Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo Dục Phật Giáo Và Định Hướng Tương Lai

31/12/201205:56(Xem: 5748)
Giáo Dục Phật Giáo Và Định Hướng Tương Lai

Phat tri thuc
Giáo Dục Phật Giáo Và Định Hướng Tương Lai

Thích Phước Minh

Nam Mô Bổn Sư Thí ch Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư tôn thiền đức tăng Ni! Kính thưa Hội thảo!

Phật giáo hiện hữu trên đất nước Việt Nam, hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước Phật giáo luôn làm tròn sứ mệnh của một tôn giáo gắn liền với nền văn hoá nước nhà. Chiến tranh đi qua, để lại bao đau thương mất mát, cảnh vật hoang tàn, đời sống nhân dân nghèo đói cơ hàn. Đến thời độc lập, ngoại xâm không cò n nữa, đất nước từng bước chuyển mình đi lên, Phật giáo cũng nhịp nhàn thay màu đổi sắc vươn lên, GHPGVN được ra đời vào ngày 07/11/1981 đến nay gần 22 năm với VI nhiệm kỳ hoạt động của giáo hội.

Để chào mừng Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam vào cuối năm 2012, đồng thời để được tiếp thu nhiều ý kiến sáng tạo của Tăng Ni tôn túc, những học sĩ, thức giả chuyên gia các ngành giáo dục, hầu mong tìm ra hướng đi mới cho nền Giáo dục Phật giáo Việt Nam trong tương lai. Ban Giáo dục Tăng Ni TW tổ chức Hội thảo với chủ đề: “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển". Hội thảo được tổ chức vào ngày 8 -9 tháng 5 năm 2012, tại Học viện Phật giáo Việt Nam Hà Nội. Hân hạnh được mời tham dự và đóng góp tham luận. Trước hết thành kính gởi lời chào mừng trân trọng nhất đến Chư tôn Giáo phẩm Đại đức Tăng Ni, Ban tổ chức và chư vị thức giả tri thức, cung chức sức khoẻ, an lạc. Chúc Hội thảo thành công viên mãn. Thứ đến xin được trình bày một số ý thiển cận của mình thông qua đề tài “giáo dục Phật giáo và định hướng tương lai” chủ đề này trong quy định của ban tổ chức.

Kính bạch Chư tôn đức. Kính thưa Hội thảo.

Nói đến Giáo dục là nói đến việc đào tạo con người, tất cả các nước trên thế giới đã và đang phát triển bền vững về nhiều mặt kinh tế, chính trị, văn hoá......, điều kiện tiên quyết vẫn là yếu tố giáo dục được quan tâm đúng mức. Đối với Giáo dục Phật giáo việc đào tạo con người không phải để có kiến thức làm nên của cải vật chất, mà làm con người hoàn hảo mẫu mực, có nghị lực và trí tuệ vượt qua sự cám dỗ của danh vọng, vật chất và tình cảm đời thường; tiến xa hơn một bậc nữa là dự vào hàng trung tôn cao quý trong nhân loại.

Phật giáo Việt Nam ngày nay, song hành với đà phát triển của đất nước, từng bước ổn định đi vào nề nép, cơ quan hành chánh của Giáo hội đ ược kiện toàn vững mạnh từ Trung ương đến các quận huyện, tỉnh thành trên khắp mọi miền đất nước. Chùa chiềng khắp nơi lần hồi phục hưng, trùng tu trang nghiêm. Học viện ố 04 trường, Cao đẳng 9 lớp, Trung cấp Phật học 33 trường và gần 100 lớp sơ cấp chia đều cho các tỉnh thành. Với số lượng như thế thật đáng vui mừng, nhưng về tương lai lâu dài thì cần phải có quyết sách và định hướng mới. Cho nên Ban giáo dục Tăng Ni tổ chức hội thảo lần này thật đúng thời, đúng lúc và đầy tinh thần nhiệt huyết với sự nghi ệp giáo dục và Giáo hội Phật giáo nước nhà.

Để đóng góp một số ý cho công tác Giáo dục Phật giáo trong tương lai xin được trình bày một số ý như sau:

- Cơ sở vật chất: So với mật độ địa lý nước ta hiện nay, cũng như Tăng Ni sinh hiện có thì số lượng trường lớp mở ra như trình bày ở trên thì quá nhiều. Một số trường hiện nay không đảm bảo số lượng Tăng Ni cho một lớp học. Nên chăng vài ba tỉnh thành lân cận mở một trường cao đẳng hoặc trung cấp, (tỉnh này mở trung cấp thì tỉnh kia cao đẳng v.v.).

