Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cây Giác-Ngộ (The Tree of Enlightenment)

07/02/202417:45(Xem: 7806)
Cây Giác-Ngộ (The Tree of Enlightenment)

duc the ton

Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2001
***
Đây là quyển sách Phật học Tây phương thực dụng và cận đại,
đề cập đến các Tông phái chính của Phật giáo, gồm Bốn Phần. Cuối mỗi Phần đều có Chương chỉ dẫn các cách tu tập cho đời sống thực tiễn hằng ngày.
(An Introduction to the Major Traditions of Buddhism and Practices in Daily Life).


Mục lục
---o0o---

Lời tác giả
Lời người dịch
Đôi nét về Tác giả

Phần Một.
Các Nguyên tắc Căn bản của Phật giáo (Tài liệu từ tiếng Nam Phạn Pali: LND)

Chương 1

Phật giáo: Một Triển vọng Cận đại

Chương 2
Bối cảnh Tiền Phật giáo

Chương 3
Cuộc đời của Đức Phật

Chương 4
Tứ Diệu Đế

Chương 5
Đức hạnh (Giới)

Chương 6
Phát triển Tinh thần (Định)

Chương 7
Trí tuệ (Huệ)

Chương 8
Nghiệp quả

Chương 9
Tái sinh

Chương 10
Duyên khởi

Chương 11
Ba Đặc tính Phổ biến (Tam Ấn)

Chương 12
Năm Món Hợp thành Người (Ngũ Uản: LND)

Chương 13
Thực hành cho Đời sống

Phần Hai.

Đại Thừa (Tài liệu từ tiếng Bắc Phạn Sanscrit: LND))

Chương 14
Nguồn gốc Đại thừa

Chương 15
Kinh (Diệu) Pháp (Liên) Hoa

Chương 16
Kinh Bát nhã Ba la mật đa

Chương 17
Kinh Lăng già

Chương 18
Triết lý Trung đạo

Chương 19
Triết lý Duy tâm

Chương 20
Sự Phát triển của Triết lý Đại thừa

Chương 21
Thực hành cho Đời sống

Phần Ba.

Kim cương Thừa (Tài liệu từ tiếng Bắc Phạn)

Chương 22
Nguồn gốc Kim cương thừa

Chương 23
Các Nền tảng Triết lý và Tôn giáo

Chương 24
Phương pháp luận

Chương 25
Huyền thoại và Biểu tượng học

Chương 26
Tâm lý học, Sinh lý học và Vũ trụ học

Chương 27
Thực hành tiên khởi

Chương 28
Lễ kết nạp trong Kim cương thừa

Chương 29
Thực hành cho Đời sống

Phần Bốn.

Vi diệu Pháp (Tài liệu từ tiếng Nam Phạn Pali)

Chương 30
Vi diệu pháp nhập môn

Chương 31
Triết lý và Tâm lý trong Vi diệu pháp

Chương 32
Phương pháp luận

Chương 33
Phân tích Thức

Chương 34
Sắc giới và Vô sắc giới

Chương 35
Siêu thức

Chương 36
Phân tích các Tâm hành (Tâm sở)

Chương 37
Phân tích các Tiến trình Tư tưởng

Chương 38
Phân tích Sắc (Vật chất)

Chương 39
Phân tích thuyết Duyên khởi (hay: tính Bị Tác động, luật Nhân Quả...)

Chương 40
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo

Chương 41
Thực hành cho Đời sống





PDellaSantina1Lời Tác giả


Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.

Nhằm giữ được các mục tiêu độc đáo của các bài giảng, quyển sách này cố giữ không có nhiều từ khó hiểu. Nó nhắm vào đại chúng không quen nhiều với các môn học hay các loại ngôn ngữ kinh điển Phật giáo. Vì thế, các từ ngôn ngữ gốc được giữ ở độ tối thiểu và các phụ chú đã được tránh dùng. Các tên của kinh điển đôi khi được để nguyên không dịch ra, đó là vì các chữ dịch tiếng Anh nghe không ổn và không làm đề tài được rõ ràng hơn. Nói chung tôi hy vọng rằng quyển sách này sẽ được xem như là bước đầu của việc giáo dục về Phật giáo của các độc giả và đòng thời cũng không phải là bước cuối. Quyển sách này có thể cung cấp như là một sự làm quen tổng quát về các tông phái chính của Phật giáo, nhưng tôi cũng không có ý cho nó là toàn bộ và dứt khoát. Tôi cũng không dám xác quyết là không còn lỗi. Vì thế tôi xin lỗi trước nếu có lỗi dù rằng tôi đã cố gắng hết sức mình.

