Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần nhập thế của các vị thiền sư thời Lý -Trần,

08/04/201318:26(Xem: 466)
Tinh thần nhập thế của các vị thiền sư thời Lý -Trần,

Luận văn tốt nghiệp

TINH THẦN NHẬP THẾ CỦA CÁC VỊ THIỀN SƯ THỜI LÝ – TRẦN

Thích Nữ Nguyên Hiếu

DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời vì một đại sự nhân duyên “KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT TRI KIẾN CHO CHÚNG SANH” – Ngọn đuốc trí tuệ đó Đức Phật đã thắp lên từ hơn 25 thế kỷ qua vẫn tiếp tục soi sáng cho chúng ta ngày nay. Để tiếp nối hạnh nguyện cao cả của Đức Phật, các Thiền sư thời Lý – Trần đã sống và hành động theo lời dạy của Đức Phật:

“ Này chư Tỳ Kheo ! Hãy du hành vì lợi ích, vì an lạc, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người”. Đồng thời, các Thiền sư đã cụ thể hóa lời dạy của Đức Phật trong đời sống. Các Ngài đã đến với cuộc đời một cách tự tại, vì lợi ích cho đất nước, cho con người, không vì vụ lợi riêng tư mà bằng tinh thần “Vô ngã vị tha”, kết hợp với tinh thần nhân bản, bằng giáo lý tư,ụ bi, hỷ, xả, hài hoà tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc, làm nên một tư tưởng sống “phụng sự” đạo pháp – dân tộc và chúng sanh.

Ngày nay, cách buổi đầu Thời Lý – Trần hàng ngàn năm, bài học khách quan lịch sử đã khắc họa đậm nét hình ảnh nhập thế của các vị Thiền sư thời Lý – Trần, những hình ảnh đó không còn hạn cuộc bởi không gian, thời gian. Tất cả đã trở thành “những ngôi sao sáng” trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, trong lòng con người Việt Nam đã qua, hiện tại và mãi về sau.

Vì vậy, bất cứ người Việt nào, khi đọc lại những trang sử nước nhà, không ai không tự hào về đất nước mình – đất nước đã sản sinh ra những vị Thiền sư, hy sinh lợi ích cá nhân, hòa nhập vào lợi ích chung của đất nước, sẵn sàng xả thân khi đất nước lâm nguy. Và khi xong việc, các Ngài thong dong tự tại quay gót trở về với núi rừng sơn thủy, chọn am tranh làm chốn tu hành. Song, ở nơi đây, những con người ấy không chỉ chuyên lo tu Thiền mà lại một lần nữa các vị đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học Việt Nam, với những áng thơ Thiền bất hủ. Vì thế, có thể nói mỗi Thiền sư là một thi nhân. Thông qua tác phẩm của mình, các vị đã gởi gấm tâm tư, những trải nghiệm qúy báu trong qúa trình tu tập.

Hình ảnh các vị Thiền sư đi vào đời, đi vào lòng người thể hiện trọn vẹn tinh thần “VÔ NGÃ – TÙY DUYÊN – HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN” như những đóa hoa sen thơm ngát giữa bùn lầy mà không bị bùn nhơ làm ô nhiễm.

Bằng những nét phác họa đại cương vừa nêu, người viết một lần nữa mong muốn được ngưỡng vọng hình ảnh sáng ngời, không bao giờ phai của các vị Thiền sư thời Lý – Trần. Đây cũng là lý do, mục đích, người viết chọn đề tài “TINH THẦN NHẬP THẾ CỦA CÁC VỊ THIỀN SƯ THỜI LÝ – TRẦN” cho luận văn tốt nghiệp của mình.

2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

Các tác phẩm thơ văn Lý – Trần của Viện văn học, Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Lịch Sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thác, Việt Nam Phật giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Thiền Sư Việt Nam của HT.Thích Thanh Từ, Thiền Học đời Trần của Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (in 1995)... đều ít nhiều có đề cập đến đời sống tu tập, công hạnh hành đạo, phụng sự chúng sanh, phục vụ dân tộc hoặc sáng tác thơ Thiền của các Thiền sư. Tất cả những tác phẩm trên đều giúp chúng ta biết qua hành trạng của các Thiền sư. Đặc biệt là các Thiền sư có vị trí trong xã hội và nổi tiếng trong giới thiền môn.

Ngoài ra, còn có một số giáo trình lịch sử văn học của các trường Đại Học Tổng Hợp, Đại Học Sư Phạm Hà Nội do Nhà Xuất Bản Giáo Dục Ấn Hành để làm tài liệu giảng dạy tại các Trường Đại Học có đề cập một số nét khái quát liên quan đến thơ Thiền thời Lý – Trần và trong “Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt nam Thế Kỷ X – XIV” (Đoàn Thị Thu Vân – Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học và Nhà Xuất Bản Văn Học – 1996), về mặt phương pháp nghiên cứu, tác giả đã cung cấp cho chúng ta tài liệu để biết về hành trạng, tinh thần nhập thế của các Thiền sư Lý – Trần. Tài liệu này giúp người viết phát hiện được cái độc đáo của Thiền Lý – Trần: “Đối với Thiền, trước hết phải làm quen với cung cách vô ngôn – tâm truyền – đốn ngộ của Thiền, để sau đó dùng kinh nghiệm và cảm nhận tác phẩm trước khi hệ thống hóa nó lại, để đi đến tìm ra một số quy luật được xem như là chìa khóa giải mã . . .” (Sđd).

Những ý kiến trên phần nào giúp người viết nhận rõ hơn và quyết định đi vào nghiên cứu. Đạo Phật là tôn giáo của niền tin, nhưng không phải là niềm tin ở Thượng đế mà là niềm tin ở con người, nên đạo Phật lấy con người làm đối tượng nghiên cứu và phục vụ. Đặt sự tồn tại của mình bằng trí tuệ biết phán xét phải trái, bằng trái tim biết yêu thương đồng lọai, bằng ý chí biết vươn tới cái đẹp và trong mối tương quan mật thiết với sự tồn tại của xã hội loài người. Hành trạng của các Thiền sư thời Lý – Trần đã thể hiện trọn vẹn tinh thần nầy. Vì thế, bản thân người viết nghĩ, mình là kẻ hậu học phải có bổn phận đóng góp, dù một phần nhỏ nhoi, khiêm tốn và chắc chắn còn nhiều hạn chế về việc làm này.

3. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Xét về mặt Lịch sử, người viết xin đi vào nghiên cứu những tác phẩm đặc sắc của các vị Thiền sư tiêu biểu thời Lý – Trần. Triều Lý người viết sẽ đề cập đến những tác phẩm nói về hành trạng của một số Thiền sư tiêu biểu như Thiền sư Pháp Thuận (914 – 990), thuộc thế hệ thứ 10 dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thiền sư Vạn Hạnh (? – 1018), thuộc thế hệ thứ 12 dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Thiền sư Ngô Chân Lưu (933 – 1011), thuộc thế hệ thứ 5 dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Đến Triều Trần, người viết xin nói về tinh thần nhập thế của một số Thiền Sư như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ và kết thúc ở những tác phẩm của Thiền sư Huyền Quang (1254 – 1334), Đệ Tam Tổ Thiền Phái Trúc Lâm – một nhà thơ lớn trong giới Thiền sư chẳng những thời Trần mà cho đến ngày nay.

Thâm nhập tư tưởng Thiền, phong cách sống của các vị Thiền sư luôn thể hiện những hình ảnh siêu thoát. Vì vậy, tinh thần nhập thế của các Ngài thể hiện trong nhiều lĩnh vực. Song, trong khuôn khổ của một luận văn và trong điều kiện bản thân, người viết không thể giới thiệu hết những hành trạng của tất cả các Thiền sư thời Lý – Trần. Do đó, người viết xin đề cập đến những tác phẩm có giá trị tư tưởng và có tính chất Thiền học – Phật học của các Thiền sư tiêu biểu. Đáng quan tâm hơn là những giá trị tư tưởng đó thể hiện tính tích cực nhằm phục vụ lợi ích cho dân tộc và nhân loại.