- Giáo trình giáo dục: Chưa có giáo án đồng bộ (việc này nghe ra đã định hướng từ lâu nhưng chưa thực hiện), nên việc giảng dạy còn mang tính tự phát chưa đem lại hiệu quả cao. Mặc khác Tam tạng Thánh điển Phật giáo hiện nay có rất nhiều người dịch, nhiều người viế t nên có nhiều luồn tư tưởng đối nghịch nhau, tông phái này chỉ trích, bài bát tông phái khác...Cần chọn lọc một số kinh luật luận nhất định để đưa vào giảng dạy.

- Giảng viên đứng lớp cần có đào tạo sư phạm chuyên mônmột cách bài bản, thông qua các lần sát hạch, cấp bằng sư phạm để về đứng lớp tại địa phương cũng như có thể tham gia giảng dạy các trường trên cả nước.

- Chất lượng đào tạo hiện nay tại các học viện chưa cao nên một số cử nhân Phật học ra trường về địa phương không có khả năng đứng lớp giảng dạy,mà có chăng thì giảng dạy cũng không có hiệu quả là bao. Nguyên nhân nguồn đầu vô của học viện hiện nay quá dễ dàngnên đầu ra không đảm bảo chất lượng.

- Các trường trung cấp chưa có chế tài nghiêm và những yếu tố khích lệ khác, chẳng hạn như cấp học bổng hằng tháng cho học sinh khá giỏi để có động lực cho Tăng Ni sinh phấn đấu trong học tập.

- Kinh phí đầu tư cho ngành giáo dục của Phật giáo chúng ta dường như chưa hề có ai nhắc đến, các tỉnh có trường, Ban giám hiệu tự vận động cân đối chi phí để tồn tại, không có các khoảng ưu tiên nào khác từ nguồn của giáo hội trung ương hoặc Ban trị sự. Giảng viên đứng lớp cũng chỉ đem nguyện lực cống hiến cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, lương hướng cũng chỉ là phụ cấp thù lao lộ phí xăng dầu.

- Vẫn biết rằng chỉ có Giáo dục tốt mới duy trì và phát triển mạng mạch Phật pháp, đem đạo vào đời. Đào tạo được một Tăng Ni có tài đức thì có thể làm được nhiều ngôi chùa và hướng dẫn được rất nhiều người tu học đúng chân lý, góp phần rất lớn vào công tác phát triển giáo hội. Nhưng hiện nay tại Việt Nam vai trò của ngành giáo dục Phật giáo ít được nhiều người nhắc đến. Nói một ý vui, mỗi lần được tham dự lễ khánh thành chùa, đúc chuông v.v. thường bắt gặp treo câu nói kinh điển “Làm chùa, tạo tượng, đức chuông ba công đức ấy thập phương nên làm”, hoặc giả câu này cũng thường được nhắc đến khi các bậc tôn túc đáp từ. Tự hỏi tại sao công đức đào tạo Tăng tài to lớn thế mà chẳng mấy khi có ai nhắc đến. Thử hỏi cứ đà như hiện nay Phật giáo tương lai không biết sẽ đi về đâu ?.

Thông qua những nhận định trên, chúng tôi thiết nghĩ ngành Giáo dục Phật giáo cần phải có định hướng mới, chú trọng về chất lượng hơn là số lượng. Trung Ương Giáo Hội cũng như Ban Tăng Sự cần quy định nghiêm khắc hơn về thủ tục cho thọ giới đối với những hành giả sống hơn nữa đời người, vào chùa xuất gia vài năm được thọ giới Tỳ Kheo, ăn trên ngồi trước, không theo học trường lớp nào cả. Thử hỏi dễ dãi như vậy cũng góp phần làm nhuộc chí hướng cầu học cho lớp trẻ hiện nay. Phải chăng Phật giáo thời tiền Trần rất thịnh hành, Vua quan sũng ái hàng Tăng sĩ nên ai cũng có thể cạo đầu xuất gia ở chùa, số lượng Tăng Ni quá nhiều so với lượng dân số, người có chí hướng học Phật thì ít, kẻ không học buôn thả ăn chơi thì nhiều, nên làm mất niềm tin nơi số đông quần chúng dẫn đến Phật giáo bị suy thoá. “Đến cuối thế kỷ thứ XIV, giáo hội bắt đầu không còn kiểm soát được tăng sĩ nữa. Năm 1396, vua Thuận Tông xuống chiếu thải bớt tăng sĩ dưới năm mươi tuổi, ...tất cả các tăng sĩ Phật giáo và đạo sĩ Lão giáo đều phải đến trình diện và kiểm xét khảo thí. Ai thi đậu thì cho làm tăng sĩ và đạo sĩ, còn ai thi hỏng thì bắt hoàn tục...” (trích “Vài nét về PG thời Trần” của Tuệ Quang).

