Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoằng pháp vùng sâu vùng xa.

08/04/201318:52(Xem: 457)
Hoằng pháp vùng sâu vùng xa.

Luận văn tốt nghiệp

HOẰNG PHÁP VÙNG SÂU VÙNG XA

Thích Tâm Hoa

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Vài nét lịch sử đề tài:

Hoằng pháp là nhiệm vụ quan trọng của người tu sĩ Phật giáo. Chư Phật cũng như chư Bồ tát đều có những hạnh nguyện cao cả như thế. Ngày xưa Tổ Bồ Đề Đạt Ma vượt ngàn dặm xa xôi từ Ấn Độ sang Trung Quốc truyền giáo. Trong lịch sử đã có biết bao vị Tổ đã không quản gian lao khó nhọc để đến với những đất nước xa xôi như Tây Tạng cao ngất hay nước Nga giá rét…

Nhận xét về nhiệm vụ hoằng pháp, hòa thượng Thiện Hoa đã nói: “Người hoằng pháp không sợ gian lao, không từ khó nhọc”. Hòa thượng Trí Quảng cũng dạy: “Hoằng pháp ở vùng sâu vùng xa, trình độ văn hóa người dân ở đó kém ta, chắc chắn họ dễ nghe, dễ chấp nhận ta nên ta dễ phát huy năng lực…”

Là người con Phật, ngoài mục đích tu tập giải thoát, chúng ta phải lập hạnh lợi tha. Tùy theo khả năng, trình độ, hoàn cảnh bản thân mà chọn cho mình những phương pháp phù hợp để làm Phật sự một cách hiệu quả nhất, hoàn thành trách nhiệm của một sứ giả Như Lai, xứng đáng với ngôi Tam Bảo.

2. Lý do chọn đề tài:

Là một tăng sinh xuất thân từ một làng quê nghèo khó, con may mắn hội đủ phước duyên được xuất gia tu học. Nhận được sự dạy dỗ của Thầy tổ và Chư tôn đức, con thấy mình phải có trách nhiệm tu học thật tốt nhằm báo đáp phần nào công ơn to lớn ấy; trước là tìm con đường đúng đắn để tu tập giải thoát cho chính mình, sau nữa có thể đem ánh sáng Phật đà sáng soi, cứu khổ cho những người dân ở các vùng quê xa xôi hẻo lánh.

Người dân ở nông thôn, vùng sâu vùng xa có một đời sống thuần phác, hiền lành, nhưng đa số lại rất nghèo khó. Đời sống văn hóa, tinh thần thiếu thốn đã đành, đời sống vật chất càng vất vả. Họ cực nhọc quanh năm mà vẫn thiếu thốn. Họ là những người làm ra lương thực, lúa gạo rau quả, nhưng những hạt gạo tinh khiết nhất, những rau quả tươi ngon nhất đều dành để bán cho người thành phố dùng, còn bản thân họ thì luôn kham khổ. Họ là những người Ỏũ hiền nhưng chưa gặp lành.

Cùng cộng nghiệp, sống trong những năm khó khăn chung của một đất nước đang phát triển, nhưng người dân ở nông thôn, vùng sâu vùng xa có lẽ là nơi chịu đựng vất vả, thiệt thòi nhiều nhất! Là người đệ tử Phật, chúng ta nên học theo hạnh của ngài Ca Diếp, luôn hết lòng đối với những người nghèo khổ, để phần nào giúp họ có được một đời sống tinh thần tốt đẹp; hiểu Đạo, biết tu để dần dần tích phước, hạn chế những nghiệp dữ mà có thể vì thiếu nhận thức có thể gây ra. Giúp họ cải thiện cuộc sống, bớt đi những gian khó, tiến đến an lạc hơn.

Nông thôn, vùng sâu vùng xa là nơi đang rất cần những ánh sáng tri thức, những sinh hoạt văn hóa, tinh thần bổ ích. Là người con Phật phải luôn nằm lòng câu phát nguyện: “Nơi nào Chánh pháp cần, con đến; nơi nào chúng sanh cần, con đi. Chẳng quản gian lao, chẳng từ khó nhọc…”

Trong khi ở những vùng đô thị có rất đông Tăng Ni tập trung về tu học và làm việc, những ngôi chùa trong thành phố dày đặc những khóa tu, những lớp giáo lý thường xuyên v.v… thì ở những vùng nông thôn xa xôi rất thiếu vắng những bóng áo nâu, áo vàng của Tăng Ni. Những ngôi chùa rêu phong kín cổng; những lớp giáo lý, những buổi thuyết pháp càng hiếm hoi; người dân chỉ biết đến chùa vào những ngày rằm. Tăng Ni chỉ có vai trò trong việc cúng sám lễ bái khi hữu sự ma chay v.v… Người dân nông thôn rất cần có những tấm lòng đại Bi đại Trí, mang ánh sáng Phật Đà đến với vùng sâu vùng xa, cho những con người quanh năm cúi mặt vào bờ ao mảnh ruộng biết ngẩng lên tìm về nẻo sáng.

Tăng sinh xuất thân vùng nông thôn nên có sự thông cảm và hiểu sâu tình hình thực tế cũng như tâm hồn người dân nông thôn, do vậy có khả năng thực hiện đề tài này một cách tốt hơn những đề tài khác.

Một phần quan trọng nữa là từ năm 2001, con được tuyển vào Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, được nghe Hòa thượng Trưởng ban hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai bộ Kinh Pháp Hoa, qua thực tế Hòa thượng giáo hóa rất nhiều tín đồ ở vùng sâu vùng xa một cách thành công đó là Đạo tràng Pháp Hoa.

Đến khi gần mãn khóa, Ban Tổ chức cho phép mỗi tăng sinh phải viết luận văn tốt nghiệp trình bày sự ưu tư hiểu biết của mình qua quá trình học tập ở nhà trường, qua sự kiểm nghiệm tự thân trong cuộc sống tu tập. Với cảm nhận rằng mình có duyên với Kinh Pháp Hoa, nên chọn môn Kinh Pháp Hoa, chọn cách hoằng pháp theo Kinh Pháp Hoa, nối gót bật tiền bối gữi gìn Phật Pháp còn mãi ở đời, đem lại lợi lạc cho mọi loài, góp phần tô điểm ngôi nhà Tam bảo ngày càng xương minh hưng thạnh. Có được như thế mới khỏi phụ ân đức rộng sâu của Đấng Từ Tôn và đền đáp được phần nào trong vô lượng công ân của Chư Thiền Đức đã dày công giáo dưỡng, cũng làm kim chỉ nam cho mình trên bước đường hoằng pháp lợi sanh.

3. Phạm vi đề tài:

Khi nói đến chữ hoằng pháp phải kèm theo chữ lợi sanh, vì hoằng pháp là truyền bá giáo pháp, song giáo pháp có nhiều loại, có loại đem lại lợi lạc cho chúng sanh, như Phật giáo chủ trương từ bi, bình đẳng, bác ái vị tha…; có loại giáo pháp không làm cho chúng sanh an lạc mà làm cho con người quay cuồng điên đảo, như đạo Bà La môn ở Ấn Độ ngày xưa chủ trương “Tế lễ là vạn năng”, giết hàng trăm hàng ngàn loài cầm thú, cho đến loài người đem tế lễ Thần để phù hộ, ban phước, dứt tội cho dân. Nhưng cúng tế như thế không xoa diu được nổi thống khổ của con người mà còn gây sự đau thương cho vô số hàm linh thấp kém.

Thế nên ở đây dùng hai chữ lợi sanh kèm theo hai chữ hoằng pháp nhằm xác định mục tiêu hoằng pháp trong Kinh Pháp Hoa. Lấy lợi sanh làm căn bản tùy theo nhu cầu của thời đại, quốc độ, con người mà nói để người nghe hiểu được Phật Pháp, cảm nhận được an lạc giải thoát, phát tâm bồ đề kính tin Tam bảo, đem giáo pháp ứng dụng có lợi lạc an vui thực sự trong cuộc sống. Theo Phật quang đại tự điển thì không dùng từ hoằng pháp mà dùng từ bố giáo đồng với nghĩa hoằng pháp.

Bố giáo là hoằng dương giáo pháp đồng nghĩa với những từ hoằng pháp, tuyên giáo, truyền giáo… Nhật Bản gọi bố giáo là khai giáo lấy cái ý nghĩa là khai thác ruộng giáo lý… Song song theo sự bố giáo là phát triển học đường, giáo dục trẻ em làm việc từ thiện, giúp đỡ dân nghèo…

Hiểu được tầm quan trọng của công việc hoằng pháp, tuy nhiên sức mình có hạn, không thể bao quát tất cả, con chỉ xin gói gọn trong phạm vi hoằng pháp ở vùng sâu vùng xa, với những mục tiêu sau:

- Tìm hiểu thực tế đời sống sinh hoạt Phật giáo ở vùng nông thôn.

- Đề ra phương hướng có thể thực hiện tốt công việc hoằng pháp ở nông thôn.

- Nói lên những kiến nghị mong Giáo hội, các Bậc Tôn Đức, đội ngũ Tăng Ni trẻ, các tổ chức có liên quan v.v… có thể đóng góp tích cực cho công việc hoằng pháp ở nông thôn.

4. Ý nghĩa, nhiệm vụ đề tài:

Sau khi Phật niết bàn, kinh điển được truyền khẩu từ thế hệ này xuống thế hệ khác. Phương pháp truyền giáo song song sau đó là phương pháp truyền bằng văn tự được thực hiện để khai triển giáo lý của Ngài suốt 25 thế kỷ. Các nhà truyền giáo triển khai giáo lý Phật đà chỉ một mục đích tự giúp mình giải thoát và giúp con người giải thoát khỏi khổ đau, hướng đến hạnh phúc tuyệt đối.

Nói chung, ý nghĩa cơ bản của hoằng pháp là làm con người hướng nhận thức đúng đắn để đánh giá hành động và thực hành các giá trị hầu tiến tới sự an lạc và giải thoát trong hiện tại và tương lai.

Trăn trở với đề tài hoằng pháp, con chỉ mong tìm ra được vài biện pháp tối ưu nhằm đem giáo lý Phật đà đến được vùng sâu vùng xa, là ý kiến đóng góp cho Giáo hội, cho các tổ chức xã hội có sự lưu tâm hơn, có những biện pháp tốt hơn để giúp cho đời sống tinh thần người dân nông thôn được nâng cao, tốt đẹp hơn. Kêu gọi những Tăng Ni trẻ, hãy lập hạnh hoằng pháp ở nông thôn, hãy đến với vùng sâu vùng xa, nơi ấy đang rất cần những bậc Bi-Trí-Dũng vượt mọi gian khó, mang ánh sáng Chánh Pháp đến với mọi người.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH THỰC TẾ

1.1. Cơ sở vật chất:

a. Một số ngôi chùa đã được sửa chửa, trùng tu, xây dựng:

Phải công nhận rằng nông thôn ngày nay cũng có một số nơi những ngôi chùa được trùng tu, sửa chữa hoặc xây cất mới khá khang trang nhờ sự phấn đấu của các vị trụ trì, Ban Trị sự các tỉnh và tấm lòng hảo tâm của Phật tử, mà chủ yếu là kiều bào ở nước ngoài. Nhưng đa số các ngôi chùa được xây dựng đều theo một mục đích tín ngưỡng thuần túy. Cách kiến trúc nhằm mục đích biến chùa thành nơi để lễ bái cúng kiến tham quan, du lịch hơn là nơi để chư Tăng Ni thực hiện công việc truyền bá đạo Pháp, Phật tử có thể tập trung tu học. Chánh điện được tô vẽ sặc sỡ, kỳ công với nhiều tượng, phù điêu, tranh đắp, bục thờ v.v… nhằm mục đích cúng kiến lễ bái cầu an cầu phước nhiều hơn. Hiếm có nơi nào chú trọng đến việc xây cất những giảng đường, nơi dành để thuyết giảng Phật Pháp cho đông đảo người nghe.

b. Không ít ngôi chùa không được quan tâm, xuống cấp và hư hại:

Bên cạnh một vài ngôi chùa “may mắn” thì đa số chùa ở nông thôn, mà nhất là vùng sâu vùng xa chưa được sửa chữa xây dựng. Chùa nghèo nhìn rất buồn! Những vị trụ trì chưa đủ khả năng vực dậy phong trào tu học, thu hút Phật tử đến chùa, không thiết lập được những mối quan hệ với các mạnh thường quân. Chùa tồn tại lẻ loi và dường như không dính dáng gì đến xã hội bên ngoài, vị trụ trì dần dần giống như ông Từ giữ đền chớ không còn là một vị sư trụ trì nữa. Có những ngôi chùa khá cổ, có lối kiến trúc khá đặc sắc, có giá trị nhưng không được quan tâm đúng mức, dần hư hại, rất uổng phí!

c. Những khu dân cư mới hầu như không có bóng dáng một ngôi chùa:

Điều này cũng dễ hiểu. Do nhiều điều kiện hoàn cảnh khách quan và chủ quan. Người dân ở những khu dân cư mới thường là dân từ nhiều nơi qui về nên tín ngưỡng, tập tục khá khác nhau. Họ lo việc định cư, mưu sinh là chính, ít quan tâm đến đời sống tâm linh; chính quyền địa phương cũng không tạo kiện, không ủng hộ sự có mặt của các tôn giáo vì e ngại những phần tử xấu lợi dụng gây rối. Do vậy, ở những khu dân cư mới hầu như không có bóng dáng của một ngôi chùa.

d. Một số ngôi chùa bị biến thể thành nơi thờ cúng nửa vời, lai tạp, mang tính cách cá nhân hoặc sử dụng vào việc khác:

Một số ít bị cá nhân sở hữu, xem chùa như của riêng một giòng tộc, gia đình, đôi khi biến thành giống như am miếu, nơi để cầu xin cúng kiến. Một số khác do không người quản lý nên địa phương đưa vào sử dụng cho những việc khác như phòng thuốc đông y, cơ sở từ thiện v.v…

1.2. Đội ngũ Tăng Ni:

a. Những Bậc Tôn Đức, quí Tăng Ni lớn tuổi:

Ở những vùng nông thôn xa xôi hiếm có những Bậc Tôn Đức trú ngụ hành đạo. Nếu có cũng là nơi ẩn tu của các vị chỉ chuyên tâm tu hành một cách lặng lẽ, không tham gia Phật sự. Quí Tăng Ni lớn tuổi thì đa số trình độ giáo lý và khả năng thuyết pháp có hạn, chỉ có thể làm công việc tụng kinh lễ bái, cúng sao giải hạn…

b. Lớp Tăng Ni trẻ:

Một số được đào tạo học hành ở thành phố về thì không có điều kiện thể hiện khả năng hoặc cũng… thực sự không có khả năng làm Phật sự. Một số vì sự lơi lỏng của bổn sư trở nên dễ dãi lôi thôi, làm mất đi vẻ đẹp hình ảnh tăng chúng trong lòng dân chúng. Chuyện phá giới nhậu nhẹt của những vị thầy ở nông thôn, vùng sâu vùng xa là chuyện thường xảy ra, không một người dân nông thôn nào không biết thực tế đáng buồn ấy! Đó là một thực trạng mà nếu Giáo hội, các Ban Trị sự các tỉnh không quan tâm sâu sát, có biện pháp giáo dục xử lý nghiêm khắc thì ảnh hưởng xấu đến uy tín của đạo Phật không thể lường được. Người dân mất lòng kính tin Tam Bảo, và cái nhìn ấy khắc sâu rồi truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, mang đến hậu quả rất nghiêm trọng.