Vì muốn tìm hiểu tinh thần nhập thế của các Thiền sư thời Lý – Trần và để tìm cái hay, cái đẹp, cái cao cả trong tinh thần nhập thế của các Ngài đối với dân, với nước, người viết sử dụng phương pháp khảo sát, so sánh, thi pháp học, tìm hiểu một cách tổng quát những tác phẩm mang đậm tư tưởng Thiền, cùng những bài Thi kệ của các vị Thiền sư.

Tuy nhiên, với chủ đề qúa rộng lớn mà số trang hạn hẹp và kiến thức còn thô thiển nên người viết không thể nào trình bày hết những đóng góp lớn lao của các vị Thiền sư thời Lý – Trần. Chỉ xin góp phần nhỏ bé của mình vào vườn hoa đạo lý, để cho hoa đạo Pháp luôn thơm mãi cho đời.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN

1.1. PHẬT GIÁO THỜI DU NHẬP.

Đạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch. Như chúng ta biết: Việt Nam nằm trong bán đảo Indochina (Đông Dương), là cái gạch nối địa lý giữa hai nước Ấn Độ và Trung Hoa. Vì thế, Việt Nam tất nhiên chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh cổ xưa Ấn Độ và Trung Hoa.

Từ thời xa xưa trước Công nguyên, thương nhân Ấn Độ đã giao thương với các nước Phương Tây và để có đủ hàng cung cấp cho họ, thương nhân Ấn Độ giong thuyền theo gió mùa Tây Nam đi về phía Đông Nam Á, đến Mã Lai, quần đảo Nam Dương, vượt eo biển Malacca vào biển Đông, đến Việt Nam rồi đến Trung Hoa, Nhật Bản.

Theo cuốn “Cổ sử các nước Ấn Độ hóa ở Viễn Đông” ( Histoire ancienne des états hindouisés d’Extrême Orient – 1944, p.23 của G. GOEDES) và cuốn Roman coins found in INDIA – 1904 P. 559 – 683 của R. Sewedl, trong những năm đầu của Công nguyên, các thương nhân của Ấn Độ qua miền Viễn Đông để mua các thứ gia vị, hương liệu, gỗ, trầm hương, vàng v.v…. Đạo Phật đã theo những đoàn khách buôn, bằng ngã đường thủy băng qua Srilanka, Java, Indonésia và Trung Quốc. Ở những địa phương nào mà thương nhân ghé lại, nơi thừa tự được thiết lập để nguyện cầu bình an, may mắn. Từ đó, tư tưởng tôn giáo được gieo rắc cho nhân dân địa phương. Như vậy, Phật giáo Việt Nam đã có từ đầu kỷ nguyên Tây Lịch. [35, 35]

Còn nhiều sử liệu khác cho biết đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam rất sớm, sớm hơn Trung Quốc rất nhiều. Như theo Thiền Uyển Tập Anh, một tác phẩm được hoàn thành vào đời Trần, trong đó có Thiền sư Thông Biện viết về Thái Hậu Linh Nhân (Ỷ Lan), mẹ vua Lý Nhân Tông có hỏi Thiền sư về đạo Phật vào Việt Nam từ lúc nào? Thiền sư tâu với Thái Hậu chuyện Đàm Thiên Pháp sư, người Trung quốc, trả lời vua Tùy Cao Tổ là Tùy Văn Đế về Phật giáo ở Giao Châu. Ngay từ khi mới lên ngôi, nhà vua đã báo ân Phật bằng cách hỗ trợ Tam Bảo khắp nơi. … Nhà vua đã xây tháp thờ xá lợi Phật, với 49 tháp, xây 150 ngôi chùa. Để thêm phước đức, lợi lạc quần sinh, nhà vua ngỏ ý với Pháp sư Đàm Thiên, muốn làm chùa tháp ở Giao Châu, nhưng qúa xa xôi. Vua nói rằng: “Xứ Giao Châu tuy nội thuộc, nhưng chỉ là một xứ bị ràng buộc mà thôi. Vậy ta nên chọn các Sa môn có danh đức, sai sang để giảng hóa. May chi sẽ làm cho tất cả nhân dân được phép Bồ Đề”. [9, 414] Pháp sư bèn tâu với nhà vua là xứ Giao Châu có đường thông với Thiên Trúc. Do đó, khi Phật pháp đến Giang Đông chưa đầy đủ, thủ đô Giao Châu đã có đến 20 ngôi chùa, có hơn 500 vị Tăng, kinh đã dịch được 15 cuốn. Như thế cho thấy Phật giáo truyền đến Giao Châu trước khi truyền đến Trung Quốc.

Căn cứ vào các sách: “Hậu Hán Thư”; “Pháp Vụ Thực Lục”; “Lý Hoặc Luận” đều cho thấy sinh hoạt Phật giáo bắt đầu có ở Việt Nam từ đầu kỷ nguyên Tây Lịch, do các khách buôn hàng hải gieo rắc. Rồi thực sự có các nhà sư theo thuyền buôn đến truyền đạo vào thế kỷ thứ II và đầu thế kỷ thứ III, bằng cả hai con đường thủy và bộ. Vào các thế kỷ đầu tại Giao Châu, Phật giáo đã có một trung tâm lớn tại Luy Lâu, một trong ba trung tâm lớn dưới thời Hậu Hán.

Ngoài ra, sự truyền bá Phật giáo đến Việt Nam không phải xảy ra trong một lúc, mà là liên tục trong nhiều thời điểm, từ đầu Công nguyên cho đến các thế kỷ về sau. Công lao lúc đầu là thuộc về người Ấn Độ và người Trung Á, sau đó là người Trung Hoa và có cả người Việt Nam đã sang Ấn Độ hoặc Trung Hoa học thêm đạo Phật để về giảng lại cho người nước mình. Như vậy người Việt Nam phải tự mình ra đi để tự mình tìm đạo Phật về truyền lại cho chính dân tộc mình, chứ đạo Phật mà người Ấn Độ, người Trung Á, hay người Trung Hoa mang sang, chưa làm họ hài lòng. Và hơn nữa, họ cũng muốn biết Phật giáo ở đất Tổ ra sao, xã hội và con người dưới tín ngưỡng Phật giáo thể hiện như thế nào. Họ chú ý tìm hiểu, nghiên cứu, học tập và đã đạt tới trình độ uyên thâm như Đại Thặng Đăng – Ông này đã sáng tác bộ “Duyên Sinh Luận”. Tất cả những người ra đi đều có ý thức đi là để trở về quê hương, bản quán. Người nào trở về được thì đã đem những kiến thức thu lượm được đàm đạo với những Tăng Ni quen biết và những quần chúng Phật tử gần mình. Việc đó đã làm cho người bản xứ có cái nhìn rộng thoáng đối với đạo Phật, góp phần tạo nên sắc thái riêng của bản xứ.

Song, sự truyền bá Phật giáo đến Việt Nam còn được tiếp nối mãi về sau, còn diễn ra ở cuối thời kỳ Bắc thuộc và cả thời kỳ độc lập, chỉ có điều là hướng du nhập được thay đổi. Hướng Tây Nam trực tiếp từ Ấn Độ sang trong buổi đầu được thay thế bằng hướng Bắc xuống. Do đó các Tông phái Thiền Tông ở Trung Quốc lần lượt được đưa vào. Cuối thời kỳ Bắc thuộc là Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông. Và đến thời kỳ độc lập là các Thiền phái Thảo Đường, Lâm Tế, Tào Động v.v… Hướng Ấn Độ sang không còn vai trò nữa, vì xã hội Việt Nam sau này có những nét chung với xã hội Trung Quốc nên dễ tiếp thu nền văn hóa Trung Quốc, trong đó có tín ngưỡng. Và cũng vì ở Ấn Độ sau này Ấn Độ giáo và Hồi giáo thống trị .