Một số từ ngữ và tên riêng thuộc ngôn ngữ gốc mà hiện nay đã trở thành ngôn ngữ Anh như Pháp (Dharma), nghiệp (karma), Niết bàn (Nirvana) và Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) đã được dùng trong suốt quyển này đưới hình thức của tiếng Bắc Phạn Sanscrit. Phần còn lại, các từ ngữ gốc Nam Phạn Pali, tựa sách và các tên riêng đã được giữ lại trong phần I và IV được dựa vào nguồn tài liệu Pali; trong khi đó các từ chuyên môn gốc Bắc Phạn, các tựa sách và danh từ riêng đã được dùng trong phần II và III hầu hết đều dựa vào nguồn tài liệu Bắc Phạn và Tây tạng. Thỉnh thoảng, luật chung này đã được bỏ qua khi tên sách và người muốn nói đến trong một tài liệu nhất đ?h lại xãy ra vào các ngôn ngữ kinh điển khác. Trong nhiều trường hợp cả hai tiếng Bắc Phạn Sanscrit và Nam Phạn Pali đều tương đối giống nhau, tôi tin rằng độc giả trung bình sẽ không có sự khó khăn trong việc tìm hiểu với sự sắp xếp này.

Tôi chịu ơn rất nhiều một số lớn bạn bè cho việc thực hiện quyển sách này. Trên và trước nhất, tôi xin cảm ơn H.H. Sakya Trizin. Nếu không nhờ vị này, sở thích của tôi về Phật giáo vẫn còn nông cạn và chỉ là tri thức mà thôi. Kế đến tôi xin cảm ơn Yeo Eng Chen và nhiều thành viên của cộng đồng Phật giáo Singapore. Nếu không có sự giúp đỡ và khuyến khích, các bài pháp này sẽ không bao giờ được giảng và những bài viết gốc mà quyển sách này dựa vào sẽ không bao giờ thực hiện được. Kế đến nữa, tôi cũng xin cảm ơn rất nhiều bạn và học viên khắp Á, Âu và Mỹ châu đã khuyến khích tôi nghĩ đến việc các bài giảng pháp này có thể đem lợi lạc cho một giai tầng độc giả nhiều hơn và cao hơn. Cuối cùng, tôi muốn cảm ơn tất cả những người nào đã liên hệ đến việc thực hiện thực sự quyển sách này. Những người này bao gồm, các thành viên của nhóm nghiên cứu Pháp Phật vùng Chico (California), đặc biệt, Jo và Jim Murphy, Victoria Scott cho việc giúp đỡ soạn bản thảo của cô, L. Jamspal cho việc giúp đỡ của anh về các từ nguyên ngữ, vợ tôi Krishna Ghosh cho việc nàng bỏ ra hằng giờ kiểm lại bản thảo, và con trai tôi Siddharta Della Santina cho việc vẻ bìa và sắp xếp chương trình thành bản in.

Sau cùng, tôi xin được cống hiến quyển sách này cho đại chúng. Cơ sở Học hỏi Pháp Phật Chico hy vọng khởi xướng được một chương trình, qua đó các tài liệu Nghiên cứu các Vấn đề Phật giáo có thể có được cho các học viên Phật giáo qua một số lớn phương tiện truyền thông mà khỏi phải qua sự trả công có lợi nhuận. Hiện nay, quyển sách này đang có dưới hình thức bìa cứng và trên mạng lưới toàn cầu. Trong tương lai, Cơ sở Nghiên Cứu Pháp Phật Chico dự định in ra nhiều tài liệu quan trọng trong các lãnh vực triết lý, thực hành và dân gian Phật giáo, bao gồm tài liệu cho trẻ em và thanh thiếu niên. Chúng tôi sẽ vui mừng có sự giúp đỡ của bất kỳ quí vị nào muốn đóng góp dưới bất cứ hình thức nào cho những hoạt động giáo dục của Cơ sở và chúng tôi mời các bạn tiếp xúc với chúng tôi cùng với những lời đề nghị của bạn.