1.3. Phật tử:

Đa số người dân ở những vùng sâu vùng xa, ai cũng nghĩ rằng mình theo đạo Phật, đến ngày rằm, mùng một thì đi chùa, ăn chay, nhưng nếu hỏi đến pháp danh và việc quy y thì hầu như đa số chưa biết quy y là gì! Đến chùa nghe kinh thì được chớ ngồi xuống tụng kinh thì việc ấy xa vời lắm!

Ở một số ngôi chùa vùng thị xã, thị trấn thì trình độ người Phật tử có khá hơn, thuần thành hơn nhưng chủ yếu vẫn chỉ là niềm tin thuần túy, chưa hiểu biết gì mấy đến giáo lý, thọ Ngũ giới rồi nhưng chủ yếu là sống theo những nguyên tắc đạo lý dân gian.

1.4. Sinh hoạt Phật sự:

a. Chủ yếu là hoạt động tín ngưỡng thờ cúng, cầu an cầu siêu, hành hương du lịch:

Đa số các chùa ở nông thôn chủ yếu là tổ chức lễ bái vào những ngày rằm, ngày vía, ngày kỵ, cúng sao v.v… chớ chưa quan tâm đưa việc truyền bá giáo lý bằng hình thức thuyết pháp cho dân chúng.

b. Những khóa tu tổ chức một cách thiếu chặt chẽ, khoa học:

Những chùa khá hơn, thỉnh thoảng có tổ chức những khóa tu niệm Phật, Bát quan trai… nhưng còn rất sơ khởi, chưa thu hút được nhiều Phật tử tham gia.

c. Những buổi thuyết pháp hiếm hoi mang tính chất ra mắt, giới thiệu nhiều hơn là thuyết giảng:

Thỉnh thoảng có vài Bậc Tôn Đức ở thành phố về thăm nhân dịp húy kỵ hoặc khánh thành công trình tự viện nào đó thì cũng có tổ chức những buổi thuyết pháp, nhưng đề tài cũng chỉ “cỡi ngựa xem hoa” chung chung, không thể đi sâu bởi lâu lâu mới có dịp gặp một lần và có thể cũng không còn lần trở lại thì làm sao mà có đề tài thuyết pháp cho sâu sắc, có hệ thống được. 

Trên đây chỉ là những nét cơ bản, khái quát tình hình thực tế về việc hoằng pháp ở nông thôn vùng sâu vùng xa hiện nay. Trước thực trạng như thế, một phương án hoằng pháp cho vùng nông thôn từ lâu đã được tăng sinh trăn trở, ấp ủ. Rất mong có ngày được trình bày, được áp dụng, ngõ hầu mang ánh sáng Phật Đà soi cùng mọi nẻo, đem lại chút lợi lạc cho những mảnh đời của người dân vùng nông thôn, được tiếp cận với Chánh pháp mà tu tập cải thiện đời sống tốt đẹp an lành hơn.

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG ÁN HOẰNG PHÁP VÙNG SÂU VÙNG XA

2.1. SỰ CHUẨN BỊ

2.1.1. Tinh thần:

Xác định rõ mục đích hướng đến để chọn cho mình một phương pháp phù hợp và quyết tâm thực hiện một cách cương quyết, bền chí theo tinh thần Bi-Trí-Dũng của đạo Phật. Tinh thần là một yếu tố rất quan trọng đối với một hành giả muốn đem chánh pháp trở lại với lòng người, nếu yếu tố tinh thần không kiên quyết bền chí thì e rằng sự việc khó thành. Do đó khi đã chọn cho mình hướng đến, một phương pháp phù hợp thì phải quyết tâm và thành tựu, chớ không nên (đem con bỏ chợ) làm không đâu tới đâu.

Người có tâm nguyện về hoằng pháp thì sẽ không ngại khó, ngại khổ, không cân đo quyền lợi, không tính toán thùụ lao. Phải phát nguyện nghiêm túc, như một lời thề, như thế sẽ có thêm sức mạnh bản thân, đồng thời thêm lực gia hộ từ Chư Phật, Chư Thiên. Không phát nguyện đàng hoàng, chúng ta vui làm buồn bỏ, không cố gắng giữ uy tín. Từ tâm nguyện nhiệt tình này sẽ chiêu cảm những thứ khác; thí dụ chúng ta sẽ ham học hỏi, nghiên cứu giảng dạy cho sâu sắc, cố gắng giảng dạy sáng tạo hấp dẫn, dễ hiểu, tìm thêm các hoạt động khác lôi cuốn người học đến chùa... Nói chung nhiệt tình là cái gốc của sự dấn thân, khi dấn thân sẽ xoay sở để vượt qua mọi khó khăn. Có nhiệt tình rồi, có thêm năng khiếu nữa thì sẽ thành công. Thực tế, trong tăng đoàn chúng ta số người có năng khiếu giảng dạy không nhiều lắm. Tuy nhiên trong trường hợp ít năng khiếu mà có nhiệt tình thì việc hoằng pháp cũng được bù đắp ít nhiều, bù đắp từ việc nghiên cứu, học hỏi tài liệu, từ việc mày mò sáng tạo như chuẩn bị giáo án chu đáo, làm thêm những mô hình minh họa cho bài học, cắt dán tranh ảnh vui mắt dễ thuộc, khiến cho Phật tử thích thú, không buồn ngủ. Tóm lại, giảng sư không có năng khiếu cũng đừng sợ, cứ mạnh dạn vào cuộc dần dần thì cũng được thành công khả quan.

Rèn luyện học tập, cập nhật những thông tin mới, tiếp cận với những hơi thở cuộc sống và con người hôm nay, thì mới tìm cách thuyết phục thính chúng. Cho nên bên cạnh học nội điển, chúng ta còn ủng hộ việc học ngoại điển, chúng ta còn ủng hộ việc đọc báo, xem thời sự... Mục đích không tham luyến mà quan sát cuộc sống, tìm lối đi phù hợp cho việc hoằng pháp. Phước đức, đây mới chính là tiềm ẩn phía sau, gần như quyết định sự nghiệp giảng sư. Người có phước đức lớn, từ nhiều đời nhiều kiếp, nổi tiếng ngay thuận lợi đủ bề. Người kém phước, thì gặp nhiều nghiệp duyên, thậm chí muốn lên giảng cho người ta cũng không được vì không đủ hảo tướng, hoặc ngôn ngữ, hoặc ủng hộ… Tuy nhiên với tâm huyết mạnh mẽ thì chúng ta có thể chuyển nghiệp được. Có người cứ cần mẫn làm công tác chùa, cho huynh đệ, chuyện nhỏ lớn gì cũng không từ nan, tích lũy phước đức để sau nầy thực hiện hoài bão, vì có phước đức thì tự nhiên sanh năng khiếu, sanh sự sáng tạo, trí thông minh học hỏi, những thuận duyên khác nữa. Ngược lại chúng ta có sẵn phước đức mà không biết giữ gìn, lại còn làm hao tổn đi, như tính cù lao chê dùng khó khăn, ganh tỵ với đồng nghiệp, kêu căn mất oai nghi phẩm hạnh… thì việc hoằng pháp cũng bị gãy đỗ, vị ấy sẽ không đạt được tâm nguyện hoằng pháp.

Tóm lại, muốn cho công tác hoằng pháp vùng sâu vùng xa được thực thi, người phát nguyện phải chuẩn bị cho mình một tinh thần Bi-Trí-Dũng. Phải trang bị cho mình một hành trang kiến thức chu đáo, một tinh thần vững vàng. Phải xác định chấp nhận khó khăn, quyết tâm làm Phật sự, vì lòng bi mẫn với người dân nông thôn. Chuẩn bị một tinh thần như thế thì khi bước vào thực tế khó khăn, người mang trọng trách sứ giả Như Lai sẽ không chùn bước. Công cuộc hoằng dương Chánh Pháp mới có thể thành tựu.

2.1.2. Vật chất:

Phải chuẩn bị cho mình nguồn tài trợ, ủng hộ khi cần trong công việc hoằng pháp. “Có thực mới vực được Đạo”! Xã hội ngày nay không như ngày xưa, công việc hoằng pháp đòi hỏi nhiều điều kiện trợ duyên hơn ngày xưa nhiều. Ngoài tinh thần truyền dạy giáo lý triết lý nhà Phật đến với người, ta cần phải tạo dựng một nguồn tài chính để chủ động trong mọi hoàn cảnh. Bản thân mình không cơm ăn áo mặc, không có đủ những phương tiện cần thiết nhất thì khó mà làm việc một cách thuận lợi được.

Công tác hoằng pháp phải cần một số cơ sở vật chất làm phương tiện để hoạt động, thí dụ: phòng ốc, ampli, loa… Tuy nhiên, đừng quá quan trọng tiêu chuẩn này. Vấn đề là đem giáo pháp cho Phật tử, bất luận nhiều hay ít, đừng tham lam, làm rình rang mà quá sức mình. Tùy nhân duyên mà độ, miễn tâm nguyện chân thành là được. Tùy nhân duyên, nhân và duyên là hai yếu tố để hình thành một pháp. Nhân là yếu tố chính, duyên là yếu tố phụ thuộc, có nhân mà không có duyên hay có duyên mà không có nhân đều không đủ hình thành một pháp, cần có một vật “tướng như vậy, thể như vậy, dụng như vậy” thì đều thiết yếu phải có đủ “nhân như vậy, duyên như vậy” mới hình thành quả như vậy, nó không thể thiếu hay dư, vì thiếu hay dư nó không thể hình thành một pháp khác thích ứng với nhân duyên của nó. Thí dụ như muốn có được đĩa xôi thơm ngon phải có hạt nếp, nước, lửa, nồi… Trong đó hạt nếp là yếu tố chính (nhân), những yếu tố còn lại là phụ (duyên). Nếu có đủ nồi, nước, lửa, bếp (duyên) mà không có hạt nếp (nhân) thì không có đĩa xôi thơm ngon; ngược lại có hạt nếp (nhân) mà không có nước, lửa, nồi, bếp... (duyên) thì hạt nếp không thể thành đĩa xôi, khi có đủ những thứ trên cũng chưa trở thành đĩa xôi thơm ngon, vì nếu lửa dư thì nếp khét, lửa thiếu thì nếp sống, nước thiếu thì thành nếp rang, dư nước thì thành cháo… Thế nên muốn được đĩa xôi thơm ngon như ý muốn điều cần phải có đủ những yếu tố và liều lượng (nhân duyên) thích ứng với nó. Từ đó suy ra tất cả các pháp cũng như vậy, cho đến thân người phải có đủ yếu tố đất, nước, gió, lửa,… mới hình thành, cho nên việc hoằng pháp chúng ta hôm nay, muốn đạt được kết quả mỹ mãn như ý muốn cũng cần phải có đầy đủ yếu tố thích ứng.

Để chuẩn bị cho mình một nền tảng khá vững chắc về mặt vật chất, có lẽ ta nên có các mối quan hệ với các mạnh thường quân, tâm sự với họ phát nguyện của mình, trình bày lý tưởng, kế hoạch của mình một cách thuyết phục để vận động, khơi dậy lòng hảo tâm nhiệt tình đóng góp khi công tác Phật sự cần. Bởi nguồn tài trợ chính đó nó giúp chúng ta thuận lợi về mọi mặt khi hoằng pháp ở nông thôn.

2.1.3. Sự ủng hộ giúp đỡ của Giáo hội, các Bậc Tôn Đức và khả năng tự thân:

Ngoài sự chuẩn bị về tinh thần và vật chất, chúng ta cần có nguồn động viên và trợ lực của Giáo hội và các Bậc Tôn Đức. Phải có một nguồn động viên tinh thần và chỗ dựa vững chắc về mặt pháp lý và giáo lý. Nếu đơn phương độc mã thì việc hành đạo sẽ rất khó khăn. Nếu được sự giúp đỡ quan tâm của Giáo hội thì công việc hoằng pháp về mặt quản lý, pháp lý, xã hội sẽ an ổn, tạo nhiều thuận duyên cho ta. Nếu được sự nâng đỡ, trợ lực của các Bậc Tôn Đức thì công việc mới vững vàng, ta sẽ tự tin hơn.