Việc truyền bá với nhiều hướng khác nhau, nhiều thời điểm khác nhau, nhiều Tông phái khác nhau, tình hình đó đã để lại dấu ấn trong các giai đoạn phát triển của Phật giáo Việt Nam. Rõ ràng đó là một trong những cơ sở tạo nên đặc thù của lịch sử Phật giáo Việt Nam. [13, 25-26]

Tóm lại, Phật giáo du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ thứ I Tây Lịch, bằng con đường thủy, do các vị sư Ấn Độ trực tiếp truyền vào. Với nguồn giáo lý phong phú Phật giáo đi vào nước Việt Nam như là nước đi vào đất khô hạn, Phật, Bồ Tát đi vào trong dân tộc Việt Nam như người cha hiền, mẹ hiền, thầy và bạn hiền; chùa chiền hòa mình vào làng mạc, chợ búa, thành chùa làng, chùa chợ,… “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. [4, 21]

1.2. PHẬT GIÁO THỜI LÝ – TRẦN.

Phật giáo có mặt ở Việt Nam trong hơn 20 thế kỷ qua đã có một vai trò, một vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc bằng sự nhập thế sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý – Trần Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Lúc bấy giờ, cả nước từ vua, quan đến thứ dân đều theo Phật, đến chùa quy y, giữ giới, tụng kinh, Thiền định nên mới có được một tinh thần an lạc, hòa hợp và thuần từ.

Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý – Trần đã chinh phục trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một cuộc sống hòa hợp, giản dị nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng. Vì thế cả hai triều đại Lý – Trần đều tồn tại khá lâu. Triều Lý hơn 200 năm (1010 – 1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226 – 1400). Như vậy, hai triều đại Lý – Trần tồn tại gần 400 năm. Có thể nói đây là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Các vua thời đại Lý – Trần được thừa hưởng những thành qủa tốt đẹp của thế hệ trước, đồng thời biết phát huy những tinh hoa gạn lọc được từ bên ngoài biến thể sao cho phù hợp với quốc dân thủy thổ mà không đánh mất bản sắc dân tộc. Thêm vào đó, họ đã thấm nhuần lời chỉ bảo của Thiền sư Pháp Thuận:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô cư như điện các

Xứ xứ tức đao binh

Dịch:

Vận nước như giây quấn,

Trời Nam ôm thái bình.

Đạo đức ngự cung điện

Muôn xứ hết đao binh. [35, 192]

Muốn đất nước thái bình, thịnh trị. Chính nơi bản thân các vua đã tự trau dồi bằng đạo đức vị tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật. Các vua không ngừng học hỏi, tu tập cho đến khi thấu rõ giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép kín mà phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống đúng. Một đời sống hướng thượng, hướng con người đến chân – thiện – mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời sống thực tại này chứ không phải nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc Việt Nam đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng thuần khiết của bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng. Đây chính là nguyên nhân làm cho triều đại Lý – Trần phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với những chiến công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. … Chính đạo Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một quan niệm, một lối sống tích cực, hữu ích cho con người và cho cuộc sống.

Lật lại trang sử nước nhà, vào năm 938, sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, dân ta thoát khỏi ách đô hộ hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Giành lại chủ quyền chưa được bao lâu thì trong nước có loạn. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, thống nhất giang sơn thu về một mối, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Tuy tình hình trong nước lúc bấy giờ còn lộn xộn, nhiều người quen thói lúc loạn không tuân theo luật lệ. Vua quan bên trong lo dập tắt các mầm loạn, bên ngoài lo bang giao với nhà Tống thì đâu có thời gian xây dựng đất nước. Luật pháp chưa nghiêm ngặt, hình phạt nặng nề như vạc dầu hay cho hổ báo ăn thịt dành cho những tên gian ác, âm mưu tạo phản, còn đối với người dân thì không bó buộc lắm, thuế má cũng không đóng, việc đi lại dễ dàng khiến người dân cảm thấy thỏa mái.

Đến khi Lê Hoàn lên ngôi cũng như bao vị hoàng đế trước luôn coi nhà Tống là Thiên triều, vua Tống là Thiên Tử. Vốn là Võ tướng khí phách hào hùng, dẫu được phong tước là báu vật của thiên triều nhưng ông không chịu khom lưng. Vì vậy, ông đặt ra pháp luật rất nghiêm minh. Thêm vào đó, Lê Hoàn chia đất cho 12 con trai của mình cai trị, đến năm 1005 Lê Hoàn mất, ngay sau đó, một cuộc chém giết kinh hoàng để tranh giành ngôi báu diễn ra giữa các con của Lê Hoàn. Lê Long Tích bị giết ở Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh), Lê Long Kích bị giết ở Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Tỉnh Hưng Yên), Lê Long Việt giành ngôi mới được ba ngày cũng bị giết hại ngay tại Hoa Lư. … Cuối cùng, Lê Long Đĩnh đã chiếm giữ được ngôi.

Lê Long Đĩnh là con trai thứ năm của Lê Hoàn, sinh năm 986, giết anh ruột Lê Long Việt để giành ngôi vào cuối năm 1005, năm Lê Long Đĩnh vừa mới được 19 tuổi. Với lịch sử, Lê Long Đĩnh là một vết nhơ, hơn thế nữa, còn thực sự là một đại họa. Quốc Sử Việt thời Hậu Lê nhận xét: “Ngọa Triều làm việc càn rỡ, giết anh để giành ngôi, hoang dâm và tàn bạo, muốn tránh việc mất nước cũng chẳng thể được”. [5, 26]

Nhận thấy vận nước đang ngàn cân treo sợi tóc. Vạn Hạnh Thiền sư vì dân vì nước muốn cứu quốc khỏi lâm nguy nên đã làm một cuộc đảo chính năm 1009 phế Lê lập Lý mở ra một trang sử mới cho triều đại nhà Lý. Lời nhận xét của Hoàng Xuân Hãn là một minh chứng triều đại nhà Lý vững chắc và thịnh vượng ngự trị trên 200 năm thực thi nhờ tinh thần Phật giáo: “Sau các đời vua hung hãn họ Đinh – Lê, ta thấy xuất hiện ra những người cầm quyền có lòng độ lượng khoan dung, những cận thần đức độ trung thành. Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta”. [9, 429] Như vậy, Phật giáo đời Lý đã un đúc nên những ông vua Phật Tử thuần thành.

Hơn thế nữa, Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng làm cầu nối cho Phật giáo đời Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để khẳng định quyền tự chủ tự cường của một đất nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình, hạnh phúc của mình. Và Phật giáo Lý – Trần đã đáp ứng nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước. Chiến công hiển hách còn ghi lại trong lịch sử. Nếu Lý Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi bình được Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống thì Trần Thái Tông cũng thu phục được đất Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang này dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương.

Xưa nay, các bậc đế vương thâu phục giang sơn bằng con đường gươm đao, chế ngự dân bằng quyền hành, bạo lực. Còn thời đại Lý – Trần thì khác, lên ngôi vua không hề có một giọt máu rơi, quần thần trong triều đình đều nhất trí và cũng không nghe dân tình than oán. Sức mạnh nào đã tạo nên một quốc gia hưng thịnh hùng cường, có phải chăng chính đức từ, bi, hỷ, xả của nhà Phật đã thấm nhuần từ vua quan cho đến thứ dân.