Trong khuôn khổ cho phép, không thể trình bày hết mọi vấn đề cần thiết cho tương lai của nghành giáo dục Phật giáo nước nhà, người viết chỉ mong làm sao tất cả những các ban ngành trực thuộc Giáo hội PGVN đều đồng lòng quan tâm ngành Giáo dục, để tương lai không bị trược dốc như cuối thời Trần đã nói trên. Một ước mơ cuối cùng, chúng ta phấn đ ấu làm để một ngày nào đó văn bằng tốt nghiệp Học viện và Cao học Phật giáo có giá trị thực thụ xứng tầm với văn bằng Đại học ngoài xã hội. Để những người tu sĩ có tinh thần nhiệt huyết cống hiến được nhiều hơn cho Đạo pháp và Dân tộc.

Cuối cùng kính chúc chư tôn đức, quý liệt vị sức khoẻ, an lạc. Chúc Hội thảo thành công viên mãn.

TT THÍCH PHƯỚC MINH

UVBGDTN, PBTS, HT T Cao Trung Phật Học tỉnh Quảng Nam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/10/2010(Xem: 10297)
Tác phẩm “Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ” mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng có(bhŒva) và không(Sènyatˆ) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thiết thân giữa hai học thuyết này. ..
06/10/2010(Xem: 3918)
Bất biến tùy duyên. Trong Tinh Hoa Triết học Phật giáo (Essentials of Buddhist Philosophy), Tuệ Sỹ dịch, Junjiro Takakusu tóm lược bốn thuyết duyên khởi sắp hạng theo thứ tự từ thời Pháp Tạng từ Nghiệp cảm duyên khởi, đến A-lại-da duyên khởi, Chân như duyên khởi, và cuối cùng, Pháp giới duyên khởi.
29/09/2010(Xem: 5809)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
29/09/2010(Xem: 8680)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 6079)
Sinh trưởng tại miền Đông Tây-Tạng vào năm 1936, Trưởng Lão Đại Sư Garchen Rinpoche thuộc giòng Drikung Kagyu là hoá thân của một vị đại thành tựu giả tên Siddha Gar vào thế kỷ 13 -- đệ tử tâm truyền của ngài Kyobpa Jigten Sumgon, vị Tổ lừng danh của giòng phái Drikung Kagyu của Phật Giáo Tây Tạng. Trong thời đại Cổ Ấn, Đại Sư Garchen Rinpoche chính là hoá thân của đại thành tựu giả Thánh Thiên (Aryadeva), vị đệ tử đản sanh từ bông sen của ngài Long Thọ Bồ Tát. Vào thế kỷ thứ 7, Đại Sư Garchen Rinopche là Lonpo Gar tức vị khâm sai đại thần của Pháp vương Songsten Gampo, vị vua lừng danh trong lịch sử Tây-Tạng
28/09/2010(Xem: 5228)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
27/09/2010(Xem: 4174)
“Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước. Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta sẽ chết”. Đấy là bài học học đầu tiên mà tôi học được từ thầy của mình cách đây 39 năm, vào cái ngày đầu tiên sau khi tôi trở thành một chú tiểu.
23/09/2010(Xem: 5007)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định. Với lời tuyên thuyết của Bồ tát Long Thọ: “Các pháp do duyên khởi nên ta nói là Không” (Trung luận, XXIV.18), đa số học giả sử dụng Không và Duyên khởi như đồng nghĩa.
22/09/2010(Xem: 6076)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
18/09/2010(Xem: 3801)
Khi mỗi cá nhân có cái nhìn chánh tri kiến trong vấn đề giới tính, ắt hẳn họ sẽ xây dựng một gia đình tốt đẹp. Mỗi gia đình đều có một đời sống như vậy sẽ góp phần thiết lập đời sống hạnh phúc cho toàn xã hội, cho mỗi quốc gia dân tộc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567