Ngoài sự ủng hộ của giáo hội và các Bậc Tôn Đức, người làm Phật sự phải luôn trao dồi giới luật, trao dồi đạo đức bản thân. Đức hạnh là đạo đức phẩm hạnh, là nếp sống hành vi có mực thước, khiến cho mọi người cung kính tôn trọng. Vị giảng sư là sứ giả của Như Lai, là bậc gương mẫu thay Phật chuyển pháp làm lợi lạc cho mọi người, là người dẫn đường sáng suốt biết căn tánh nhu cầu của chúng sanh hướng dẫn họ đến cứu cánh an lạc. Như trong Kinh Pháp Hoa phẩm thứ 12 Phật thọ ký Đề Bà Đạt Đa thành Phật [12,320]. Đó là cái đức sâu rộng của Phật khiến cho mọi người quy kính không cùng tận. Nhờ tài đức chiêu cảm khiến cho mọi người phát bồ đề tâm cầu đạo vô thượng chuyển thù thành người thân, hủy bán thành kính trọng. Như trong Kinh Pháp Hoa phẩm “Thường Bất Khinh Bồ Tát” thứ 20 ghi: “lúc ấy bốn chúng tăng thượng mạn khinh tiện, đánh nén thường bất khinh Bồ Tát thuở trước, thấy Ngài đặng sức thần thông lớn, sức đại nhạo thuyết, sức đại thiện tịch, nghe vị đó nói pháp đều tin phục tùy tùng” [12,466]. Cho nên tài đức giảng sư vô cùng quan trọng, có khả năng cảm hóa người khác, vì thế vị giảng sư không thể thiếu tài và đức. Tuy nhiên có những trường hợp vị giảng sư có đủ tài đức nhưng giáo hóa người khác không tin nhận, vì họ không có duyên lành với giảng sư như 5000 vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di bỏ pháp hội ra đi khi Phật sắp nói Kinh Pháp Hoa. Cho nên điều thứ hai đòi hỏi thính chúng phải có duyên lành với giảng sư...Vị giảng sư có tài đức là yếu tố quan trọng để cảm hóa người nhưng chưa đủ thành tựu một pháp hội mà cần phải thính chúng, đủ nhân duyên với giảng sư, nếu không có nhân duyên thì không thể nghe pháp mầu như trong Kinh Pháp Hoa phẩm phương tiện thứ 2 có ghi “khi Phật nhận thỉnh lời cầu của xá lợi phất thì trong chúng hội có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cả thảy 5000 từ chỗ ngồi đứng dậy đến lễ Phật mà lui về” [12,62]. Đây là những chúng hội không có duyên lành với giảng sư, dù họ sắp được nghe mà không nghe được. Ngược lại có đủ duyên lành Tam bảo mới được nghe pháp mầu, như trong Kinh Pháp Hoa phẩm “Thường Bất Khinh Bồ Tát” thứ 20 Phật kể tiền thân Ngài là một Tỳ kheo tên Thường Bất Khinh, nhờ nhẫn nhục chịu đựng sự mắng nhiếc, đánh đập của tứ chúng tăng thượng mạn nên sớm thành tựu pháp mầu vi diệu và giáo hóa họ thành tựu thánh quả chính là 500 vị Bồ Tát, 500 vị Tỳ kheo, 500 Ưu bà tắc có trong hội chúng [12,468].

Từ trong những đoạn kinh trên, chúng ta có thể nói từ chúng đệ tử trong pháp hội của Phật đều là quyến thuộc đã gần gũi tu học với Ngài, theo Ngài làm quyến thuộc, ủng hộ và giáo hóa chúng sanh mà Ngài chỉ độ được những chúng sanh có duyên với Ngài mà thôi, còn lại nhưng người không có duyên thì Phật dùng phương tiện giáo hóa khiến họ tin và kết duyên lành với Tam bảo.

Vì vậy muốn thành tựu pháp hội phải có quyến thuộc đủ duyên lành với giảng sư. Tuy nhiên nếu có đủ hai duyên đó cũng chưa đủ để thành pháp hội, vì có giảng sư có thính chúng mà không có pháp thích ứng, khiến thính chúng không thu nhận được thâm ý cũng không kết quả. Căn tánh chúng sanh không đồng nhau, Phật tùy chúng sanh, dạy bày chúng sanh pháp thích ứng, phù hợp với hoàn cảnh căn cơ của chúng sanh, pháp Phật nói ra không pháp nào chẳng vi diệu, người thấy không vi diệu là do không đúng căn tánh, nhu cầu của người nghe như thuốc trị bệnh, thuốc nào cũng hay nhưng không phải bệnh nào cũng trị được bởi một thứ thuốc: Như nhâm sâm là thuốc qúy lại đem cho người đang đau bụng uống vào là chết. Cho nên cái nào thích ứng thì cái đó qúy, cái nào không thích ứng dầu nó qúy đến đâu cũng thành vô nghĩa, thậm chí có khi trở thành tai hại. Do đó Phật tùy thính chúng mà phương tiện nói pháp phù hợp tùy căn cơ của mỗi người, dẫn dắt họ đến cứu cánh an lạc, như trong Kinh Pháp Hoa phẩm Thí dụ thứ 3 Phật nói: “các đức Như Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba” [12,119] để dẫn dắt chúng sanh đồng nhất thiết trí. Như ông trưởng giả muốn cứu con ra khỏi nhà lửa, bèn nói dối ngoài cửa cha có ba thứ xe, các con ra cha sẽ cho, các con đồng đua nhau chạy ra khỏi nhà lửa, trưởng giả mừng vui, đồng cho xe qúy nhất. Một giảng sư trong thời đại hiện nay cũng tùy theo nhân duyên, căn tánh và nhu cầu người nghe ở mỗi nơi mà dùng phương pháp thích ứng, khiến cho họ phát bồ đề tâm, thành tựu tất cả thiện pháp.

2.1.4. Năng lực:

Tuy nhiên, khi hoằng pháp không chỉ nhìn vào nhân duyên mà quên đi năng lực chính mình, phải thấy những ưu và khuyết để nhận lãnh việc thích ứng. Hay nói khác hơn đòi hỏi khả năng giảng sư phải ngang bằng hoàn cảnh mới đạt kết quả tốt. Trong khi hoằng pháp, không phải lúc nào vị giảng pháp bằng ngôn ngữ, mà có lúc thuyết pháp bằng êm lặng, hoặc dùng đạo đức, công đức mà cảm hóa. Ngôn ngữ: tất cả ngôn ngữ đều phát ra tâm lý người hiểu biết, suy nghĩ như thế nào khi nói biểu lộ như thế nấy, cho nên đồng câu nói có người nói nghe mát dạ, có người nói nghe buồn cười, người không tu nói nghe khác, người có tu nói nghe khác. Ngày xưa đức Phật hiện cỏi đời này tùy duyên mà thuyết pháp, ngôn ngữ ba thời đều lành, làm vui đẹp lòng chúng, ngày nay vị giảng sư muốn hoằng pháp phải có tâm hồn bình ổn, suy nghĩ đúng đắng, nhìn chính xác, lời nói phát ra nghe thâm trầm, thấm sâu vào lòng người. Từ một lời nói, một câu kệ làm cho người nghe phát tâm bồ đề kính tin Tam bảo. Như phẩm Phương tiện thứ 2 trong Kinh Pháp Hoa, Phật nói: “Như Lai hay dùng các món phân biệt, khéo nói các pháp, lời nói im diệu vui đẹp lòng chúng” [12,52].

Vị giảng sư nghiên cứu thâm nhập Tam tạng giáo điển của Phật, thông hiểu thấu suốt các pháp không chướng ngại, nhờ khả năng tu tập, thông đạt những nghĩa lý sâu mầu. Do sự tinh tấn trao dồi học tập, khéo chọn lựa lời nói, lâu ngày thành thông đạt, khi đến pháp tòa diễn thuyết lời lẻ êm dịu, sâu mầu, rõ ràng dễ hiểu làm thỏa mãn người nghe, khiến họ được điều chưa từng có, tự giác tự nguyện tu tập, đem khả năng của mình ra ủng hộ Phật Pháp.

Tuy nhiên theo quốc độ, nhu cầu căn tánh chúng sanh, ở mỗi thời kỳ không giống nhau, cho nên giảng sư không phải lúc nào cũng thuyết pháp bằng ngôn ngữ, mà có lúc êm lặng, không nói mà nói thật nhiều, thật sâu sắc.

Êm lặng: người nói nhiều chưa hẳn là nói hay, có nói hay mà không đúng nhu cầu người nghe, họ không chấp nhận, cũng trở thành dỡ. Nên người nói hay không phải nói nhiều mà nói đúng thời, đúng đối tượng, đúng nhu cầu thậm chí ít nói, không nói mà làm cho người tỏ ngộ. Như phẩm tựa thứ nhứt trong Kinh Pháp Hoa ghi: “đức Phật nhập định” [12,22] vô lượng nghĩa xứ thân và tâm không lai động, lúc đó trời rải hoa cúng dường, khắp cỏi nước Phật sáu diệu vang động. Bây giờ từ tướng bạch hào Phật phóng luồng hào quang soi sáng khắp mười phương thế giới, làm cho chúng ở cõi nầy thấy suốt các cõi khác. Việc nảy làm đại chúng ngơ ngác không hiểu ý gì. Di lặc liền đến hỏi Văn Thù, Văn Thù thực lại bản hạnh của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, đại chúng biết được việt làm của Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng thời quá khứ, lòng mừng phấn khởi việc chưa từng có và mong cầu hôm nay được nghe pháp hy hữu chính nơi Phật. Đức Phật nhập định, lặng lẽ không một lời, khi đó một tia sáng nhỏ từ tướng bạch hào khiến đại chúng thấu suốt khắp pháp giới, trời rải hoa cúng dường, khắp cõi Phật sáu diệu vang động. Đức Phật không cần nói mà bao nhiêu người lắng nghe, lòng suy nghĩ miên mang: Phật sẽ nói gì?… Họ khao khát được biết, khi đó một cử chỉ nhỏ của Ngài, hoa trời cũng rơi rụng, chẳng khác nào:

“Đại hạn phùng cam vũ

Tha phương ngộ cố tri”

Nghĩa là, đương cơn nắng hạn được đám mưa rào, xứ lạ xa quê gặp người tri kỷ. Cho nên Phật êm lặng để lòng chúng chấn động, soi xét tất cả những gì từ xưa đến nay Phật đã làm, đã nói, đã nghĩ bằng cuộc đời cao thượng vượt khỏi cấu trược thế gian. Như hoa sen vượt khỏi bùn lầy hiến dâng cho người cành hoa tươi thắm, hương vị đậm đà, tròn đầy những hạt, họ thích thú được điều chưa từng có. Trên đường hoằng pháp cũng thế, thính chúng chưa thuần thục, chưa muốn nghe vì chưa đủ duyên, đủ niềm tin nơi chúng ta, khi đó không nên nói mà phải êm lặng thực hành vì tự an ổn, được lợi lành lớn, làm cho đủ niềm tin, thích thú tìm hiểu nơi chúng ta, càng tìm hiểu họ mới thấy có giá trị, khi đó nhất cử nhất động đều là một bài pháp để họ học, cũng như chỉ một tia sáng bạch hào của Phật mà họ thấy khắp tất cả pháp giới những hạnh nghiệp của Tứ Thánh, Lục Phàm, họ tìm cho mình con đường giải thoát. Họ lắng nghe những gì nơi giảng sư, từ đó mà họ nhận được chân lý trên cuộc đời. Cho nên trong lúc giảng pháp có khi chúng ta êm lặng mà đạt kết quả không thể nghĩ bàn. Như cái êm lặng của Duy Ma làm đại chúng được lợi ích, sự êm lặng của Bồ Đề Đạt Ma mà Huệ Khả làm Tổ thứ 29, Tu Bồ Đề êm lặng Chư Thiên lại cúng dường... những thứ êm lặng đó đã nói đến chỗ tột cùng của chân ý, làm cho ai ai cũng nhắm vào đó mà tu tập. Các Bậc Cổ Đức êm lặng, cả cuộc đời đạo hạnh thanh cao trí tuệ siêu phàm của các Ngài đi sâu vào lòng mọi người, họ kính tin, tuân phục. Chúng ta ngày nay muốn được như thế trước tiên phải làm cái gì đó để đời học hỏi, ghi nhớ. Có phải chăng đó là nếp sống đạo đức thật đẹp. Đạo đức: đạo đức nói cho đủ là đạo lý và đức hạnh là nếp sống thánh thiện có lợi ích cho người, có tác động sâu sắc làm cho người kính phục và công nhận. Người có đạo đức mới giáo hóa được người, họ mến người tức là mến đạo, người thuyết pháp truyền đạo là truyền dạy cái đạo đức, cái an lạc giải thoát cho đời, nếu giảng sư không có đạo đức, không có cái gì để người suy nghĩ, thì thuyết pháp chẳng ai nghe. Vì giáo lý của Phật không phải là giáo lý suông, mà là nguyên tắc đưa đến cứu cánh an lạc giải thoát, người học đạo là học để tu, để đưa lợi lạc giải thoát, chớ không phải học để nói suông, cho nên vị giảng sư nói được phải làm được để chứng minh pháp của Phật là châu báu, là vô giá, lời nói của mình thật đưa đến cứu cánh an lạc chứ không phải lời viễn vong vô ích dùng để lý luận suông, nên pháp của Phật nói ra có học có hành là kết quả an lạc giải thoát:

“Như cành hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương

Cũng thế lời nói hay, có làm có kết quả” (PC)

Quan niệm đạo đức của người tu là người chơn chất, thật thà, chuyên tu khổ hạnh... Vị giảng sư làm đạo, đến nơi nào phải phương tiện tùy thuận nơi đó, như xứ kia qúy trọng người trí thức thì phải đóng vai người trí thức, xứ nọ qúy trọng người bảo hộ quần chúng thì vị đó phải đóng vai bảo hộ quần chúng, xứ đó người nghèo đói thì cần sự ăn mặc thì vị giảng sư đem cơm áo đến cho người, xứ kia qúy trọng người tu hành khổ hạnh thì vị giảng sư đến đó phải tu hành khổ hạnh... có như thế họ cảm phục và kính tin. Chừng đó giảng sư mới giáo hóa được họ. Như trong Kinh Pháp Hoa phẩm An lạc hạnh thứ 14 Phật dạy: “nếu vị Bồ Tát ở đời ác sau muốn nói kinh này phải an trụ bốn pháp”, đó là: 1- Hành xứ và thân cận xứ, 2- Nhứt thiết pháp không như thật tướng, 3- An lạc hạnh, 4- Đại từ bi tâm [12,346].