Các ông vua thời Lý – Trần đã dùng chính sách trị dân có tính khoan hồng kết hợp pháp trị với đức trị. Như chúng ta thấy, sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, là một Phật tử thuần thành, ông liền ra lệnh hủy bỏ hết mọi hình cụ trong ngục và cho xây dựng nhiều chùa mới trong nước. Lý Thánh Tông, vị vua thứ 3 nhà Lý, nổi tiếng là một ông vua nhân từ. Một hôm thiết triều, ông chỉ vào công chúa Động Thiên đứng cạnh mà bảo các quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân như yêu con trẫm vậy. Hiềm vì trăm họ làm càng cho nên phải tội, trẫm lấy làm thương lắm, vậy từ nay về sau tội gì cũng giảm bớt đi …”

Nói chung, các ông vua Phật tử thuần thành đời Lý và đời Trần đều có tấm lòng thương yêu dân như vậy là nhờ thấm nhuần tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã vị tha của đạo Phật. Đường lối lấy đức trị dân của hai triều đại Lý – Trần đã minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của dân tộc Việt Nam.

Song, điểm đặc sắc của hai triều đại Phật giáo Lý – Trần là ngoài những ông vua Phật tử thuần thành, còn có những ông vua kiêm Thiền sư, kiêm là những nhà Phật học uyên bác, viết sách, giảng kinh, không khác gì các cao Tăng thạc đức. Có thể kể Lý Thái Tông, học trò đắc pháp của Thiền sư Thiền Lão, và được dự vào hàng Tổ thứ 7 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Lý Thánh Tông được tuyền thừa làm Tổ thứ 2 của Phái Thiền Thảo Đường, và đặc biệt là hai ông vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông là một trong những ngôi sao sáng của Phật giáo thời đó. Vua Trần Thái Tông là tác giả cuốn Khóa Hư Lục, một tác phẩm Phật giáo viết bằng chữ Hán Nôm, đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản nhiều lần. Cuốn sách chứa nhiều tư tưởng độc đáo. Thí dụ, tư tưởng xem mọi người đều là Phật, đều là những vị Phật sống mà không tự biết. Ông viết trong bài Niệm Phật Luận: “Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng”. Lại viết tiếp: “Tướng Phật là tướng ta không phải hai, lặng vậy mà thường tồn tại, tồn tại mà không biết. Đó là Phật sống vậy”. Người là Phật, nhưng người lại không tự biết, cho nên Trần Thái Tông gọi người là Phật sống.

Và điểm nổi bật của Phật giáo Lý – Trần là nó cung cấp một triết lý sống, chứ không phải là những tín điều chết, các Phật tử Lý – Trần đã quán triệt, đã thực hiện triết lý đó bằng cả cuộc sống của chính mìmh. Đạo Phật đời Lý – Trần không chấp tướng, không giáo điều, không vướng mắc vào hình thức, không bó hẹp trong chùa chiền, tu viện, càng không phải là sở hữu riêng của giới Tăng, Ni mà là của tất cả mọi người biết lấy nó làm lẽ sống, dù người đó là vua chúa, Thiền sư, quan lại, hay là người dân bình thường. Ai cũng học và tu đạo Phật được, ở đâu, làm gì cũng học và tu theo đạo Phật được, miễn là biết nhìn rõ tâm mình, chuyển hóa tâm và sử dụng tâm cho tốt. Trong “Khóa Hư Lục”, Trần Thái Tông gọi đó là biện tâm, Trần Thái Tông viết: “Không kể là sống ẩn trên núi hay giữa thành thị, không phân biệt tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều chủ yếu là biện tâm, vốn không có phân biệt nam nữ sao còn chấp tướng”. Vì không chấp tướng nên Phật giáo đời Trần mới có được một nhân vật đặc biệt như Tuệ Trung Thượng Sĩ, tuy là một cư sĩ tại gia, nhưng lại được mọi người Tăng cũng như tục tôn kính, học hỏi như là một bậc Thầy lớn trong đạo. Thậm chí Trần Nhân Tông và Pháp Loa là hai vị Tổ thứ nhất và thứ hai của Phái Thiền Trúc Lâm cũng suy tôn Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy của mình. Với tinh thần không chấp tướng, vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia, đã không quản gian khổ nhọc nhằn, đi khắp nơi trong nước khuyên mọi người sống theo năm giới, mười thiện là những nguyên lý căn bản của Đạo Đức Phật giáo. Nhờ vậy, ngay giữa lòng của xã hội Phong kiến, đạo Phật đời Lý – Trần đã tạo ra những mẫu người tuyệt vời, mà con người ở vào thời đại nào cũng cảm thấy tự hào. [4, 109 -110]

Đạo Phật thời Lý – Trần là đạo Phật của từ bi và trí tuệ, là hai đức hạnh hàng đầu của Phật giáo. Tinh thần từ bi của Phật giáo thời Lý – Trần là đường lối trị nước bằng đức trị còn hạnh trí tuệ là nó không hướng đến giải quyết các vấn đề thuần túy lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng ta có thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ, mà hướng tới giải quyết các vấn đề rất cụ thể, rất bức xúc, có tầm quan trọng đối với đời sống con người và trong công cuộc xây dựng đất nước như cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Để đánh thắng một kẻ thù có sức mạnh về vật chất và quân sự gấp hàng trăm lần chúng ta, dân quân ta dưới sự lãnh đạo của các ông vua Phật tử đã áp dụng những đường lối chiến lược và chiến thuật đầy trí tuệ, cho phép triển khai mọi ưu thế của một cuộc chiến tranh nhân dân, đánh địch ngay trên đất nước của mình.

Hai triều đại Lý – Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập Phật giáo vào giòng sống của đất nước và xã hội Việt Nam. Một sự hội nhập được trải dài trên mọi bình diện của đời sống. Phật giáo thời Lý – Trần đã hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự chủ, có đủ sức mạnh tự thân để đánh đuổi mọi cuộc xâm lăng của ngoại ban.

Tóm lại, tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo Lý – Trần chính là ở chỗ luôn luôn chủ động gạn lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung, cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Lý – Trần trong những thế kỷ đầu xây dựng nền độc lập, tự chủ. Qủa thật, Phật giáo thời đại Lý – Trần đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền độc lập quốc gia trong lịch sử nước nhà. Các vua trị vì đã thực sự thấm nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì không sợ gì sẽ bại vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp phần tích cực vào sự tồn tại lâu dài của hai triều đại Lý – Trần.

CHƯƠNG 2: 
THIỀN TÔNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN.

Phật giáo Việt Nam có nguồn gốc xuất phát từ Ấn Độ và một nguồn khác từ Trung Hoa. Do vậy, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều ở cả Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa. Từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ V, tuy Phật giáo đã hiện hữu trong đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của quần chúng nhân dân, nhưng nó chưa được định hình một cách chắc chắn về mặt tổ chức, nhất là trong sự xây dựng kế thừa và phát triển. Nhưng đến thế kỷ thứ VI khi các dòng Thiền chính thức được truyền vào Việt Nam đã tạo thành những dòng Thiền cá biệt tiêu biểu cho sức sống của đạo Phật Việt Nam.

2.1. CÁC DÒNG THIỀN TIÊU BIỂU.

Thiền Tông được truyền vào Việt Nam, nó đã tác động một cách sâu sắc, tự nhiên và cần thiết vào lòng dân tộc Việt Nam như không khí, như hơi thở, như nước thẩm sâu trong lòng đất. Gồm các dòng Thiền tiêu biểu sau đây:

2.1.1. Dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi.

Vào cuối đời Hậu Lý Nam Đế, năm 580, Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từ Ấn Độ sang Trung Hoa rồi đến Việt Nam lập phái Thiền thứ nhất. Từ đó, Phật giáo Việt Nam mới thực sự có đầu mối truyền thừa.

Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi là sơ Tổ Thiền tông Việt Nam, Ngài người Thiên Trúc, dòng dõi Bà La Môn. Vì ở Thiên Trúc thiếu duyên nên năm 574 Thiền sư qua Tràng An, Trung Quốc, gặp lúc Phật giáo bị nạn Võ Đế, Thiền sư đến đất Nghiệp, gặp tổ Tăng Xán được ngộ đạo, Tổ bảo nên về phương Nam hóa đạo. Thiền sư đến chùa Chế Chỉ, Quảng Châu dịch kinh Tượng Đầu. Năm 580, đến Việt Nam, ở chùa Pháp Vân dịch kinh Tổng Trì và giảng dạy đạo Thiền. Phật giáo ở đây thịnh hành từ đó.

Trong suốt 7 thế kỷ, từ cuối thế kỷ thứ VI đến cuối thế kỷ thứ XIII, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi trải qua 19 thế hệ truyền thừa, sản sinh trên dưới 40 Thiền sư lỗi lạc nối tiếp nhau hoằng dương Chánh pháp.

Như vậy, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi khởi đầu ở Việt Nam vào thế kỷ thứ VI đã tạo một bước ngoặt cho Phật giáo Việt Nam luôn gắn bó với cuộc sống phục vụ đất nước và dân tộc, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi góp phần đào tạo nhân tài cung cấp cho công cuộc vận động độc lập, tự chủ của dân tộc, Vạn Hạnh Thiền sư là linh hồn của dòng Thiền này đã có thái độ ứng xử và hành động của một người thấy xa hiểu rộng, cho những giải đáp thật chính xác như “Nội trong 21 ngày quân Tống phải rút lui” hoặc “phải gấp cất quân đại phá Chiêm Thành ngay, không được bỏ lỡ cơ hội tốt” khi Ngài được các vua Lê hỏi ý kiến. Dù Ngài đã 70 tuổi nhưng thấy nhà Tiền Lê suy, Lê Ngọa Triều tàn ác, hoang dâm vô độ không còn được lòng dân, Sư Vạn Hạnh phải đóng vai chủ động trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua một cách êm thắm, không hề gây chiến tranh. Bước theo con đường Bát Chánh Đạo mà đức Phật đã dạy, Thiền sư Vạn Hạnh đã hành động theo đúng chiều hướng tiến triển của lịch sử, sáng tạo ra lịch sử đúng với quy trình vận động của nó.

Tư tưởng của dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã kết hợp Thiền Tông Ấn Độ với Thiền Tông Trung Hoa để nó ươm mầm trên vùng đất màu mỡ Giao Châu và đã làm nên Thiền Tông Việt Nam vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo, vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nhân dân.

Thế nên, đến đời Lý Thái Tông (1028-1054), nhà vua có làm bài kệ truy tán Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi rằng:

Sáng tự lai Nam quốc

Văn quân cửu tập Thiền.

Ưng khai chư Phật tính

Viễn hợp Nhất tâm nguyên

Hạo hạo Lăng Già nguyệt

Phân phân Bát nhã liên.

Hà thời lâm diện kiến

Tương dữ thoại trùng huyền.

Dịch:

Mở lối qua Nam Việt,

Nghe ông Chỉnh học Thiền

Nguồn tâm thông một mạch

Cõi Phật rộng quanh miền

Lăng Già ngời bóng nguyệt,

Bát nhã nức mùi sen.

Biết được bao giờ gặp

Cùng nhau kể đạo huyền. [22, 77]

2.1.2. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông.

Thiền sư Vô Ngôn Thông, họ Trịnh, sinh quán tại Quảng Châu, sau khi học với Mã Tổ ở Giang Tây, sư về Quảng Châu. Năm 820 sư sang Giao Châu (Việt Nam) ở tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng tỉnh Bắc Ninh và lập ra phái Thiền thứ hai mang tên Ngài là Vô Ngôn Thông.

Thiền phái này mở mang hoằng hóa đến cuối thế kỷ thứ XIII và truyền thừa được 15 thế hệ với 36 vị Thiền sư đắc pháp.

Khi đến Việt Nam Thiền sư Vô Ngôn Thông đã du nhập quy chế sinh hoạt và tu học của các Thiền Viện của Tổ Bách Trượng vào các chùa thuộc môn phái của Ngài. Tinh thần quy chế này đã tạo cho Tăng sĩ tu Thiền một nếp sinh hoạt và tu học thường ngày giúp cho sự định tâm.

Tư tưởng cơ bản của dòng thiền Vô Ngôn Thông là chân lý không phải ở đâu xa, mà ngay ở hiện tiền, ở trong bản thân mỗi người, nhưng chân lý đó chỉ có thể tu chứng trực tiếp, chứ không thể nào nắm bắt qua ngôn ngữ, văn tự, sách vở,… đó là “đốn ngộ”, cũng là tinh thần câu nói rất tiêu biểu cho dòng Thiền Nam Tông Trung Quốc của Thiền sư Bách Trượng: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu”, (nếu đất tâm trống không, mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng). Sau này, Thiền sư Nguyên Học, thuộc thế hệ thứ 10 dòng Thiền Vô Ngôn Thông, đã nói rõ tư tưởng đó trong các câu:

Đạo vô hình tướng,

Xúc mục phi dao.

Tự phản suy cầu,

Mạc cầu tha dắc.

Túng nhiên cầu đắc,

Đắc tức bất chân . . .

Nghĩa là:

Đạo không có hình tượng,

Ở ngay trước mắt, không xa,

Hãy quay lại mình mà tìm,

Chớ tìm ở nơi khác,

Và dù có tìm được,

Thì cái đó cũng không phải chân thật . . .

Khác với Thiền phái Trung Hoa, Thiền phái này, cũng như Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã rất gần gũi với đời sống xã hội, tham dự vào đời sống nhập thế trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình.

2.1.3. Dòng Thiền Thảo Đường.

Gần cuối thập niên 60, Thế Kỷ thứ XI (1069), tại Việt Nam lại xuất hiện phái Thiền Thảo Đường. Mở đầu cho phái này là Thiền sư Thảo Đường. Theo An Nam Chí Lược của Lê Trắc, “Thảo theo sư phụ sang ở Chiêm Thành. Vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành bắt được Sư, cho làm nô của quan Tăng lục. Một hôm Tăng lục viết Ngữ lục, để trên bàn rồi đi ra ngoài, Sư lén xem và sửa chữa lại. Tăng lục lấy làm lạ về tên nô, tâu lên vua. Vua phong sư làm Quốc sư”.[14, 80]

Thiền sư Thảo Đường là người rất có đức hạnh, tinh thông Phật điển. Qua cuộc ứng đối với vua Lý Thánh Tông, Thiền sư đã giải thích kinh sách vô cùng chính xác. Khâm phục tài trí và phong độ của Thảo Đường, vua mời Thiền sư đến trú trì chùa Khai Quốc, trong nội thành Thăng Long và phong làm Quốc sư. Về sau, Thiền sư lập phái Thiền với tên là Thảo Đường. Thiền phái Thảo Đường truyền được 5 đời, với 19 Thiền sư. Song, vì khuynh hướng thiên trọng văn chương và trí thức của Thiền phái nầy, nên nó không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số tri thức có khuynh hướng văn học. Trong số 19 Thiền sư thuộc Thiền phái Thảo Đường được ghi chép ở Thiền Uyển Tập Anh, ta thấy chỉ có 10 vị là người xuất gia, kể cả Thảo Đường, còn 9 vị là cư sĩ mà phần nhiều là vua với quan. Thiền phái Thảo Đường, vì thế được vua Lý Thánh Tông và các đời vua kế tiếp cũng như các quan đại thần trong triều đình nhà Lý đã gắn vun bồi cho dòng Thiền nầy. Tiếc rằng sự truyền thừa của nó không được lâu dài; vì chủ yếu là truyền trong hàng ngũ vua quan nên cuối cùng nó đã bị mai một cùng với sự mất ngôi nhà Lý về tay nhà Trần.

