vui. Mê thì thành chúng sanh luân hồisanh tử, ngộ thì thành chư Phật giải thoát Niết-bàn. Nhưngmê là tâm mà ngộ cũng là tâm. Chuyển mê khai ngộ tức làchuyển đổi tâm mê lầm thành tâm giác ngộ. Như vậy đạoPhật chính là đạo nói về tâm (Phật ngữ tâm tông, nhấtthế Phật ngữ tâm). Tùy theo trình độ căn cơ của chúngsanh mà mỗi kinh nói về tâm mỗi khác. Khi thì nói về tâmtánh, khi thì nói về tâm tướng, khi thì nói về tâm dụng.Thậm chí có khi đề cập vấn đề thế giới sắc trần,sự vật chuyển biến nhưng cũng cốt để chỉ rõ tâm hầudễ thực hành chuyển mê khai ngộ.

KinhPháp Cú nói: "Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác mọisự". "Ham muốn sinh lo, ham muốn sinh sợ, không còn ham muốncó lo sợ gì !" Đó là nói tâm.

KinhA-hàm nói: "Tứ đế, Thập nhị Nhơn duyên, Vô thường, Vôngã, Giới, Định, Tuệ...". Đó là nói tâm.

KinhBát-nhã nói: "Bát nhã tâm, vô sở đắc, vô trụ, nhất thiếtkhông, vô trú sinh tâm, vô tướng vô tự tánh...". Đó là nóitâm.

KinhHoa Nghiêm nói: "Tam giới thượng hạ pháp, duy thị nhất tâmtắc. Tâm như công họa sư, họa chủng chủng thế gian. Ưngquán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo...". Đó là nóitâm.vô tướng vô tự tánh...". Đó là nói tâm.

KinhLăng Già nói: "Năm pháp, ba Tự tánh, tám thức, hai Vô ngã.Thánh trí tự giác ...". Đó là nói tâm.

KinhLăng Nghiêm nói: "Bảy chỗ gạn tâm, mười phen chỉ tánh thấy.Thức tinh nguyên minh, tánh tịnh minh thể, tri kiến lập tri,tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn...".Đó là nói tâm.

KinhPháp Hoa nói: "Phật tri kiến, nhất thừa đạo, chúng sanh đềuthành Phật...". Đó là nói tâm.

KinhNiết-bàn nói: "Phật tánh thường trú, thường lạc ngã tịnh...".Đó là nói tâm.

KinhViên Giác nói: "Huyễn tùng giác sanh, huyễn diệt giác viên,giác tâm bất động...". Đó là nói tâm.

Thiềntông nói: ''Bản lai diện mục, vô vị chân nhân. Thuyền khôngđáy, đàn không giây...". Đó là nói tâm.

Nhưngtrong kinh, đức Phật nói tâm một cách vắn tắt cô đọng.Các vị Tổ sư, Luận sư mới dựa theo để suy tầm tu chứngphát hiện ra nhiều ý nghĩa ẩn khuất trong đó, mới tạoluận để giải thích, dần dần mới phát sinh nhiều ý nghĩamới lạ độc đáo giúp cho hành giả có thêm sự hiểu biếthết sức phong phú. Từ lý Tứ đế, ngài Long Thọ đã kháiquát thành hai đế là tục đế và chơn đế, hay thế tụcđế, thắng nghĩa đế. Ngài Hộ Pháp lại khai triển ra thànhbốn lớp hai đế (Tứ trùng Nhị đế) là thế gian thế tụcđế, đạo lýï thế tục đế, chứng đắc thế tục đế,thắng nghĩa thế tục đế, thế gian thắng nghĩa đế, đạolý thắng nghĩa đế, chứng đắc thắng nghĩa đế, thắngnghĩa thắng nghĩa đế. Chữ vô minh trong kinh cũng được trongluận chia ra làm phát nghiệp vô minh, nhuận sanh vô minh, nhiễmô vô tri, bất nhiễm ô vô tri, kiến hoặc, tư hoặc, trầnsa hoặc, vô minh hoặc, năm trụ địa vô minh. Luận Du-giàcuốn hai còn nói đến mười lăm thứ vô minh. Ngay luận Câu-xánày cũng đã hệ thống năm uẩn, mười hai xứ, mười támgiới thành ba khoa và phân tích một cách tỉ mỉ theo hai mươihai phương diện (hai mươi hai môn phân biệt) và đặt chúngthành một vấn đề tranh cải giữa các bộ phái Tiểu thừavề tính hư thật của chúng. Những gì thuộc về tâm mê nhưnăm cái, mười triền mười hoặc...và những gì thuộc vềtâm ngộ như giới, định, tuệ, biến tri, biến đoạn, tậntrí, vô sanh trí...đều được gom lại sắp đặt có hệ thốngđể luận giải làm cho rõ ràng từng ly từng tí quá trìnhdiễn biến trong khi mê, cũng như tuần tự tu chứng trên bướcđường ngộ.