Đạo đức là nguồn an lạc vững chãi cho chính mình, cho mọi người. Đạo đức cũng từng theo gốc độ, thời gian nhu cầu của con người thời đại. Vị giảng sư dùng đủ mọi phương tiện bước chân vào đời, xây dựng cuộc đời tốt đẹp an vui hơn. Các Bậc Tiền Bối đạo cao đức trọng, đời sống các Ngài trầm mặc đẹp đẽ đã tác động đến muôn loài, khiến chúng sanh bỏ ác làm lành, bỏ tà về chánh. Các Ngài đối diện với cuộc đời, hiện thân trong các ngành nghề, dùng trí tuệ xoa dịu khổ đau cho họ, nung đúc nghị lực cho họ, họ cần vật chất các Ngài dùng vật chất để đối trị, tạo cho họ có cuộc sống vật chất đầy đủ. Các Ngài góp phần xây dựng cuộc đời tốt đẹp hơn, tạo thành thế giới cực lạc tại cõi Ta bà đau khổ này.

Sự thị hiện của đức Phật Thích Ca ở thế giới Ta bà, cả cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng. Ngài luôn nghĩ nói hành động phù hợp với nhu cầu của mọi người, không chỉ đời này mà nhiều đời trước cũng thế. Ngài đã từng làm như vậy, trong Kinh Tiền Thân Đức Phật ghi rõ, khi hiện thân làm người, Ngài có cuộc sống tốt đẹp vượt loài người, đem an lạc cho mọi người. Cho nên đạo đức cũng phải tùy nơi, tùy thời, tùy đối tượng. Chúng sanh nơi nào, cần gì vị giảng sư đến đó, phải làm như vậy, họ nghĩ người này tốt, người này hay, người này thông thái tài giỏi có đầy đủ đạo đức thì vị đó mới giáo hóa được họ.

Chư Phật Chư Bồ Tát thị hiện trên cuộc đời này, nếp sống đạo hạnh của các Ngài đã gắn sâu vào lòng muôn loài, các Ngài luôn sống vì lợi ích chúng sanh. Các Ngài không nghĩ mình là ân nhân của muôn loài, chính cái không chấp đó mà mọi người tôn các Ngài là bậc Minh Sư, bậc Đại Từ Phụ, lời nói của các Ngài được coi là kim ngôn đáng để lưu truyền nhân gian, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người noi theo. Khi các Ngài là bậc Người mẫu mực, công đức và phước trí mới giáo hóa chúng sanh được như vậy. Công đức: Công đức ở đây là nói đến công lao và ân đức, nghĩa là có công lao với đời, có ân đức với mọi người tạm gọi là công đức. Công đức là hai yếu tố không thể thiếu đối với một vị tu sĩ. Người xuất gia tu tập sống với đời dùng chúng sanh làm đối tượng để tu, các vị Bồ Tát khi làm đạo thì hòa nhập vào đời, dùng Tứ nhiếp pháp để hóa độ họ. Có chúng sanh Bồ tát mới thành tựu các công đức rồi lại dùng công đức mà cảm hóa người, dẫn họ đến con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu người không có công đức, giáo hóa chẳng ai nghe mà còn phỉ báng, người thuyết pháp giảng kinh mà làm cho người phỉ báng là vị đó phá pháp, tạo cơ hội cho bọn ma chống phá, họ phá hạ Phật Pháp. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện thứ 2, Phật nói: “Nếu nói ra việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A Tu La, đều kinh nghi, Tỳ kheo tăng thượng mạn, sẽ phải sa vào hầm lớn” [12,60]. Nên khi 5000 vị tăng thượng mạn gốc tội sâu nặng ra đi. Ngài không ngăn cản, họ đi xong, Phật bảo Xá Lợi Phất: “Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hột chắc. Xá Lợi Phất! Những gã tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt” [12,62]. Phật nói cho Xá Lợi Phất nghe những pháp vi diệu khó tin, khó hiểu thứ nhất. Đó là pháp Nhất thừa, những người có đủ niềm tin nơi Phật, sâu trồng căn lành mới có thể nghe nhận được.

Đức Phật là người có đầy đủ công đức, lời người nói ra ai cũng đều tin nhận. Trọn cuộc đời Ngài đã thể hiện rõ những gì Ngài nói, Ngài dạy cho người chỗ Phật tu, Phật chứng, là nếp sống mà Ngài đã sống. Đối với đời Ngài là vị thái tử giàu sang quyền thế mà không bao giờ ỷ lại. Luôn thương tưởng đến mọi loài, vui lòng bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con thơ, chịu đói chịu khổ, dấn thân vào chốn rừng thiên nước độc để tìm ra con đường đem đến an lạc cho chúng sanh. Đối với đạo, Ngài là vị giáo chủ sáng suốt, biết tùy thuận chúng sanh, dùng phương tiện dẫn dắt mọi người đến chỗ cứu cánh an lạc.

Đức độ của Ngài ảnh hưởng sâu sắc cho mọi loại, cho đến ngày nay có người chỉ giả bộ như Phật cũng được mọi người ưu đãi, như thế đều do cái công đức quá sâu dày của Phật cho nên thời Kinh Pháp Hoa mọi người mới có thể tin tưởng. Cho đến các bậc đạo cao đức trọng sau này, các Ngài ẩn trong rừng, trong núùi để tu tập mà mọi người cũng lần mò tìm đến để được thấy, nghe, học những gì từ các Ngài. Như Ngài Linh Hựu khi đến núi Qui, xung quanh toàn là thú dữ, Ngài dùng đức độ cảm hóa chúng trở thành thuần thiện. Ròng rã 8 năm không một bóng người, thế mà lần hồi ngọn núi Qui đã trở thành một đại tòng lâm danh vang sử sách. Hay như trong hạ thứ 10 của Phật, trong chúng có hai nhóm Tùy kheo kình chống nhau, không tin lời Phật, Ngài lặng lẽ vào rừng sống một mình dưới gốc cây thủy chúa, voi chúa kính phục ôm bát đi hái trái trên cây, lội xuống suối múc nước đem về dâng Phật. Công đức của Phật cảm hóa được tất cả mọi loài trên từ trời, người, dưới đến loài thú dữ đều kính mộ. Lần hồi hai nhóm kình chống giải hòa đến sám hối và thỉnh Phật trở về, cho nên người có đủ công đức đến đâu cũng được mọi loài kính phục che chở và cảm hóa được người ngang ngược trở thành hiền hòa.

Chúng ta ngày nay có công đức với đạo thì đạo che chở, có đức với dân thì dân ủng hộ. Nó là chất liệu ẩn chứa bên trong người không thể thấy, chỉ thấy nó bộc phát ra ngoài qua hành động. Lời nói làm cho người thấy nghe cảm phục.Vị giảng sư phải có cái này mới làm đạo đức, nếu chỉ nói suông không có đạo lý gì để người suy nghĩ cảm phục thì làm sao họ mến phục được. Cho nên vị giảng sư nói được phải làm được cũng để chứng tỏ rằng lời của Phật không phải là những lời lý luận suông không có kết quả. Mà đó là phương pháp chất liệu, nếu thực hành sẽ được cuộc sống hoàn toàn an lạc, giải thoát đem lại lợi ích cho mình và mọi người, từ đó mọi người mới tin và học tập theo.

Tóm lại, một vị giảng sư muốn hoằng pháp phải trao dồi ngôn ngữ, học rộng hiểu sâu, sống nếp sống đạo hạnh, dùng đức mà cảm hóa người. Khi cần nói thì nói, khi không cần thì im lặng, biết tùy theo từng nơi, từng thời, từng đối tượng mà sử dụng phương tiện thích ứng, đáp ứng đúng nhu cầu của thính chúng, từ đó họ mới phát tâm, nghe theo áp dụng tu hành và ủng hộ đạo pháp. Trong thời hiện đại, nhu cầu dân chúng ngày càng nhiều, càng đa dạng, vị giảng sư cũng phải có khả năng ngang bằng nhu cầu xã hội mới có thể hoằng pháp lợi sanh được; bằng ngược lại nên tự tu để dùng đức hạnh mà trang nghiêm Tam bảo, tạo niềm tin cho người. Người tu Phật là tượng trưng cho trí, đức. Nếu trí không có cũng phải có đức để người qúy kính. Nếu trí đã không có mà đức cũng không thì không còn xứng đạo huống chi làm giảng sư. Cho nên vị giảng sư đòi hỏi phải có đức lẫn trí. Không có trí thì khác nào:

“Người mù dẫn lũ đui theo dõi,

Sa lửa hầm còn hỏi chi chi”

Cho nên giảng sư đòi hỏi phải có trí hơn người, nếu không có trí hơn người thì phải làm hưng long Tam bảo, cũng phải có đức hơn người để gieo duyên lành cho chúng sanh và trang nghiêm cho Tam bảo. Như thế mới khỏi phụ lòng của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni và Chư Tôn Đức đã dày công giáo dưỡng.

2.1.5. Hiểu rõ đối tượng:

Người nông dân ở nông thôn rất hiền lành chất phác, tất nhiên họ thích nói giải dị, dễ hiểu hơn là dùng chữ nghĩa văn hoa. Đôi khi giảng sư phải học được những phương ngữ nơi vùng đất ấy, sẽ tạo thêm thiện cảm với họ, hoặc tìm hiểu hoàn cảnh vài người, rồi dẫn chứng họ rất cảm động, nghĩ rằng giảng sư quan tâm đến họ. Người nông dân học chậm nhưng tâm hồn lại thuần khiết, nên giảng sư dạy cái gì họ tiếp thu trọn vẹn cái đó. Không cần dạy nhiều, chỉ xoáy vào trọng tâm cuộc sống là đủ giúp họ có cái nhìn đúng đắn với đạo.

Người dân ở nông thôn dễ thuyết phục, vốn đã sẳn có đức tin mạnh mẽ và thuần khiết. Đây là một trong những thuận lợi lớn dành cho chúng ta khi về hoằng pháp ở nông thôn. Người bình thường có đức trí mới hiểu được điều thiện ác. Có đức tin mới dẫn chúng ta đến với con đường giác ngộ giải thoát. Có đức tin mạnh mẽ và thuần khiết mới dứt được khổ đau.

Đạo Phật vốn đã bắt rễ sâu xa vào đời sống đa số người dân Việt Nam. Giáo lý đạo Phật phù hợp với tâm thế của con người Việt Nam, ảnh hưởng sâu xa đến đạo đức, cách sống của người dân nông thôn thuần phác, do đó, gieo hạt giống nhà Phật đến vùng nông thôn, chúng ta đã có một mảnh đất màu mỡ, hứa hẹn nhiều bội thu tốt đẹp.

Vùng nông thôn rất ít có những sinh họat văn hóa giải trí, người dân rất nhàn rỗi thời gian, nếu chùa có những sinh hoạt tinh thần bổ ích thì rất dễ thu hút mọi người đến chùa.

Người dân nông thôn hạn chế về mặt kiến thức. Đạo Phật là đạo giác ngộ nên rất coi trọng trí tuệ. Tin và hiểu là hai vấn đề có liên quan mật thiết với nhau. Niềm tin thiếu hiểu biết, đó là mê tín; niềm tin đặt trên sự hiểu biết sai lạc đó là mê lầm, thậm chí đi đến cuồng tín! cho nên Luận Đại Từ Sa nói: “Niềm tin không có trí tuệ chỉ tăng thêm ngu si”.

Con người là con người trong một cộng đồng mang tính xã hội, chịu ảnh hưởng của xã hội, dự phần tác động vào xã hội và có quan hệ mật thiết với môi trường hoàn cảnh chung quanh, Tâm hay Thức được Phật giáo định nghĩa là sự tổng hợp của bên trong và bên ngoài tức là chủ thể của đối tượng, thiếu đối tượng thì chủ thể không còn là chủ thể. Lý duyên khởi cũng xác định hiện hữu là hiện hữu của tổng thể. A có mặt thì B có mặt. A không có mặt thì B không có mặt, cho nên nhược điểm của người dân nông thôn là dễ sa vào mê tín, tinh thần cầu học không cao, chỉ nương tựa vào thần quyền bùa chú, hoặc nghĩ thần linh là chỗ dựa trên hết của họ có thể đem quyết định hên xui cho cuộc đời họ trong cuộc sống hằng ngày, với sự mền lòng khả tin ấy đã đánh mất đức tin chân thành của họ đối với một tôn giáo lớn, họ chỉ biết cúng tế lễ lạy, mà không hiểu được nghĩa của nó. Cho nên đây cũng là trách nhiệm chung mà những người hoằng pháp chân chánh phải ân cần và quyết định cho họ cuộc đời mới trong tương lai.

2.1.6. Thuận lợi và khó khăn:

a. Thuận lợi:

Vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh, rất hiếm những sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Người dân rất nhiệt tình tham gia các tổ chức sinh hoạt. Nếu ở vùng đô thị có rất nhiều phương tiện giải trí tha hồ cho mọi người lựa chọn, thì ngược lại người dân nông thôn rất “đói” những nón ăn tinh thần. Chùa chiền, Đình làng… nếu tổ chức những sinh hoạt, lễ hội thì rất dễ qui tụ người dân đến tham gia.

Người dân quê chơn thiện, tâm tánh người nông thôn thuần hậu, chất phác, rất tin vào đời sống tâm linh, tâm hồn họ là mãnh đất mầu mỡ, trống trãi, chưa bị tạp nhiễm, chỉ cần hạt giống tốt là bám rễ, nảy mầm. Giáo lý nhà Phật lại gần gũi truyền thống, đạo lý nhân nghĩa, tín ngưỡng dân gian của người nông thôn, nên rất dễ được chấp nhận, một khi đã tin thì tin rất mãnh liệt, bền chắc. Đặc biệt, chúng ta cần chú ý đến đội ngũ tri thức nông thôn như các thầy cô giáo, một số công chức, những nông dân trẻ có trình độ,… bộ phận này tuy không nhiều lắm nhưng họ lại có uy tín trong địa phương, hoằng pháp được cho họ là có hiệu quả, bởi họ sẽ có những tiếng nói hỗ trợ chúng ta sau này. Trí thức nông thôn vừa mang tín chất nông dân hồn hậu, lại vừa mang tính tiến bộ của thời đại, tiếp xúc với họ thì khá dễ dàng và thú vị.