2.1.4. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 939 và đặc biệt sau khi nhà Lý ra đời (1010) nền độc lập nước ta dần dần được củng cố. Đạo Phật ở giai đoạn này cũng khá phát triển và đóng góp một cách tích cực trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nhưng vào thời điểm này, Phật giáo Việt Nam do ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa, cho nên tư tưởng Phật giáo Việt Nam còn mang sắc thái Ấn Độ hay Trung Hoa, hoặc cả hai dung hòa với nhau chứ chưa phải là Phật giáo Việt Nam theo đúng nghĩa của nó. Tình hình này có thể vẫn kéo dài nếu như Trần Nhân Tông không sáng lập ra Phật giáo Trúc Lâm. Kể từ đó Phật giáo Việt Nam mới có diện mạo riêng, cái chất Việt Nam được thực hiện trong tư tưởng, trong tổ chức. Giờ đây, Phật giáo Việt Nam mà tiêu biểu là Phật giáo Trúc Lâm là Phật giáo nhập thế, liên hệ mật thiết với chính trị, phong hóa và xã hội. Đúng như tác giả Mạn Đà La đã nhận định trong bài viết của mình: “Tư tưởng của Trần Nhân Tông là một thể hiện nhất quán của đạo và đời, xuất thế và nhập thế. Vì vậy tinh thần của thiền học Trúc Lâm là một thiền học dân tộc. Nghĩa là một mặt không ngừng phát triển tận cùng khả năng giác ngộ giải thoát để vươn lên đỉnh cao của con người, giác ngộ giải thoát hoàn toàn; mặt khác không ngừng tích cực xây dựng an lành cho chúng sanh bằng cách trước hết phục vụ cho đất nước, dân tộc, những người gần mình và có ân nghĩa trong cuộc sống của mình”. [27, 257-258]

Đối với bản thân Nhân Tông – Điều Ngự, trước sau là một, chẳng bao giờ tách ra làm hai. Khi ở ngôi vua thì là “bậc nhân minh anh vũ” như Ngô Sĩ Liên đã nhận định, chiến công hai lần dẹp giặc ngoài lừng lẫy, trong thì gần tình người, cùng nhau xây dựng đất nước quy cũ, bề thế vững vàng. Ngoài việc nước, có giờ phút nào rảnh rỗi lại trao đổi nghiên cứu học tập Phật lý. Lúc đã là Thiền sư vẫn giúp vua con điều hành “quốc sự”, đồng thời rất có ý thức phát triển Phật giáo, và thành lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền mang sắc thái Việt Nam, gạt bỏ những ảnh hưởng lai tạp từ bên ngoài đưa vào. Đạo và đời, đời và đạo trong con người Nhân Tông – Điều Ngự hòa nhập với nhau rất tự nhiên và Phật giáo đời Trần nhập thế rất rõ nét. [27, 122-123]

Với sức sống và đặc thù của dân tộc Việt Nam bất khuất dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một con người nổi bật trong giới Phật giáo đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ, người được tán tụng như một Thiền sư tuyệt vời trong lớp áo cư sĩ, và cũng chính trí tuệ của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã nun đúc, vun vén trí tuệ cho Trần Nhân Tông đi tu, thống nhất các dòng Thiền, thành lập Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.

Dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử do vua Trần Nhân Tông dựng lên sáng chói đầu thời Trần, nay sắc thái Việt Nam đã được tô luyện qua bước thăng trầm của lịch sử, trên 500 năm từ nội dung, tư tưởng, trí tuệ và con người đều thực sự mang bản sắc Việt Nam.

2.2. PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.

Trang sử Phật

Đồng thời là trang sử Việt.

Trải bao độ hưng suy

Có nguy mà chẳng mất.

Hồ Dzếnh.

Lời của nhà thơ Hồ Dzếnh đã chứng minh cho hậu thế biết rằng đạo Phật đã hiện hữu trên cuộc đời hơn hai thiên niên kỷ và đã du nhập vào Việt Nam trước Công nguyên, hòa nhập vào lòng dân tộc, trải qua bao nhiêu cảnh thăng trầm của lịch sử, chịu đựng biết bao thử thách nghiệt ngã của thời gian mà vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Sự hội nhập Phật giáo vào nền văn hóa Việt Nam là một qúa trình hòa mình của đạo Phật với tư thế là một luồng văn hóa ngoại lai vào nền văn hóa dân tộc Việt. Một qúa trình mà trong đó đạo Phật được dần dần bản địa hóa và trở thành một phần cơ thể văn hóa và xã hội Việt Nam.

2.2.1. Phật giáo Thiền Tông Việt Nam thời Lý – Trần trong quan hệ với văn hóa văn nghệ dân gian.

Lật lại từng trang sử đạo Phật đã làm rạng danh cho lịch sử nước nhà mà đặc biệt là hai triều đại Lý – Trần. Cả hai triều đại này Phật giáo Thiền Tông không chỉ được truyền bá rộng rãi mà còn gây ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn xã hội, đồng thời để lại dấu ấn rất rõ ràng trong đời sống văn hóa Việt Nam thời Lý – Trần.

Qua sử sách, chúng ta được biết, từ xưa chùa chiền không chỉ là nơi diễn ra nghi thức tôn giáo mà còn là nơi bảo lưu văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc với nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian. Các công trình kiến trúc nổi tiếng trong mấy thế kỷ đầu kỷ nguyên tự chủ, tiêu biểu cho nền nghệ thuật thời đại và trở thành những danh thắng, hầu hết đều là chùa chiền. Ở đây, giữa Phật giáo với văn hóa dân gian có mối quan hệ giao lưu gắn bó với nhau .

Truyền thuyết về Man Nương, về Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không trong Lĩnh Nam Chích Quái, truyền thuyết về thần Phù Đổng ở Việt Điện U Linh đều cho thấy rõ sự thâm nhập lẫn nhau giữa Phật giáo và những tín ngưỡng cũng như văn hóa dân gian. Hệ thống Phật Tứ pháp trong truyện Man Nương được nhân dân vùng lúa nước xem như là vị phúc thần để giúp dân được mưa thuận gió hòa, mùa màng phong túc. Ngày hội tắm Phật mùng bốn tháng tư âm lịch hàng năm trong truyện Man Nương cũng chính là ngày nam nữ bốn phương tụ hội về chùa để vui chơi ca múa. Chính sử thời phong kiến như Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Văn bia tháp sùng Thiện Diên Linh do Nguyễn Công Bật viết năm 1121 đều cho biết vua Lý Nhân Tông hàng năm vào mùa xuân đến chùa để cầu phúc và tắm Phật. Trong các lễ lớn được tổ chức tại chùa đều có vua ngự đến, ca hát vui chơi, có cả sư tăng và Phật tử tham gia. Qua đó cho thấy nhà chùa và các lễ hội Phật giáo có liên quan mật thiết với nhau.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời Đinh, Tiền Lê, Lý – Trần chưa có một loại nhạc cung đình riêng biệt với tính chất trang trọng. Mỗi khi có yến tiệc, ăn uống xong, vua quan thường hát múa theo các điệu dân gian: đứng thành vòng tròn, tay người nọ đặt lên vai người kia, chân người nọ dẫm lên chân người kia. …[11] Có được tinh thần phóng khoáng và cởi mở trên có lẽ là nhờ sự kết hợp giữa tính dân chủ của dân tộc và tinh thần bình đẳng, phá chấp của Phật giáo.