Đâylà những hiểu biết sâu sắc, rộng rãi và cần thiết đểxác định rõ ràng từng bước chuyển mê khai ngộ mà luậntạng đã cung cấp cho chúng ta. Tuy nhiên bên cạnh cái hay đó,luận tạng đã không tránh khỏi nhược điểm vì đôi khiphân tách quá tỉ mỉ làm cho vấn đề bị văm vún, lại cókhi còn nêu những việc tầm thường như vì sao có hai mắt,thấy với một mắt hay với hai mắt?...khiến cho người đọcbị chán nản, khó tập trung nghiên cứu các vấn đề thâmáo hơn. Vì lẽ đó ở tập Đại Cương Luận Câu Xá này chúngtôi đã lờ đi những gì tỉ mỉ rườm rà, mà chọn lấyphần rất cương yếu hầu giúp cho Tăng Ni sinh và những aikhông ở vào hạng căn cơ "nhất đao triệt đoạn, nhất cúliễu nhiên siêu bách ức" muốn biết được phần giáo lý"chuyển mê khai ngộ" cơ bản của luận Câu Xá, trước khinghiên cứu sâu xa vào những chi tiết đầy đủ.

Đọcluận Câu Xá và các luận thư A-tỳ-đạt-ma khác, còn cho thấylịch sử chuyển biến về tư tưởng Phật giáo từ sau ngàyphân chia hai bộ Thượng tọa và Đại chúng với sự hăngsay sôi nổi tranh biện về giáo lý giữa các bộ phái suốtmột thời gian dài trên 400 năm sau kỳ kết tập kinh điểnlần thứ hai tại Tỳ-xá-ly.

Riêngluận Câu-xá còn có vị trí rất quan trọng đối với Hữubộ, cũng như luận Thắng Pháp Tập Yếu của ngài A-nậu-lâu-đàcó một vị trí rất quan trọng đối với Tân Thượng tọabộ. Và có thể nói môn tâm lý học, đạo đức học Phậtgiáo cũng đã được các luận này trình bày khá đầy đủ.

TừĐàm, ngày 28 tháng 11 năm 1991
Soạnthuật
-ooOoo-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/08/2019(Xem: 10644)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10838)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11304)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16254)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
27/05/2019(Xem: 4867)
Tác giả William Edelglass là tân giám đốc về nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Học Barre và là giáo sư triết học và môi trường tại Trường Cao Đẳng Marlboro College tại tiểu bang Vermont. Công việc của ông đã đưa ông tới Dharamsala, Ấn Độ, nơi ông dạy cả triết học Tây Phương cho chư tăng Tây Tạng tại Học Viện Institute of Buddhist Dialectics và triết lý Phật Giáo cho các sinh viên đại học Mỹ về chương trình nghiên cứu Tây Tạng. Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
02/05/2019(Xem: 6469)
Vì thương xót hết thảy hữu tình phải chịu phiền não, đau thương do tham ái mà bị trôi dài trong bể khổ sinh tử luân hồi, Đức Phật hiện ra ở đời để lại cho thế gian vô số pháp môn tu tập, tùy theo căn cơ, sở trường và hoàn cảnh của mỗi chúng sanh mà chọn lựa pháp hành thích ứng để tu tập nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Chư pháp của Thế Tôn được ví như những thang thuốc tùy bệnh mà bốc thuốc. Trong số đó, Tuệ quán vô thường, khổ và vô ngã của tất cả pháp, qua đó hành giả quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diệt, quán tánh xả ly của tất cả pháp, là pháp “tối thượng” và vi diệu ‘nhất’ vì nếu hành giả thường xuyên hành trì sẽ ‘chứng đạt’ Tuệ Giải Thoát, vị ấy sẽ đoạn tận mọi kiết sử, không còn khổ đau, phạm hạnh đã thành, chánh trì giải thoát, là bậc A-La-Hán.
24/04/2019(Xem: 3987)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thật ,nhiếp phục uế trược cám dỗ cũng thật, tài sản, vợ con, tình yêu, danh vọng, địa vị …đều thật hết. Chính cái Thật đó mà khổ đau phát sanh cũng là Thật.
01/03/2019(Xem: 5140)
Triết Học Phật Giáo Ấn Độ, Hayes Richard, Thích Nguyên Tạng (dịch), Phật giáo (PG) là một thành tố quan trọng, hỗn hợp các triết lý khác của tiểu lục địa Ấn Độ trong hơn một ngàn năm qua. Từ phần đầu khá lặng lẽ, vài thế kỷ trước Tây lịch, nền học thuật PG gia tăng sức mạnh cho tới khi đạt đến đỉnh cao ảnh hưởng và tính chất độc đáo trong nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Từ thế kỷ thứ mười một trở đi, PG dần dần suy thoái và cuối cùng biến mất ở miền Bắc Ấn Độ. Mỗi nhà tư tưởng chú trọng vào những đề tài khác nhau, nhưng khuynh hướng chung của đa số họ là trình bày một hệ thống triết lý nhất quán, bao gồm đạo đức học, tri thức học và siêu hình học. Phần lớn những đề tài mà các triết gia PG Ấn này viết, là phát xuất trực tiếp từ những giáo lý được xem là của Sĩ-đạt-ta Cồ Đàm (Siddhartha Gautama), thường được tôn xưng bằng danh hiệu là Đức Phật.
16/02/2019(Xem: 5970)
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn chương và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
01/02/2019(Xem: 7613)
Những câu văn không chuẩn văn phạm vì thiếu những chủ từ [subjects] trong những bài triết luận về Phật Giáo mà tôi đã, đang, và sẽ viết không phải là tôi cố ý lập dị như những triết gia danh tiếng trên thế giới khi họ hành văn (chương) và viết về triết học nhưng mà tôi không có thể làm cách nào khác hơn khi viết về ý vô ngã [không Tôi] để không bị mâu thuẫn với ý phá ngã.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567