Sinh hoạt văn hóa dễ thu hút người dân: nếu ở thành thị có quá nhiều phương tiện giải trí như sách báo, phim ảnh, sân khấu ca nhạc, công viên, lễ hội,… diễn ra hằng ngày, hằng tuần, thì đối với đời sống nông thôn lại thiếu thốn hơn, hiện nay nhiều nhà có ti vi, đầu máy, nhưng nón ăn tinh thần cũng chưa gọi đủ. Chính vì vậy việc hoằng pháp nên tổ chức sinh hoạt lễ hội, đánh thức nông thôn, cũng là đánh thức ngôi chùa và ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hóa làng xã. Không phải chúng ta phá bỏ nếp sống tu hành yên tĩnh của người xuất gia, khi nào cần tĩnh thì tĩnh, khi nào cần động thì động, miễn sao tĩnh động phải đúng lúc, với mục đích hoằng pháp.

Làng quê không có trung tâm văn hóa cho người dân, nên chùa chiền cần được tận dụng, nhờ thế ngôi chùa trở nên gần gũi, và có gần gũi thì chúng ta mới dễ hoằng pháp. Chỉ cần chúng ta biết kiên nhẫn chịu khó thêm một chút sáng tạo ra những hoạt động văn hóa cho cộng đồng, thì chùa sẽ thu hút mọi người: như tổ chức học giáo lý theo mô hình đố vui hoặc hái hoa dân chủ thì phù hợp với nông dân hơn; soạn những giáo án, tài liệu, gồm những câu hỏi đáp ngắn gọn, theo kiểu đề cương thi, không nên tham soạn bài nhiều, và bài cao, thà đi chậm mà chắc, học cái nào ra cái đó, học thiết thực, lợi ích cho cuộc đời của họ. Nhưng tùy theo từng địa phương mà chúng ta phải thay đổi mô hình tổ chức sao cho phù hợp: như địa phương Phật tử trí thức tham gia khá đông đặc biệt lứa tuổi từ 20 tới 40 tuổi, vừa có kiến thức tốt, vừa có sự chững chạc tự tin, đạo tràng như thế khá lý tưởng, nên soạn bài cao hơn; còn địa phương toàn là thanh thiếu niên thì công tác hoằng pháp của chúng ta phải tích cực hơn, chính chúng ta phải chủ động tìm cách tiếp cận các em chớ không thể thụ động chờ các em tự đến với mình. Cần thay đổi quan niệm mà hiện nay nhiều vị đang chấp chặt, đó là ai cầu pháp thì mới thuyết giảng cho họ, giáo pháp là qúy báu, không phải năn nỉ người ta học, sẽ giảm giá trị. Chúng ta nhớ lại, lúc đức Phật thành đạo dưới cội cây bồ đề, tại sao Ngài không ngồi tại chỗ đó mà chờ người ta đến cầu pháp, mà Ngài phải lặn lội trở về vườn Lộc Uyển tìm gặp năm anh em Kiều Trần Như thuyết giảng cho họ? Người tự giác đi cầu pháp là người căn tánh đã thuần nhiều đời nhiều kiếp, chúng ta khỏi lo lắng, còn người căn tánh chưa thuần thì chúng ta mới sợ họ đi vào con đường xấu, càng nỗ lực giúp họ chứ đừng câu nệ ai đi tìm ai. Chúng sanh mang tâm bệnh chúng ta cần dỗ dành cho họ thuốc giáo pháp, vì thương họ mà chịu khó. Tuy nhiên, vấn đề không đến nổi khó khăn như chúng ta tưởng. Thực tế tiếp cận với các em dễ hơn người lớn tuổi. Thứ nhất các em rất mau thân thiện, ít rụt dè cảnh giác, đôi khi chỉ nụ cười là đủ lôi kéo các em đến gần. Thứ hai, rất dễ sử dụng các trò chơi, quà bánh thu hút các em, trẻ em nào cũng thích vui vẻ nô đùa, ăn uống, một bữa liên hoan nhẹ với bánh kẹo và ca hát là tiếp cận được các em, làm sao cho các em thấy đến chùa còn nhiều thứ vui khác chứ không đặc vấn đề học pháp quá khô khan, nặng nề. Dĩ nhiên mục đích của chúng ta là học pháp, nhưng nó lồng vào những chuyện vui vẻ khác, không nên thiết lập giảng đường, pháp tòa quá trang trọng, căng thẳng khiến các em sợ. Hiện nay, chương trình học trong nhà trường đã rất nặng nề rồi, đừng gây cho các em ấn tượng về chữ học nữa phải biến buổi học thành một buổi ngoại khóa sinh động, cứ như vừa chơi vừa học thì các em tham gia ngay. Ngược lại, chính người dạy pháp cũng sẽ cảm nhận không khí nhẹ nhàng từ lớp học, bản thân thấy trẻ trung, sinh động hơn. Hoằng pháp không còn là công việc nặng nề, mà trở thành công việc yêu thích, thư giãn lạ lùng. Hoằng pháp nông thôn không dễ, nhưng không quá khó, vấn đề biết tổ chức ra sao và đừng mơ những gì quá to tác vượt khỏi khả năng của mình, của địa phương, cứ kiên nhẫn đi từ nấc thấp nhất mà lên cao dần. Thà hóa độ được một người còn hơn xuôi tay đổ thừa cho hoàn cảnh.

Trên đây là những thuận lợi và khó khăn từ phía đối tượng hoằng pháp. Còn những thuận lợi và khó khăn từ những phía người đi hoằng pháp nữa (ở đây xin nói riêng một chút năng lực về Tăng Ni trẻ) ví dụ như: Tăng Ni trẻ, chúng ta có thuận lợi là sức khỏe, lòng nhiệt tình, sức sáng tạo, có thể “bám trụ lâu dài”, đủ sức đủ khả năng… làm cách mạng. Tuy nhiên tuổi trẻ cũng là điểm thuận lợi, cũng là điều khó khăn. Trong tôn giáo, sự tín ngưỡng rất là quan trọng, truyền thống phương Đông, bắt người già kính ngưỡng người trẻ là điều rất khó. Tin tưởng, giao trọng trách cho người trẻ là điều rất khó. Do vậy, ngoài việc có khả năng trình độ thực sự, vấn đề thân giáo, đạo đức Tăng Ni trẻ chúng ta phải được quan tâm chú ý hết sức cẩn thận, sâu sắc, phấn đấu điều này là một thử thách lớn đối với chúng ta. Thuận lợi cũng là khó khăn thứ hai là chúng ta xuất phát từ làng quê, chúng ta có thuận lợi là am hiểu về tâm lý, phong tục tập quán, nếp nghĩ của bà con cô bác quanh mình, dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên, song song đó cũng có những khó khăn như: thành kiến “Bụt nhà không thiêng” ảnh hưởng không ít đến công việc hoằng pháp, điều này cũng đòi hỏi một sức phấn đấu, lòng kiên nhẫn và tác phong uy đức của người làm công tác hoằng pháp ở chính quê hương mình.

b. Khó khăn:

Khách quan mà nói, hoằng pháp ở nông thôn có những khó khăn nhất định. Nếu không thì nhiều người hăng hái tìm về chứ đâu đến nỗi rời bỏ mà đi. Nói khó khăn không phải để chúng ta nản chí mà để lo liệu cẩn thận, vì chỉ nhiệt tình chưa đủ, còn phải trang bị nhiều yếu tố khác: phương tiệm vật chất thiếu thốn, không thuận cho sinh hoạt đông người, chùa nghèo, Phật tử khả năng tài chánh có hạn, rất khó thực hiện những sinh hoạt mang tính chất bề nổi, lâu dài.

Trình độ dân trí thấp, ảnh hưởng đến sự tiếp thu giáo lý Phật đà. Đa số người dân chưa có lòng ham học, ham nghiên cứu như người thành thị. Học tập phải trở thành thói quen như đọc báo, xem truyền hình... thì mới thúc đẩy mọi người tìm về Phật Pháp. Người nông thôn mang nặng sắc thái tín ngưỡng, cho rằng đến chùa chỉ lễ Phật, cầu xin cúng sao giải hạn, tụng kinh và làm công quả… và khi mở cuốn sách ra, thấy đầy thuật ngữ rối rắm, họ lại càng hoảng sợ. Do đó càng đem giới thiệu đồ sộ, vĩ đại giáo lý nhà Phật, họ càng rời xa, cảm thấy mình quá thấp thỏi, không với được, thôi né luôn cho rồi, chữ học đề cập một cách trang trọng càng bị đóng khung cách biệt.

Có địa phương, thoải mái cởi mở, cho thuyết pháp mở lớp giáo lý, phát hành kinh sách... Nhưng có địa phương vẫn xem những hoạt động đó như là hình thức tuyên truyền. Bản thân cán bộ địa phương cũng chưa hiểu đúng đắng về Phật giáo, vẫn nhìn Phật giáo qua lăng kính mê tín, thụ động, yểu thế, bi quan. Vì thực tế họ cũng chưa từng đọc qua giáo lý nhà Phật, làm sao họ hiểu được nội dung sâu sắc, tốt đẹp của Phật giáo, cho nên khi hoằng pháp phải chọn đề tài, chọn cách nói như thế nào để thế lý thế cơ. Thường thì các vị giảng những điều thiết thực nhất, làm cho người ta áp dụng ngay trong đời sống hiện tại và chính quyền thấy tôn giáo cũng góp phần tích cực vào xã hội, thêm thiện bớt ác, chớ không mê tín bi quan. Giảng pháp như vậy rất gần gũi và thực tế, chính quyền không thấy đạo và đời xa nhau.

Ở nông thôn từ thị xã xuống huyện còn đỡ, nhưng xuống đến xã, ấp thì đa số chùa nghèo, Phật tử nghèo, công tác hoằng pháp khó khăn hơn. Trước hết là không có phòng ốc, bàn ghế, phấn bảng tử tế... Nhưng đợi có đầy đủ thì chẳng bao giờ hoằng pháp được, cứ tận dụng những điều kiện sẵn có, rồi chư Phật gia hộ thêm. Nhưng với tâm quyết chia sẽ kho tàng pháp bảo cho mọi người thì thành công mỹ mãn. Thêm nữa, không phải lúc nào cũng có thể tổ chức lớp học hoặc buổi giảng một cách chính quy, bài bản. Có những điều kiện hạn hẹp hơn thì vị giảng sư không lẽ bó tay, bỏ luôn chí nguyện? Thiết nghĩ một khe suối nhỏ mà róc rách chảy hoài, lâu ngày cũng dồn thành suối lớn. Pháp bảo không có điều kiện tưới rộng khắp cho chúng sanh, thì cũng chia sẽ cho từng người, từng nhóm nhỏ, miễn sao đem lợi lạc cho ai đó cỏi đời này. Vị giảng sư có thể hoằng pháp ngay trong cuộc trò chuyện bình thường, ngay tách trà, đôi khi cuộc trò chuyện này lại hiệu quả gấp nhiều lần buổi học bài bản nhờ không khí gần gũi chân tình. Ở nông thôn, hoạt động sản xuất nông nghiệp không quá căng thẳng như nhịp sống công nghiệp ở thành phố, nên các cuộc trò chuyện có thể thường xuyên hơn tùy vào sự khéo léo của vị giảng sư. Hoặc một ngày bất chợt nào đó, có một Phật tử đến chùa khóc lóc, than thở về chuyện gia đình, thì đây cũng là dịp người Thầy thể hiện lòng từ bi cảm thông với nỗi khổ của chúng sanh, và hóa giải cho họ bằng sự an ủi động viên bằng giáo lý nhà Phật, cũng là một cách hoằng pháp thiết thực và cụ thể. Người bệnh tâm vị Thầy kê toa thuốc bằng chánh pháp, điều trị cho họ qua cơn vật vã và gieo những nhân duyên nhỏ như thế này, đến một lúc nào đó tích lũy thành cơ duyên lớn, hoằng pháp trên quy mô lớn.

Rõ ràng, hoằng pháp ở nông thôn có những khó khăn, tuy nhiên ở nông thôn có những thuận lợi riêng chúng ta phải biết tận dụng.

Điều kiện vật chất thiếu thốn, những định kiến hủ tục lạc hậu, khó thay đổi.

Con người mới sinh ra đã có sự bất đồng về giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, thông minh, đần độn, nó đã và đang chịu ảnh hưởng với những điều kiện thấp kém trong xã hội hóa hiện nay bởi những phong kiến tập tục từ ngàn xưa đến nay. Là người hoằng pháp đem sự nghiệp của Đức Phật và lòng từ bi của đạo Phật đến với những con người nơi đây chúng ta cần phải có trách nhiệm chuyển hóa bằng mọi phương cách và những lời khuyên.

Đức Phật khuyên ta không nên đơn giản tin vào điều gì chỉ vì điều đó có từ tập tục truyền thống. Tuy nhiên, ta cũng không nên khuyến bảo họ là hãy chối bỏ ngay tất cả các truyền thống ấy!.

Chúng ta chỉ cho họ những định kiến bất lợi trong đời sống hằng ngày bằng cách thực thi khảo sát phẩm chất của chúng, chỉ khi chúng tỏ ra hữu lý và đem đến hạnh phúc cho mình và mọi người, từ đó mới nên chấp nhận và thực hành các truyền thống ấy. Đây là phương sách giải quyết tốt nhất của người hoằng pháp.

2.2. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH CỤ THỂ

Khi đã xác định con đường và mục đích của mình, chúng ta cần quyết tâm thực hiện. Muốn thực hiện tốt thì phải nghiên cứu kỹ. Sau khi đã phân tích, nghiên cứu kỹ mới có thể đưa ra những biện pháp thích hợp để tiến hành. Đối với việc hoằng pháp vùng sâu vùng xa, sau nhiều ngày trăn trở, tăng sinh đã tạm nghĩ ra được một số biện pháp như sau:

2.2.1. Ổn định sinh hoạt của chùa:

* Xác lập các mối quan hệ vì Đạo pháp - Dân tộc - Xã hội chủ nghĩa.