Ngoài ra, mối quan hệ giữa Phật giáo Thiền Tông với văn hóa dân gian còn thấy được qua nhiều mặt sinh hoạt trong cuộc sống từ việc chữa bệnh, trừ tà, cầu mưa, cầu gió, cầu an đến những chuyện lớn lao như cầu giúp sức đánh thắng giặc ngọai xâm. … Phật đã thành Bụt trong truyện cổ dân gian tuy ở cõi khác nhưng không cao xa mà rất gần gũi với đời sống con người, luôn ứng hiện để đáp ứng lời cầu cứu và nỗi đau khổ của con người. Trên lý thuyết dường như giữa Phật giáo dân gian và Phật giáo Thiền Tông không có nét chung nào. Nhưng trên thực tế thì những Thiền sư nổi tiếng, có phép thần thông, có thể đi mây về gió cũng là những người xuất phát từ quần chúng, và được quần chúng tin cẩn tín nhiệm. Những Thiền sư nổi tiếng này đồng thời cũng là những người có cung cách sống giản dị, lời kệ, lời giảng pháp của họ có khi uẩn súc, nhưng có khi cũng rất mộc mạc tùy đối tượng đến tham vấn. Chính cái tâm hồn nhiên, cởi mở, bình đẳng, vị tha của các Thiền sư đã làm cho Phật giáo Việt Nam mang màu sắc chung là dung dị, đại chúng.

2.2.2. Phật giáo Thiền Tông Lý – Trần với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phật giáo Việt Nam vốn có truyền thống gắn bó giữa đạo và đời, tham gia tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc. Khi đất nước giành được độc lập tự chủ, chính quyền phong kiến muốn nắm được lực lượng quần chúng là phải dựa vào nhà chùa; để xây dựng và phát triển đất nước. Vì nhà chùa bấy giờ có sức tự lực rất mạnh, tinh thần hòa hợp đoàn kết rất cao được mọi người coi trọng. Các Thiền sư giúp vua xây dựng đất nước như Ngô Chân Lưu được vua Đinh ban hiệu Khuông Việt Đại sư. Theo Thiền Uyển Tập Anh thì bấy giờ “phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều tham dự”. [17, 43]

Trong công tác đối ngoại, triều đình cũng đã dựa vào các nhà sư để đón tiếp sứ giả nước ngoài. Sách Thiền Uyển Tập Anh đã chép việc Thiền sư Khuông Việt cùng Thiền sư Pháp Thuận đại diện triều đình nhà Tiền Lê đón tiếp sứ thần nhà Tống là Lý Giác như sau: “Năm Thiên Phúc thứ bảy (986) sứ giả nhà Tống là Lý Giác sang nước ta, vua nhờ sư thay đổi quần áo, giả làm người cai quản bến đò để xem xét cử động của Giác”. Lúc qua sông, thấy hai con ngỗng đang bơi giữa sông. Lý Giác ngâm đùa:

Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha. 

Nghĩa là:

Song song ngỗng một đôi,

Vươn cổ ngước chân trời.

Sư đang cầm chèo, bước tới đọc tiếp:

Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo bãi thanh ba.

Nghĩa là:

Nước xanh ngời lông trắng,

Sóng biếc chân hồng bơi.

Lý giác thấy vậy lấy làm thán phục”. [17, 180 -181]

Việc xướng họa hai câu thơ trên của Thiền Sư Pháp Thuận đã làm cho sứ giả nhà Tống một phen kinh ngạc “Sư Thuận thi cú, Tống Sứ kinh dị” như sách Đại Việt sử ký toàn thư đã bình.

Và bài thơ “Vương Lang Quy” của Khuông Việt Thiền sư tiễn sứ thần Lý Giác đã thể hiện trọn vẹn tư cách của một công dân yêu nước và cung cách của một vị Đạo sư chân chánh của Phật giáo đối với chúng sanh:

Tường - quang phong hảo cẩm phàm trương,

Thần tiên phục đế hương.

Thiên lý vạn lý thiệp thương lương,

Cửu thiên quy lộ trường.

Nhân tình thảm thiết đối ly trường.

Phan luyến sứ tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị nam cương,

Phân minh tấu ngã hoàng.

Dịch:

Gió hòa phấp-phới chiếc buồm hoa,

Thần tiên trở lại nhà.

Đường muôn nghìn dặm trải phong ba,

Cửa trời nhắm đường xa.

Một chén quan hà dạ thiết tha,

Thương nhớ biết bao là.

Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà

Bày tỏ với vua ta. [22, 111 -112]

Nên khi về nước, Lý Giác có viết một bài thơ tặng lại vua Lê Đại Hành biểu lộ sự kính trọng trong đó có câu:

Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu,

Khê đàm ba tỉnh kiến thiềm thu.

Nghĩa là:

Ngoài trời lại có trời soi nữa,

Sóng lặng khe đầm bóng nguyệt thâu. [30, 203]

khi xem thơ, sư Khuông Việt đã tâu với vua Lê rằng: “sứ Bắc tôn kính bệ hạ chẳng kém gì vua Tống”. [17, 44] Sách Thiền Uyển Tập Anh còn chép rằng: Thiền sư Pháp Thuận rất được vua nể vì nên “thường không gọi thẳng tên thật mà gọi là Đỗ Pháp sư”. [17, 180]

Bài thơ “Quốc Tộ” của Thiền sư Pháp Thuận có thể nói là một trong những tác phẩm sớm nhất trong văn học trung đại Việt Nam (viết khoảng năm 980 – 982), góp phần cắm cái mốc cho cảm hứng yêu nước trong văn chương. Bài thơ là lời đáp của Thiền sư khi trả lời câu hỏi của vua Lê về vận nước:

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Nghĩa là:

Ngôi nước như mây quấn,

Trời Nam mở thái bình.

Vô vi trên điện gác.

Chốn chốn dứt đao binh. [30, 204]

Thiền Sư Vạn Hạnh là người từng được vua Lê Đại Hành tôn kính. Ngài có tài tiên đoán. Năm 980, quân Tống ồ ạt kéo sang xâm lược nước ta, thế giặc lúc này rất hung dữ, nhà vua lo ngại hỏi sư về tình thế, sư bình tĩnh quyết đoán “chỉ trong ba bảy ngày giặc tất phải lui”. [17, 188] Lời tiên đoán ấy quả nhiên là đúng! Lần khác vua Lê muốn cất binh chinh phạt Chiêm Thành nhưng còn do dự, vua hỏi ý, sư khuyên “nên cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ dịp”. [17, 189] Trận ấy quân ta toàn thắng. Khi non sông sạch bóng quân thù, Thiền sư vừa tu tập hành đạo vừa tham gia công việc trị nước yên dân. Cuối đời Tiền Lê, Lê Ngọa Triều tàn ác, bất nhân, sư Vạn Hạnh đã vận động các quan lại triều đình để tôn phò quan Thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Đó là nhờ nhà sư biết được vận nước, biết được nhà Tiền Lê sẽ tiêu vong và nhà Lý sẽ lên thay. Lời nhà sư khuyên Lý Công Uẩn hãy vì nhân dân mà lên ngôi để chấm dứt một chế độ hủ bại, tàn ác gây khổ cho dân chứng tỏ tấm lòng nhà sư luôn hướng về cuộc sống nhân dân và luôn nghĩ về vận mệnh của đất nước: “Kim quán thiên hạ chi tịnh, Lý tối đa, vô như thân vệ khoan từ nhân thứ, phả đắc chúng tâm, nhi chưởng ác binh bính giả, Tông chủ vạn dân, xả Thân vệ, kỳ thùy đương chi ?”(Nay xem trong thiên hạ, người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng Thân vệ, là người khoan từ, nhân thứ lại được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa?) [30, 216] nên khi quần thần đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, thì Thiền sư Vạn Hạnh được vua tôn là Quốc sư. Và để “tính kế lâu dài cho đời sau” nhà vua đã cho dời đô từ Đại La về Thăng Long, theo sự chỉ dẫn của Thiền sư Vạn Hạnh. Vì ảnh hưởng của Ngài rất lớn, nên sau này vua Lý Nhân Tông vẫn còn làm thơ truy tán, ca ngợi:

Vạn Hạnh dung tam tế,

Chân phù cổ sấm thi.

Hương quan danh Cổ pháp,

Trụ tích trấn vương kỳ.

Dịch:

Vạn Hạnh thông ba cõi,

Lời ông nghiệm sấm thi.