Peter Della Santina
7.7.1997 Chico, California, USA.
Chico Dharma Study Foundation
26 Kirkway, Chico, CA. 95928
U.S.A.
E-mail: [email protected]




PDellaSantina1
Đôi nét về Tác giả

Peter Della Santina sanh tại Hoa kỳ. Ông đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu và dạy học ở Đông Nam Á . Sau khi tốt nghiệp Cử nhân Tôn giáo tại Đại học Wesleyan, Connecticut (Mỹ) vào năm 1972, ông sang Ấn độ và học lấy bằng Cao học Triết học tại Đại học Tân đề li (Ấn) 2 năm sau đó. Năm 1979, Santina đã hoàn thành học vị Tiến sĩ Phật giáo cũng tại Đại học Tân đề li.

Ông làm việc với tư cách học giả trong 3 năm cho Viện Nghiên cứu Các Tôn giáo Thế giới Cao cấp thuộc tiểu bang New Jersey, phiên dịch các kinh sách triết học Phật giáo Tây tạng thế kỷ thứ VIII. Ông dạy tại Đại học Pisa ở Ý, Đại học Quốc gia ở Singapore.

Học viện Tây tạng ở Tân đề li. Ông là điều hợp viên của Chương trình Nghiên cứu Phật giáo tại Nha Phát triển Chương trình Giảng dạy, thuộc Bộ Giáo dục Singapore từ 1983 đến1985.

Mới vừa đây nhất, Santina là giảng viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Phật giáo Simla (Ấn độ) và dạy Triết học tại Viện Phật giáo Trung hoa Fo Kuang Shan, Đài loan.

Trong 25 năm, Peter Della Santina là môn sinh của Ngài H.H. Sakya Trizin, Viện trưởng Tăng đoàn Thích Ca của Phật giáo Tây tạng và là thiền sinh xuất chúng. Ông đã tu tập thiền định Phật giáo và tham dự nhiều khoá tu.

Santina đã ấn hành một số sách và tạp chí như ‘Thư của Bồ tát Long Thọ gửi vua Gautamiputra’, Delhi 1978 và 1982; ‘Các Tông phái Trung đạo ở Ấn độ’, Delhi 1986; ‘Trung đạo và Triết học Tây phương Hiện đại’ và ‘Triết học Đông và Tây’,Hawaii, 1986.



 


Minh Thien Trinh Chinh
Lời Người Dịch


Dịch phẩm này ra đời phần lớn nhờ nhiều nhân tố khác, người dịch xin lại nơi đây lòng tri ân chân thành của những vị có tên sau đây:Ba Má của con, Việt nam, Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Thiền tông Việt nam Cận đại, Thiền viện Trúc Lâm, Đà lạt, Việt nam, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, Thiền viện Làng Mai Làng Hồng, Pháp quốc, Thầy Thích Thông Giác, Thiền viện Hiện Quang, Tuệ Đăng, Melbourne, Úc đại lợi, Nhị vị chánh phó trụ trì Tu Viện Quảng Đức, HT Thích Thích Tâm Phương và TT Thích Nguyên Tạng, Anh Ngô Thanh Tùng, kỹ sư Ericcson, Melbourne, con người của Lão Trang, của Khổng, của ‘‘Người Sống Một Mình’’, Các Em các Cháu, Việt nam và Úc đại lợi, Sau cùng nhưng không phải là ít nhất, Đại Gia đình Mỹ Ngọc, Ba Má Trương Thế Xương, Bạn đường Mỹ Ngọc cùng các Con Ngọc Trâm, Trịnh Hội, Quỳnh Trâm và Thu Trâm.

Một lần nữa tôi xin biết và ghi ơn Tất Cả đã tạo tác các Duyên khởi Nghiệp cảm, Duyên khởi A Lại da, Duyên khởi Như Lai tạng, Duyên khởi Pháp giới, giúp đỡ tôi thành một người cho đến ngày nay.

Quý độc giả sẽ lần lượt  đọc qua quyển ‘‘Cây Giác Ngộ’’ này, trong muôn một, tôi chúc nguyện quý vị áp dụng và thực hành cho được những   lợi lạc từ tác phẩm cho riêng mình và tiếp ban đến cho người.