Nên kết hợp với chính quyền tham gia ủng hộ tích cực vào phong trào từ thiện xã hội góp phần cùng xã hội xây dựng làng xóm ngày được phồn vinh đem lại hạnh phúc và xoá đi nỗi khổ đau của những người thiếu may mắn.

* Duy trì thời khóa tụng kinh đều đặn, đúng giờ, khuyến khích mọi người đến chùa lễ Phật tụng kinh, tập thói quen đến chùa hằng ngày cho đông đảo quần chúng và Phật tử.

2.2.2. Công tác tổ chức Phật sự:

Công tác hoằng pháp muốn thành công cần có sự trợ giúp của nhiều người. Nên thành lập đội ngũ Phật tử nòng cốt, và phân công hợp lý đối nội, đối ngoại, vừa đỡ việc cho mình vừa có thể khơi gợi, khuyến khích tinh thần mọi người cùng góp tay góp sức với mình.

Nói đến vai trò hoằng pháp là nói đến một hoài bão lớn của người truyền thừa mạng mạch Phật Pháp. Do đó đối với người hoằng pháp ngoài việc giảng dạy ở các đạo tràng, khi về chùa chúng ta phải tổ chức các thời khóa cho nghiêm túc như: Thời khóa tụng kinh niệm Phật sám hối trang nghiêm, thu hút người dân đến chùa mỗi tối để tụng kinh sau một ngày lao động. Sau buổi tụng kinh nên có vài lời thuyết pháp nhẹ ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu và thiết thực để người dân thấy được lợi lạc và thích thú khi đến chùa và từ đó là nếp sống tinh thần và tư cách của người Phật tử tại gia sẽ bắt đầu từ từ lóe sáng với sự giảng dạy của người hoằng pháp có trách nhiệm hướng dẫn trên con đường tập tu và bất cứ nơi nào họ dẫn tin yêu mái chùa và hình bóng người thầy trong tâm trí họ.

Bắt đầu từ những chuyện nhỏ. Sự nghiệp thì phải tính chuyện lớn, chuyện lâu dài, nhưng công việc thì bắt đầu từ những việc nhỏ. Làm nên một tác phẩm tiểu thuyết đồ sộ, nổi tiếng khắp thế giới… nhà văn cũng phải ngồi viết từng chữ cái, xây dựng một công trình hoành tráng cũng bắt đầu từ những viên cát nhỏ. Làm công tác hoằng pháp, chúng ta không những chú tâm đến việc lớn, đến tập thể đông người, mà ngay từ những việc quan tâm chăm sóc từng con người cụ thể, từng số phận bé nhỏ,… cũng rất cần thiết và quan trọng bởi chính những cử chỉ, hành động cụ thể thiết thực dù nhỏ nhưng đem lại cho chúng ta niềm tin lớn của người dân.

Khéo léo xác lập mối quan hệ, kết hợp với chính quyền địa phương tổ chức những hoạt động từ thiện, sinh hoạt đạo đức cộng đồng, kết hợp với chính quyền, tham gia tích cực ủng hộ phong trào xã hội, góp với chính quyền xây dựng làng xóm. Đây là vấn đề rất quan trọng, thứ nhất là “nhập gia tùy tục” với chính quyền địa phương, nếu được sự ủng hộ từ phía họ thì công tác hoằng pháp rất thuận tiện; thứ hai nếu bước đầu khó khăn, chúng ta chưa tự mình tổ chức những hoạt động từ thiện thì phối hợp cùng chính quyền, người ta có danh nghĩa mình có công, cố gắng gầy xướng phong trào, tạo chỗ đứng, gây dựng niềm tin trong dân trước một bước, có được niềm tin rồi thì sau đó hoạt động Phật sự sẽ rất dễ dàng.

Kế hoạch các ngày lễ lớn: cố gắng tổ chức những ngày đại lễ lớn như Phật Đản, thành đạo, Vu Lan... tạo nên những lễ hội văn hóa vui vẻ bổ ích cho người dân nông thôn.

2.2.3. Tổ chức thuyết pháp và giảng dạy:

Lớp Phật Pháp phải mang tính chính quy và sư phạm, là phải có giáo án, kèm theo những hình ảnh minh hoạ vào, hoặc vẽ biểu đồ, phù hợp với nội dung từng bài, từng câu, khiến mọi người thích thú. Những hình ảnh, biểu đồ giúp cho óc thư gãn và được nhìn ngắm, nảy sinh ra lý tưởng thuộc bài. Người dạy phải có giáo án kèm theo cuốn giáo trình, trong giáo án có những phần giảng rộng thêm trong giáo trình không có. Chuẩn bị tốt giáo án thì đứng lớp sẽ đỡ lúng túng, tránh thói quen tới giờ là lên giảng, nhớ đâu nói đấy, có đoạn sẽ dài lê thê, có đoạn quá tóm tắt, giáo trình có thể giống nhau nhưng giáo án là sự sáng tạo riêng của mỗi người. Nên sử dụng phấn trắng, bảng, micro như lớp học. Phấn bảng giúp người dạy thay đổi tư thế sinh động, không cứng đơ một chỗ khiến người nghe mau chán, có thể tạo những nhấn mạnh trong bài học, dễ gây chú ý, dễ nhớ bài.

Phong cách giảng dạy: xác định đây là lớp học, do đó giảng sư nên có cách dạy gần giống như trong trường phổ thông, nhưng vì giáo lý dễ bị khô khan, giảng sư phải sinh động và vui vẻ hơn cả trường phổ thông. Trang phục phải đẹp, sạch sẽ, tinh thơm, như Hòa thượng Thượng Trí Hạ Quảng từng nhắn Tăng Ni phải tu thế nào để được hình tướng hảo, nếu kiếp này chưa được thì cũng cố gắng đạt tùy hình hảo, nghĩa là làm cho người ta yêu mến qua phẩm hạnh, rồi người ta thấy mình đẹp.

Phong thái cần nhẹ nhàng như một cuộc giao lưu, trò chuyện hơn là một buổi học, không để cho người nghe thụ động ngồi nghe suốt một bài pháp, mà luôn tạo cơ hội cho người nghe tham gia bài học bằng cách vừa giảng vừa hỏi để người nghe trả lời. Thậm chí pha trò để cho người nghe cười, luôn động não, không thấy buồn ngủ, đôi khi câu trả lời của người nghe bổ sung cho giảng sư bởi cung cấp thông tin sống động ngoài cuộc đời mà cá nhân một giảng sư không thể nghĩ ra toàn bộ. Tính giao lưu rất quan trọng cho nên phải tham gia trực tuyến mới hấp dẫn.

Thi kiểm tra: Hình thức hái hoa dân chủ, bốc thăm trả lời và nhận phần thưởng tại chỗ, cả lớp điều tham gia với người lên bốc thăm, người nghe có thể ôn bài lại nhờ nghe bạn trả lời. Tiến một bước nữa kiểm tra trên giấy, trắc nghiệm,…

Kết hợp với mô hình văn hóa thiếu nhi, vì trẻ em ở nông thôn vùng sâu vùng xa đang thiếu môi trường sinh hoạt văn hóa, làm giàu đời sống tinh thần. Cho nên tổ chức lớp học Phật Pháp là tạo môi trường lành mạnh cho các em sinh hoạt tránh tiếp xúc với tệ nạn, thí du:ỉ đánh bài, chửi thề, ma túy. Nhân tố hóa các em tin yêu vào đạo Phật, gây được niềm tin nơi chính quyền địa phương vì hiện nay các xã, ấp rất khó khăn hoạt động văn hóa. Đặc biệt vùng sâu vùng xa, chùa tiếp tay chăm sóc thiếu nhi và như thế chính quyền nhẹ lo, vì mô hình nhà văn hóa thiếu nhi có tác dụng giáo dục rất lớn, thay đổi nhanh chóng bộ mặt nông thôn, nâng cao dân trí, được chơi, được thư giãn mà vẫn thu thập được bao nhiêu là kiến thức. Bởi kinh nghiệm cho thấy, ở nhiều vùng nông thôn của mình, trẻ em thường nghỉ học sớm, để phụ giúp cha mẹ vì cha mẹ cũng không có tiền cho con học, các em đi làm thuê làm mướn, rồi lấy vợ chồng sớm, rồi tiếp tục nghèo khổ, sinh ra đàn con nheo nhóc, hứa hẹn một thế hệ trẻ cũng nghèo như vậy. Cho nên chúng ta cần đầu tư sớm cho các em về học chữ, kèm theo dạy nghề, chẳng hạn: may, điện, mộc, nấu ăn... Chúng ta đầu tư hiệu quả thật sự chứ đừng dạy theo kiểu trung tâm cỡi ngựa xem hoa, chẳng làm được gì. Ví dụ như người già đa số thích nghe chuyện nhân quả, chuyện cổ, cõi nào sẽ về sau khi mạng chung… cái lo của họ tương lai nằm ở kiếp sau và thêm nữa bệnh tật đang làm khổ họ. Trẻ: cái lo lại là tương lai nằm trong năm, mười năm tới, có thành đạt giàu có hay không? Có thể nhấn mạnh nhân quả để định hướng thiện nghiệp cho họ. Trên hết vẫn là tính khoa học, dí dỏm, sinh động. Trung niên: họ cần lý giải những ưu tư trong cuộc sống dưới cái nhìn của Phật giáo, thắc mắc rất nhiều và thường có những chiều sâu do đã trải nghiệm cuộc sống. Vì vậy giảng sư cần tham khảo nhiều tài liệu để giảng dạy sâu sắc hơn, nếu chỉ bám tài liệu một cách khô khan e rằng họ mau nản vì không giải quyết những bận tâm của họ.

Số lượng: Nhiều, thì giảng sư soạn bài theo kiểu chính quy, giảng đường càng có sự trân trọng, cộng hưởng xem ra không khó giảng dạy. Số lượng ít đâm ra lễnh loãng, khó giữ được không khí phấn khởi, vì thế giảng sư phải biết cách trò chuyện sao cho thân thiện một chút, đừng quá trang nghiêm sẽ gây sự mệt mỏi nhanh chóng, dạy trong bối cảnh gọn nhẹ, gần như đàm đạo.

Địa phương: Tùy theo vùng nông thôn mà uyển chuyển cách giảng dạy khác nhau, như quan sát vùng đó sống bằng nghềâ nào chính. Đôi khi những dẫn chứng, minh họa của chúng ta quá xa lạ với họ thì họ cũng không cảm nhận nổi, chúng ta nhớ nhập gia tùy tục là dễ chinh phục người ta nhất.

Nên tổ chức những buổi nói chuyện về các chuyên đề như: Mối quan hệ cha mẹ và con cái theo quan điểm đạo Phật, mối quan hệ hàng xóm, tình bạn v.v…

Có những nhu cầu và điều kiện cần thiết như trên chúng ta mới có thể thực hiện được những tâm nguyện và hoài bảo của người hoằng pháp. Song song chúng ta nên có kế hoạch các ngày lễ lớn để tạo thêm nét đẹp văn hóa Phật vào lòng của người dân vùng sâu vùng xa bằng cách cố gắng tổ chức những ngày đại lễ lớn như: Đại lễ Phật Đản (ngày 15/4 Al), Đại lễ Vu Lan Thắng Hội (ngày 15/7 Al), Đại lễ Phật thành đạo (ngày 15/12 Al) và các ngày lạy vía, Sám hối để Phật tử và người dân có dịp hòa nhập vào môi trường Phật Pháp, tu học, tăng thêm phần thu hút và đem lại niềm tin lẫn niềm vui cho mọi người, mặc khác cũng là niềm khích lệ khuyến tấn trên con đường tới giác ngộ tâm linh.

Để trang nghiêm đầy đủ ý nghĩa của những ngày lễ trên, ngoài việc tổ chức long trọng đó thì người tổ chức cần nên đề cập về ý nghĩa của những sự kiện, của những ngày lễ để người dân nơi đây họ được hiểu thêm về ý nghĩa của nó, nhằm tô đậm thêm nét đẹp của văn hóa Phật giáo.

2.2.4. Hoạt động từ thiện:

Tục ngữ Việt Nam nói:

Dù xây chín đợt phù đồ

Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người !

Thật vậy, với tinh thần tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, nhường cơm sẻ áo, chia sớt bớt nỗi khổ đau thiếu thốn của những người dân vùng sâu vùng xa nghèo khổ. Với tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật thì một bất cứ chúng sanh nào có khổ đều được cứu khổ. Bởi vì Phật ở trong lòng có cầu tất được đáp ứng. “Phật tự môn trung, hữu cầu tất ứng”.

Tăng sĩ Phật giáo với lòng bi mẫn chúng sinh, tâm từ bi rộng khắp, nên tiến hành song song với họat động truyền bá giáo lý là những họat động từ thiện. Trước mắt là cứu cái khổ gần, sau đó mới là cứu cái khổ sâu xa. Phải có một cuộc sống tạm yên ổn thì mới nghĩ đến mục đích giác ngộ giải thoát lâu dài được.

Để có nguồn tài chánh phải dựa vào các tấm lòng hảo tâm của những người con Phật trong vùng và trên mọi miền. Vận động cứu giúp những nhà nghèo khổ, khó khăn, bệnh hoạn, cất nhà tình thương, xây cầu đắp đường. Cứu trợ đến những vùng sâu bị thiên tai lũ lụt v.v... là những họat động rất cần thực thi ở những vùng nông thôn, nơi mà đời sống người dân luôn bị đe dọa bởi cái nghèo, cái khó triền miên.

Ngoài việc xóa đói giảm nghèo đem lại sức sống cho người dân vùng sâu thì người hoằng pháp phải có trách nhiệm đem ánh sáng trí tuệ, hiểu biết cho người dân nơi đây. Ngoài việc truyền đạt chánh pháp cho họ, chúng ta cần nên mở lớp học tình thương cho trẻ em nghèo hiếu học, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc đọc chữ, viết chữ cho các em trong hoàn cảnh ngày nay. Để đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn của lớp học, phải có kế hoạch tổ chức hẳn hoi. Đào tạo giáo viên nội bộ có đủ trình độ đứng lớp, có kinh nghiệm nơi học đường, và thuê những giáo viên bên ngoài hay những Phật tử thuần thành có nhiều năm giảng dạy để đủ điều kiện truyền đạt tri thức cho các em.

2.2.5. Xây dựng cơ sở vật chất:

Ngoài những hoạt động truyền bá giáo lý, ủng hộ từ thiện xã hội, công tác hoằng pháp muốn tròn vẹn phải thực hiện tốt các điều kiện cần thiết của cơ sở vật chất như:

* Xây chùa: Chùa là nơi tôn thờ chư Phật và Bồ Tát, Thánh hiền, là nơi chiêm bái lễ tụng hằng ngày của chư Tăng và Phật tử, chùa là chỗ nương tựa tinh thần cho những tâm hồn của từng lứa tuổi.

Đạo Phật từ Ấn Độ truyền đến Việt Nam đã gần 20 thế kỷ. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, đạo Phật đã gắn bó, hoà nhập với dân tộc, cùng vượt qua những chặng đường, gay go. Viết nên trang sử vàng son thời Đinh, Lê, Lý, Trần, góp phần xây dựng nền văn hóa dân tộc, mang lại an lạc hạnh phúc cho người dân Việt.

Đạo Phật là tôn giáo đáp ứng nhu cầu tâm linh lành mạnh cho dân tộc xưa nay. Chùa là nơi người dân nuôi dưỡng đời sống tinh thần qua lời kinh mỗi tối, tiếng giảng pháp mỗi rằm.

Mái chùa cong lợp ngói đỏ, tiếng chuông sớm, mỏ chiều… đã trở nên hình ảnh âm thanh quen thuộc, thân thương đối với mọi người, để rồi khi đi xa ngôi chùa làng xưa lại chiếm một phần rất quan trọng trong ký ức của chúng ta.

Nhà thơ Nguyễn Bính đã thốt lên:

Quê tôi có gió bốn mùa

Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm

...

Mai này tôi bỏ quê tôi

Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi ! bỏ chùa

(Quê tôi-Nguyễn Bính) 

Thật vậy, việc xây dựng cơ sở là điều tất yếu trong việc hoằng hóa. Chùa làm nơi nuôi lớn hạt giống bồ đề của những người dân nông thôn được nẩy mầm, có lớp học (giảng đường) là nơi học hỏi, tăng thêm hiểu biết cho Phật tử. Chùa ví như mãnh đất ươm mầm xanh lá, cho nên việc hoằng pháp muốn thuận lợi phải hoàn tất cơ sở vật chất hầu đáp ứng nhu cầu khao khát chánh pháp của người dân vùng sâu.

2.2.6. Các sinh hoạt hỗ trợ bổ ích:

Ngoài việc tổ chức nơi bổn tự để Phật tử có nơi chiêm bái, tu học hằng ngày, song song đó phải tổ chức những chuyến hành hương trong năm của những ngày lễ lớn hay đi thập tự vào mùa Vu Lan Thắng Hội, hoặc những nơi du lịch trọng điểm Phật giáo, tham quan các thắng cảnh… Đây là việc làm phụ nhưng đem lại bổ ích rất nhiều cho đồng bào Phật tử nơi xa xôi này-Là điều kiện tốt khi họ là những người đầu tắt mặt tối lam lũ dưới ruộng đồng từ sớm đến chiều… hì hụt cả ngày, tối về chỉ nghe tiếng mỏ chuông mà thôi lấy đâu sức để nghĩ đến chuyện xa vời… Do đó chúng ta là người tổ chức thay thế Tăng đoàn cho Giáo hội, để bảo vệ hướng dẫn họ trên con đường hoàn thiện giác ngộ giải thoát thì những điều cần biết cần làm đem lại niềm vui và hạnh phúc an lạc cho họ thì nên làm nhằm trau dồi trí đức cho mình và cũng là phương pháp chỉ dẫn cho họ hiểu và tìm được nếp sống mới-Bởi khi sự hiểu biết của người Phật tử nơi đây thông hiểu thì từ đây việc đi chùa của họ không ngoài việc lễ lạy mà còn cần nghe pháp nữa. Cho nên về chùa kính Phật trọng Tăng là để:

Lắng nghe lời pháp dạy răn của thầy !

Kinh Hoa Nghiêm nói:

Như viên ngọc qúy giữa đêm dày

Không đèn soi sáng có ai hay ?

Cũng vậy Phật Pháp không người nói

Thông minh cũng khó hiểu nghĩa này !

Vị thầy là thay Phật hoằng pháp để mà Phật tử cần phải nương tựa học hỏi, hiểu nghĩa lý vi diệu trong kinh Phật…

Để tạo điều kiện thuận lợi cho Phật tử tìm hiểu ra bên ngoài, giao lưu với bạn bè trong năm giới… chúng ta tổ chức cho họ tham gia các khóa tu ở các đạo tràng các nơi như: - Khóa tu Phật thất - Đạo tràng Bát quan trai - Khóa tu niệm Phật v.v…

2.2.7. Đào tạo Tăng tài kế nghiệp:

Hoằng pháp vi gia vụ

Lợi sanh vi bổn hoài...

Trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của những người thừa chí cả, ai ai cũng mang trong mình một hoài bão lớn mà đó là sự nghiệp của đời mình. Bởi sự nghiệp bao giờ cũng đem lại kết quả của nó cho nên hoài bão ấy muốn được lưu truyền mãi mãi đến đời sau, để những thành quả đó được giữ gìn và phát triển thì ai là người tiếp tục sự nghiệp, phải chăng là những Tăng tài sau này? Vì vậy nên quan tâm đến việc đào tạo, thu nhận đệ tử xuất gia, nhằm sau này có người kế nghiệp. Đó là một trong những hoài bão và tâm nguyện quan trọng của một tu sĩ Phật giáo.

2.2.8. Nguồn tài chánh:

“Có thực mới vực được đạo”, không như thời đức Phật, một tăng, một y, một bát là có thể đi giáo khắp nơi. Ngày nay nếu không có cơ sở vật chất thì khó hoằng pháp (ngay cả thời đức Phật cũng phải nhờ như trưởng giả cấp cô độc, vua Ba tư nặc... thì tăng đoàn của Phật mới vững mạnh, phát triển rộng rãi, đem lợi ích đến được cho nhiều người). Chúng ta cần vận động biết “trọng dụng” các mạnh thường quân có khả năng tài chánh ở thành phố... Vì tài chánh góp phần không nhỏ vào công tác hoằng pháp, nó bao gồm chi phí in ấn tài liệu, mua sách vở... Thực ra tùy điều kiện mà có thể giảm hoặc tăng phần này phần kia. Như về hoằng pháp vùng sâu vùng sa, dĩ nhiên không ai trả thù lao cho mình rồi, thậm chí còn chấp nhận dành dụm tiền để in ấn tài liệu cho Phật tử, chịu tốn tiền xe đi lại. Bước đầu phải hy sinh vì lý tưởng, phải tạo phước đức, đừng lo không ai bù đắp, tinh thần tận tụy ấy sẽ được Chư Phật gia hộ sau này.

Tóm lại, Tăng Ni chúng ta nên biết tận dụng và tranh thủ lợi thế tuổi trẻ để đóng góp một cách hiệu quả nhất cho Phật Pháp. Ngay Hòa Thượng Thượng Trí Hạ Quảng cũng bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp của mình khi mới 20 tuổi ở vùng Đồng Xoài heo hút. Tăng Ni trẻ chúng ta hãy phát nguyện noi gương cổ đức, về với đồng bào không ngại khó ngại khổ, sẵn sàng vấn thân vào những nơi khó khăn để hoằng hóa, ngõ hầu đáp chút công ơn thầy tổ, đàn việt và cũng tạo phước cho mình để sau này tiến tu thuận lợi hơn.

Phật giáo đang bước vào giai đoạn mới rất cần sức cống hiến của người trẻ tuổi, được ăn học đàng hoàng, với tâm Bồ Tát yêu thương chúng sanh làm thao thức hàng đầu. Ở đâu có chúng sanh đau khổ, ở đó cần qúy vị giúp đỡ, đặc biệt là vùng nông thôn hiện nay.

Người ta thường nói: Có tiền mua tiên cũng được.

Thế thì đồng tiền là sự quyết định của sự nghiệp mình sao? Tuy nó là một thứ không thể thiếu trong đời thường bởi tầm quan trọng của nó, nó thường được đặt vào vị trí hàng đầu, quyết định được nhiều việc... Do đó, nguồn tài chính cũng là một điểm nóng trong chương trình kế hoạch phục vụ cho công việc hoằng pháp.

Để thành đạt một công trình hay sự kiện nào đó, chúng ta đều phải đủ yếu tố vật chất và tinh thần. Tinh thần là sự kiên trì dõng mãnh, đem lại nếp sống lạc quan trong công việc. Vật chất là thứ hộ trợ chính nên không thể thiếu. Có thể nói: Người tu khi bước vào giai đoạn hoằng hóa thì rất cần có nguồn tài chính này để hoạt động. Từ những công việc từ thiện hoặc tổ chức lễ hội hằng năm...

Để có được nguồn tài chính, ta cần có kế hoạch “làm ra tiền” bằng nhiều cách. Có thể tham khảo một số biện pháp tìm kiếm nguồn tài chính như sau:

* Nguồn ở xa: Nhờ vào sự hỗ trợ chiếu cố của Chư Tôn Đức trong Giáo Hội hay các Bậc Tôn Đức ở nơi các Tự Viện lân cận có sự quan tâm mật thiết nhằm phát huy tinh thần tương thân tương ái “Lá lành đùm lá rách”. 

Đó là nội hội, còn về phía ngoại hội thì động viên các nhà hảo tâm như: mạnh thường quân ở thành phố, Việt kiều v.v… Phật tử ở xa có phát tâm qua sự chỉ dẫn của chư Tôn Đức.

* Nguồn ở gần: Nhờ sự trợ giúp phát tâm của những gia đình hằng tâm, hằng sản trong vùng; phát động phong trào nuôi heo đất trong Phật tử nhằm tạo điều kiện cho người nghèo cũng có điều kiện cúng dường đóng góp tích phước. Đây là vấn đề cần phải phát động mà mỗi thành viên trong chùa hay Phật tử lân cận đều phải có trách nhiệm chung nhằm làm tốt đạo đẹp đời

* Nguồn tạo ra: Nhờ vào sức lực của chính bản thân và đại chúng trong chùa phải nổ lực tổ chức tăng gia sản xuất về mọi mặt như: Nông, công, thương v.v… Có thể làm ruộng, làm rẫy, trồng cây hoa màu, cây ăn trái, sản xuất các chất liệu như: Nhang (hương) đốt, tương chao, đậu hũ v.v… nhằm tiêu thụ ra thị trường để lấy nguồn vốn đó đầu tư vào các công việc khác. Có thế cuộc sống đời Tăng nhân mới mạnh mẽ và tự tin hơn. Mặc khác không nên chờ đợi ai hết. Dẹp bỏ định kiến không tốt về thầy tu chúng ta thừa hưởng sự nghiệp ăn không ngồi rồi, nằm trong mát ăn bát vàng. Do đó để chấn chỉnh điều đó chúng ta là những Tăng sĩ trẻ trong thời hiện đại cần phải mạnh mẽ vạch rõ đường lối và chủ tâm vì một Phật giáo ngay mai.

CHƯƠNG 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ

3.1. Đối với Giáo hội và Ban Trị sự các tỉnh thành:

Giáo hội nên quan tâm sâu sát hơn, có một chương trình, kế hoạch cụ thể hơn đối với công tác hoằng pháp vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, miền núi v.v… Ban hoằng pháp Trung Ương nên đặt những cơ sở hoạt động thiết thực ở các tỉnh, cung cấp và điều động hợp lý đội ngũ giảng sư, tài liệu kinh sách ưu tiên cho vùng nông thôn.

Ban Trị sự các tỉnh nên kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các tự viện trong phạm vi trách nhiệm của mình. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các Tăng Ni có nguyện vọng và khả năng làm Phật sự ở các vùng sâu vùng xa. Sẵn sàng ủng hộ tinh thần cũng như vật chất cho các vùng nông thôn nghèo khó. Kiên quyết làm trong sạch đội ngũ Tăng Ni, đừng dễ dãi buông lung khiến những trường hợp “con sâu làm sầu nồi canh” ảnh hưởng đến uy tín Tăng già và làm mất lòng tin Tam Bảo nơi quần chúng nhân dân.

Nên có những biện pháp, chính sách ưu đãi đối với Tăng Ni sinh trẻ mới ra trường, kêu gọi và động viên họ trở về địa phương làm Phật sự.

3.2. Đối với các cấp lãnh đạo chính quyền:

Nâng cao đời sống tinh thần, đạo đức cho người dân cũng là một đóng góp tích cực về mặt văn hóa, góp phần xây dựng xã hội lành mạnh văn minh. Đạo Phật trong lịch sử mấy ngàn năm qua đã có những đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng đất nước. Những vị vua anh minh thời Lý Trần đã mang lại cho dân tộc niềm tự hào rất lớn bởi những thành tựu rực rỡ mà các triều đại này mang lại. Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp đó của cha ông, thiết nghĩ những người lãnh đạo đất nước hôm nay cần có sự nhìn nhận đúng mức về vai trò đóng góp của Đạo Phật vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc tốt đẹp, xây dựng đời sống đạo đức bền vững, lợi ích cho nhân dân. Các cấp chính quyền địa phương nên quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho những hoạt động Phật giáo mang lại lợi ích cho đời sống tinh thần và đạo đức người dân. Đồng thời nghiêm khắc xử lý những trường hợp trá hình, lợi dụng tôn giáo làm điều không tốt, đi ngược lại lợi ích cộng đồng và làm ảnh hưởng uy tín đạo Phật.