Nhân đây người dịch xin phép nói rõ thêm vài điểm: 1. Thực Hành: chỉ có thực hành tu tập mới chứng được các giáo thuyết suông bằng chữ bằng lời trong quyển này. Đạo Phật là đạo thực dụng, ta cứ hành (hạnh) nó tức sẽ dùng (dụng) được nó một cách huyền diệu không ngờ trong đời sống hằng ngày. Có một điều kiện (duyên khởi) trớ trêu là ‘‘không gặp khó khăn, không gặp phiền não, không chứng một cách dễ dàng’’. Không chứng một cách dễ dàng không có nghĩa là không chứng được. Xin phụ chú là chữ ‘‘chứng’’ tiếng Anh dịch là experience, witness, substantiate, penetrate, attain. Mọi người trong chúng ta đều có khả năng ‘kinh nghiệm qua, chứng kiến thấy sự thật, chứng minh cho đúng, thâm nhập sự lý, đạt được’; 2. Cho Được: đây là cái quả của cái nhân cố gắng (tinh tấn) (xin xem bốn giai đoạn Tinh tấn hay Tứ Chánh Cần (mẫn). Có ai trong chúng ta lại không (chuyên) cần mẫn (cán), chăm chỉ siêng năng?

 


pdf-download








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 1559)
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân sinh ...
08/04/2013(Xem: 5532)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 2961)
Trong quyển Nhập Bồ Tát hạnh có nói: “Muốn diệt trừ vô lượng khổ đau trong ba cỏi, và trừ những nỗi bất an cho hữu tình, muốn hưởng được trăm thứ khoái lạc, thì đừng bao giờ xả bỏ Tâm Bồ Đề. Những hữu tình đang bị trói buộc trong ngục sinh tử mà phát Tâm Bồ Đề chốc lác cũng được gọi là con của Phật, đáng được trời người kính lễ.
08/04/2013(Xem: 785)
Việt nam là một đất nước thuộc vùng Đông Nam Á, vừa tiếp cận với lục địa Châu Á, vừa chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh lớn nhất thế giới đó là Ấn Độ và Trung Hoa, đồng thời nước ta còn có nền văn minh bản địa thường được gọi là văn minh Lúa nước hoặc văn minh Sông Hồng. Sự giao thoa của hai nền văn minh trên cộng với nền văn minh bản địa đã tạo nên một sắc thái đặc biệt để cho ra đời một nền văn minh độc đáo và phong phú.
08/04/2013(Xem: 729)
Thế giới con người là một hỗn hộp của các bản chất không giống nhau có kẻ thích thụ hưởng, có kẻ đam mê vật chất tiền tài, danh lợi, nên có những hạnh nghiệp khác nhau tùy sở thích của mỗi chúng sanh, Đạo Phật gọi là Thiện – Ác.
08/04/2013(Xem: 840)
Trong đạo Phật, tu học là làm sao để cho bản thân chúng ta ngày mỗi trở nên an lạc hơn và thánh thiện hơn. Một ngày tu học đúng pháp sẽ giúp ta thấy rõ mình hơn, thấy rõ những người xung quanh hơn và làm cho đời sống của ta có ý nghĩa hơn. Một thi hào người Tây Phương có câu : “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống” cái biết ấy nếu chúng ta đem áp dụng vào cuộc sống hằng ngày thì mọi việc sẽ trở nên thông suốt tốt đẹp “biết mình, biết người trăm trận trăm thắng”.
08/04/2013(Xem: 2617)
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam trên dưới hai ngàn năm. Giáo lý đạo Phật đã ăn sâu, hội nhập vào các mặt sinh hoạt trong đời sống nhân dân từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội. Trải qua nhiều thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần Đạo Phật có lúc được xem là quốc giáo của dân tộc.
08/04/2013(Xem: 1077)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại.
08/04/2013(Xem: 776)
Nhận được quyết định của Hội Đồng Điều Hành Học Viện, mỗi Tăng, Ni sinh phải trình bày một đề tài mà mình tâm đắc nhất trong suốt bốn năm chuyên tâm cầu học, từ những chư vị Giáo thọ sư nhiệt tình truyền dạy, sao lòng hân hoan và lo ngại quá. Hân hoan vì đây là điều kiện tốt nhất để đánh giá thành quả trong 4 năm chuyên tâm cầu học từ những
08/04/2013(Xem: 772)
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng xã hội. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống Văn hoá- Lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thông qua ngôn ngữ, con người đã thông tư tưởng với nhau, hiểu được các ý chỉ muốn trình bày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]