3.3. Đối với lớp Tăng Ni trẻ:

Hãy nhiệt tâm phát nguyện hạnh lợi tha. Vùng nông thôn rất cần những tấm lòng từ bi và sự nỗ lực của quí vị. Sau khi đã thọ ơn đàn na tín thí cho ta ăn học, hãy trở về những nơi thực sự cần những bước chân hoằng hóa. Gạt bỏ những suy tính lợi ích cá nhân, hãy vì lòng bi mẫn chúng sanh mà đem hết sức lực và tài năng cống hiến. Đó là phước báu rất lớn.

PH ẦN KẾT LUẬN

Trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, từ nếp sống đạo hạnh, an lạc giải thoát, vị giảng sư trang trải đến mọi người, lấy kết quả của mình chứng minh cụ thể cho người khác thấy rằng: Phật Pháp là phương thuốc kỳ diệu trị lành cho tất cả chúng sanh chớ không phải lời nói suông vô nghĩa.

Trên bước đường hoằng pháp, vị giảng sư tự lập cho mình một phương thức đặc biệt, đó là nghệ thuật truyền đạo. Ứng dụng lý nhân duyên, biết lựa chọn thời gian, địa điểm, đối tượng, có đủ các yếu tố để thành tựu một pháp hội, không cố gắng độ người không có duyên lành vì biết rõ có cố gắng cũng không có kết quả mà còn phản tác dụng. Cho nên:

“Hữu duyên khả độ,

Vô duyên bất khả độ”

Có duyên mới độ được.

Không duyên không thể độ.

Phải thấu rõ những nhân duyên cần thiết để thành tựu thời pháp, không nên đi hoằng pháp khi chưa đủ duyên, mà dùng phương tiện tạo niềm tin cho người rồi mới vì đó nói pháp khiến người nghe tin hiểu và ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại. Do đó hành giả tránh những duyên đưa đến quả xấu, tạo những duyên đưa tới hoàn toàn an lạc, giải thoát, đạt quả vô thượng bồ đề, như Kinh Pháp cú câu 169 Phật dạy:

“Hãy khéo sống chánh hạnh

Chớ sống theo tà hạnh

Người chánh hạnh hưởng lạc

Cả đời này đời sau”

Đối với ý nghĩa phương tiện, vị giảng sư thấy tất cả việc làm của bậc tiền bối là những pháp mầu vi diệu, là những phương tiện huyền biến tùy duyên. Tuy không rập khuôn như lời Phật dạy nhưng không có gì mâu thuẫn, nhờ thế mà hành giả không cố chấp người kia đúng, người nọ sai, hoặc một khuôn khổ phép tắc nhất định, mà biết sống tu, học và làm việc phù hợp với thời đại, đất nước con người, thích ứng với khả năng với chính mình. Cốt làm sao sống có ích lợi cho mọi người, luôn là ngọn đuốc sáng soi đường, là bóng mát che chở cho mọi người được an lạc hạnh phúc.

Vị giảng sư tu theo pháp phương tiện, vượt khỏi mọi chấp trước thế tục, dù trong hoàn cảnh nào, vị này cũng biết cách tạo cho mình cảnh giới an lạc tự tâm, tuy sống giữa cõi đời đầy quyến rũ ô trược mà thân tâm không ưu não, không ô nhiễm, như hoa sen rủ bùn vượt vào không gian vô tận tỏa ngát hương vị thanh khiết của loài hoa bất nhiễm. Vị giảng sư rõ biết nhu cầu của con người từng nơi, từng thời không giống nhau, nên khi hoằng pháp không chấp vào một khuôn khổ cố định nào, có thể vì người làm bất cứ nghề nghiệp nào để cho người được lợi lạc, kính tin, thọ trì, biên chép, khéo lựa lời giảng nói đúng lúc, đúng đối tượng phù hợp căn tánh, khiến người nghe tiếp thu tốt, phát triển thiện tâm, thành tựu thánh quả.

Vị giảng sư tu học theo Kinh Pháp Hoa, nhìn vào gương sáng của Chư Phật, Chư Bồ Tát mà trao luyện chính mình, thấy các Ngài sống hài hòa, bình đẳng, sang bằng những hố thẳm bất công, trị lành vết thương mặc cảm trong lòng mọi người, tạo nên cuộc sống an bình tịnh lạc, hành giả cũng tập nếp sống hiền hòa, tôn trọng mọi người như trọng Phật, tự tạo cho chính mình nếp sống đạo hạnh an lạc, đầy đủ vị Phật tương lai, xứng đáng mô phạm cho trời người trong hiện tại.

Vị giảng sư ứng dụng theo Kinh Pháp Hoa, vào nhà từ bi, mặc áo nhu hòa nhẫn nhục, ngồi tòa pháp không, chuyển bánh xe pháp đi cùng khắp mọi nơi, rộng độ chúng sanh không hạn cuộc trong phạm vi nào, loài nào, giai cấp nào, con người nào, đều bình đẳng nói pháp vô thượng của Như Lai, chỉ bày cho họ nhận được Phật tánh của chính mình, dẫn họ đồng đến cứu cánh an lạc.

Vị giảng sư nương theo hoằng pháp lợi sanh trong Kinh Pháp Hoa tu học và hành đạo.

“Bình bát cơm ngàn nhà

Thân chơi muôn dặm xa

Mắt xanh xem người thế

Mây trắng hỏi đường qua”

Người xuất gia có nhiều hạnh nguyện, nhưng hạnh nguyện cao nhất phải là hoằng pháp. Vì nếu không như thế, thì giáo pháp cao qúy của đức Phật sẽ mai một dần và Tam bảo không còn đủ ba ngôi. Mà xét cho cùng giáo pháp mới là ngọn đuốc dẫn đường cho người ta biết sống thế nào an lạc, hạnh phúc. Hiện nay vấn đề hoằng pháp vùng sâu vùng xa là vấn đề cần được quan tâm đối với đội ngũ Tăng Ni sinh trẻ của chúng ta. Bởi đất nước ta nông thôn chiếm phần diện tích lớn, nơi đó có rất nhiều việc cho ta thực hiện, hơn thế nữa chúng ta cũng từ mảnh đất ấy ra đi, cho nên chúng ta phải về phục vụ. Tất nhiên, hoằng pháp ở nông thôn có những hạn chế nhất định, những khó khăn nhất định, nhưng chúng ta với “hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh”, dấn thân vào đời, xông bước vào nẻo đường chông gai cát bụi, không sợ gian nan, không từ nguy khó, không còn sợ thất bại trước nhu cầu đa dạng của mọi người, đem giáo lý Phật đà sáng soi cùng khắp chúng sanh được như thế:

“Trên đền đáp bốn ơn

Dưới cứu khổ ba đường”

Nối gót bậc tiền bối thực hiện lời di chúc của Đức Thế Tôn: “hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo cao siêu, hãy mang lại tốt đẹp cho người khác”. Duy trì mạng mạch của đức Như Lai còn mãi ở đời, làm trụ cột vững chắc cho ngôi nhà Tam bảo, góp phần trang nghiêm đạo pháp, lợi lạc quần sanh và xây dựng thế giới Ta bà uế trược thành tịnh độ thanh lương, đưa đất nước con người toàn chơn thiện mỹ và cứu cánh an lạc.

Ánh sáng giác ngộ của Đạo Phật đã soi sáng và sưởi ấm tâm linh của vô lượng chúng sanh trong đêm dài vô minh gần 2600 năm qua. Chánh pháp được cửu trụ ta bà là nhờ vào tinh thần hoằng pháp, chẳng ngại gian lao, chẳng từ khó nhọc của chư Tăng trải qua bao thế hệ. Tinh thần bảo vệ và hoằng hóa chánh pháp của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni đã được truyền tiếp trong huyết quản của những vị sứ giả Như Lai:

Đâu chúng sanh cần con đến

Đâu Phật Pháp cần con đi

Chẳng ngại gian lao

Chẳng nề khó nhọc...

Lời dạy khi xưa của Đức Phật vẫn còn vang vọng đâu đây: “Này các Tỳ kheo, các ông nên khởi tâm từ bi. Nếu có người thích nghe, hoan hỉ chấp nhận chánh pháp do các ông nói, hãy nên vì họ nói Bốn niềm tin vững chắc, khiến họ tiếp nhận, an trú trong đó. Những gì là bốn? Đó là niềm tin vững chắc đối với Phật, niềm tin vững chắc đối với Pháp, niềm tin vững chắc đối với Tăng và thành tựu Thánh giới”. Vì vậy, người xuất gia phải có tâm từ bi và chí nguyện hoằng pháp lợi sinh, khiến mọi người cùng thọ dụng lợi ích vô biên của Tam Bảo, xây dựng một nếp sống an lạc, hạnh phúc trên nền tảng chánh pháp.

Tăng sinh khi hoàn tất chương trình học tập nên chí nguyện đem chánh pháp về lại vùng sâu vùng xa cho những người mới tìm hiểu đạo để người người nơi đây được hưởng pháp lạc vô biên của Đức Phật và đem lại hạnh phúc an lạc trong đời sống của mọi người.

Việc cần làm ta nên làm, để tỏ lòng báo đáp bốn ân của người đệ tử Phật với chí xuất trần thượng sĩ để xứng với ngôi Tam Bảo quí báu.

Hãy đem ánh sáng trí tuệ siêu việt của chánh pháp để xoá tan khói u tối của những con người lầm mê mà đem họ về chỗ sáng an lành giải thoát.

Hoang mang giữa quảng đêm trường

Nhờ đèn Tam Bảo soi đường chúng sanh

Nhằm trang bị cho mình có ít hành trang để tiến bước trên con đường hoằng pháp và hội nhập. Tăng sinh qua nhiều ngày đêm suy nghĩ, tham khảo, tìm tòi, đã tạm tìm ra được một số biện pháp, vừa là để dùng cho mình khi thực hiện chí nguyện độ sanh, vừa mong muốn là có thể dùng làm tài liệu tham khảo, mang lại chút lợi ích cho những ai có ý nguyện hoằng pháp vùng sâu vùng xa. Mong rằng những tâm huyết trên đây của tăng sinh góp được phần nào vào sự nghiệp hoằng dương chánh pháp.

Nguồn: dentutraitim.com

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 565)
Bồ tát Quán Thế Âm, hình ảnh thân thiết gần gũi đối với mọi tầng lớp quần chúng, nhất là những người Á Đông. Nhiều người chưa quy y Tam Bảo, chưa trở thành Phật tử chính thức cũng thường xưng niệm danh hiệu và thỉnh tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ tát để phụng thờ ...
08/04/2013(Xem: 540)
Nói đến Phật giáo chúng ta không thể không nói đến Phật giáo thời Lý – Trần. Đây là thời kỳ mà có thể cho là cục thịnh nhất trong quá trình Phật giáo tồn tại ở Việt Nam. Song song với sự phát triển của Phật giáo thời bấy giờ, nền văn học Việt Nam cũng được khơi nguồn từ đó.
08/04/2013(Xem: 582)
“Thất niệm là bóng đêm Chánh niệm là ánh sáng Đưa tỉnh thức trở về Cho thế gian tỏ rạng”. Thiền sư Nhất Hạnh Chánh niệm là một pháp vô cùng quan trọng. Như ánh sáng xoá tan màn đêm u ám, đem lại sự tỏ rạng cho thế gian, cũng vậy ...
08/04/2013(Xem: 557)
Sinh ra trong cuộc đời, hầu như ai cũng muốn phấn đấu để đạt được cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc trong cuộc sống đời thừơng không gì khác hơn những nhu cầu về cuộc sống vật chất hay những địa vị quan trong xã hội, gia đình mạnh khỏe bình yên …
08/04/2013(Xem: 456)
Hai khát vọng thống thiết nhất của con người là hạnh phúc và chân lý. Lịch sử của nhân loại là lịch sử đi tìm kiếm hai đối tượng đó. Chúng ta sống trên hành tinh này với mục đích duy nhất là đem lại hạnh phúc cho mình và cho người, chứ không phải để gieo rắc tang tóc và đau khổ cho nhau.
08/04/2013(Xem: 441)
Dục lạc và phương pháp thoát ly dục lạc là đề tài được nói đến rất nhiều trong kinh tạng Pàli. Rất nhiều bản kinh, đoạn kinh và câu kinh thuộc kinh tạng Pàli đề cập vấn đề này. Đức Phật từng nếm trải lạc thú thế gian, hiểu rõ vị ngọt ...
08/04/2013(Xem: 515)
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta tự hào với 4000 năm văn hiến, với truyền thống hào hùng cha truyền con nối, chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi. Ngược dòng thời gian, từ đêm mờ quá khứ, ông cha ta đã đổ bao xương máu dựng xây đất nước, bằng vào khả năng trí tuệ của chính mình với một nền văn hóa dân tộc đầy tính tự chủ.
08/04/2013(Xem: 693)
Bốn năm qua tại trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam chúng con đã được ban Giám Hiệu, Chư Tôn Ðức và chư vị giảng sư trong Ban Giảng Huấn với tất cả thiện tâm thiện chí, đã tân tụy truyền trao kiến thức cho hàng hậu học chúng con. Trí tuệ chúng con ngày thêm tỏa sáng thì công ơn của chư vị ân sư càng thêm sâu nặng chẳng biết bao giờ có thể đền đáp được.
08/04/2013(Xem: 488)
Từ xưa đến nay, khi nhận thức của nhân loại phát triển thì những vấn đề lớn của con người được đặt ra. Sống trong kiếp người với bao ưu phiền, khổ lụy, người ta luôn khao khát tìm ra một lẽ sống thích hợp để được an vui, hạnh phúc hơn. Rất nhiều nhà tư tưởng, trí thức của xã hội đã đưa ra những học thuyết, lý luận, cách sống tiến bộ, khoa học nhằm giúp ích cho con người.
08/04/2013(Xem: 477)
Thật là diễm phúc thay! Hạnh phúc thay! Một niềm sung sướng mà nhân loại cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ đã được đón nhận một bậc vĩ nhân giáng sanh vì đại nguyện: “Ta ra đời vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567