Quê hương làng Cổ pháp,

Chống gậy trấn kinh kỳ. [30, 432-433]

Hình ảnh nhà sư chống gậy giữ gìn đất nước đã nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với quốc gia dân tộc, giữa nhà chùa với Tổ quốc. Nhà sư nhập thế giúp đời là một hình ảnh đẹp, chứng tỏ bấy giờ đạo gắn liền với đời và Phật pháp với dân tộc, với đất nước không thể phân ly. Thời ấy, có rất nhiều nhà sư đã có những hành động cao cả, xả thân vì đất nước như thế!

Lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng đối với vua Trần Thái Tông, khi vua bỏ ngôi lên núi cầu làm Phật; mà nhà vua đã ghi trong bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam như sau: “phàm vi nhân quân giả dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm. Kim thiên hạ dục nghinh bệ hạ quy chi, tắc bệ hạ an đắc bất quy tai. Nhiên nội điển chi tham, nguyện bệ hạ mỗi vong tư tu văn”. (Phàm người làm vua lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình. Nay bề tôi muốn rước bệ hạ về thì bệ hạ sao có thể không về được? Song nghiên cứu Phật điển, xin bệ hạ chớ quên điều đó). [34, 114] Lời khuyên ấy thể hiện ý nghĩa nhập thế tích cực của Phật giáo thời Lý – Trần, phần nào bộc lộ lòng yêu nước, thương dân. Vâng lời chỉ dạy của Quốc sư, vua đã trở về với ngôi vị. Nhà vua từ giã Yên Tử, từ giã Quốc sư tức từ giã đạo để về với đời. Về đời để hành đạo. Qua mấy mươi năm, vua đã lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và đã “lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên hạ”(Tựu nhược dĩ thân vi thiên hạ chi tiên dã). [34, 115] Đó là tinh thần quên mình vì người, là tinh thần vô ngã vị tha của Phật giáo đã được các ông vua thời Lý – Trần vận dụng để đưa nước nhà đến chỗ phồn vinh.

Tóm lại, chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ chứng tỏ Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần không thoát ly cuộc đời mà đã quan tâm đến vận mệnh đất nước, đến sự an nguy của xã tắc và đến sự an bình của người dân trong xã hội.

2.3. Tư tưởng Thiền Tông Việt Nam thời Lý – Trần.

Phật giáo truyền vào Việt Nam gồm nhiều tông phái thuộc Đại Thừa duy chỉ có Thiền Tông gần như độc chiếm ảnh hưởng. Không phải ngẫu nhiên mà nhắc đến Phật giáo, nhà chùa người ta thường nói đến Thiền như Thiền sư, cửa Thiền, mùi Thiền. … Do vậy, Thiền Lý – Trần cũng nêu lên chủ trương đặc biệt của Thiền học nguyên thủy, trong đó cũng có những nét đặc thù của Thiền học Việt Nam do điều kiện xã hội, địa lý qui định.

Tư tưởng Thiền Tông Việt Nam thời Lý – Trần chủ trương phá chấp, tức là cởi bỏ sự vướng mắc và câu chấp phân biệt nhị nguyên, tịch tĩnh vô trụ xứ. Bởi thế cần phải hết sức dõng mãnh thực hành những điều khó hành nhất trong đời sống của người hành đạo, có thế mới chứng ngộ chân lý tối thượng tự giải phóng mình ra khỏi sự ràng buộc của đời sống. Điều này đã được Ngộ Ấn Thiền sư chứng minh trong bài kệ Thị Tịch:

Diệu tính hư vô bất khả phan,

Hư vô tâm ngộ đắc hà nan,

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,

Liên phát lô trung thấp vị can.

Dịch:

Hư vô tính ấy khó vin noi

Riêng bụng hư vô hiểu được thôi.

Trên núi ngọc thiêu mầu vẫn nhuận,

Trong lò sen nở, sắc thường tươi. [35, 250]

Đặc tính hư vô không tìm kiếm đâu xa, ngay chính nơi đây, bởi thế hoa sen mọc từ lò lửa, sắc vẫn thường tươi. Huệ Sinh Thiền sư cũng đã thâm đạt lý cao siêu của đạo Phật qua bài kệ:

Tịch tịch Lăng Già nguyệt,

Không, không độ hải chu.

Tri không, không giác hữu,

Tam muội nhiệm thông chu.

Dịch:

Trăng Lăng-già vắng lặng,

Thuyền Bát nhã rỗng không.

Biết không, không giác có,

Chánh định mặc thong dong. [37, 123 -124]

Đó là trí tuệ Bát nhã, im lặng nhưng chói sáng trên đỉnh Lăng-già. Như thuyền vượt qua biển khơi. Sự thống nhất vũ trụ và cái không của Thiền học, cái không của Thiền tông là cái không vô chấp, nhưng nó phát huy vô cùng tận diệu dụng, một cái không trong tịch diệt không đối đãi với cái có. Tư tưởng không là tư tưởng chân không diệu hữu chứ không phải hư vô chủ nghĩa. Chân không là “chân như”; “tự tính nhất thiết giai không”. Muốn đạt đến trí tụê đó phải phá hết ngã chấp để đạt tâm cảnh tự tại. Nếu tri thức nằm trong tình trạng vô minh chấp ngã thời thực tại sẽ xuất hiện hai hình thức có và không. Không ở đây không là khái niệm mà không là thực tại. Nếu đem cái nhìn thực tại với hai ý niệm sinh hoặc diệt, thời tri thức bị giam hãm trong vòng đối lập, mâu thuẫn. Thực tại vốn bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn nghĩa là qui tắc duyên khởi là không như Ngài Long Thọ đã nói trong Trung Quán Luận:

Bất sanh diệc bất diệt,

Bất thường diệc bất đoạn,

Bất lai diệc bất khứ,

Bất nhất diệc bất dị.

Bên cạnh đó, Thiền Tông còn chủ trương “Đốn Ngộ” và yếu chỉ của Thiền có thể tóm gọn là: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.

Đây là phương pháp chóng trừ tà kiến vọng niệm, phương pháp tu tập không phụ thuộc vào giáo lý kinh điển tuy vẫn dùng kinh điển để khai tâm, đi thẳng vào lòng người tu hành để họ liễu ngộ được chân lý, thấy được Phật tánh.

Đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” nhưng vì bị vô minh che lấp nên trôi lăn trong sinh tử luân hồi và lục thức làm hôn ám nên sinh ra mê tưởng, điên đảo, chìm đắm trong bể khổ. Viên Học Thiền sư đã nói:

Lục thức thường hôn, chung dạ khổ.

Vô minh bị phú cửu mê dung.

Trú dạ Văn chung, khai giác ngộ,

Lãn thần tịnh sát, đắc thần thông.

Dịch:

Sáu thức tối tăm khổ đêm dài,

Vô minh che đậy mải mê say.

Sớm tối nghe chuông lòng tỉnh giác,

Thần lười dứt sạch, được thần thông. [37,178]

Bởi “Phật tại tâm” nên nếu phá được màn vô minh, phá được lưới vọng kiến thì Phật tính liền hiển hiện. Lúc đó tinh hoa của bậc giác gia đột nhiên hiển hiện sáng rỡ như ánh bình minh, ngạt ngào như kỳ hương dị thảo. Đó là ý nghĩa câu trả lời của Thiền sư Viên Chiếu khi trả lời câu “Thế nào là kiến tánh thành Phật?” của đệ tử:

Khô mộc phùng hoa xuân cạnh phát,

Phong xuy thiên lý phức thần hương.

Dịch:

Cây khô gặp xuân hoa đua nở,

Gió thổi hương thần thơm rất xa. [38, 124]

Tất cả vấn đề chỉ là thấy tánh, phát triển được mầm giác ngộ sẵn có trong mỗi con người. Lâu nay, người ta thường hiểu lầm, cho rằng đạo Phật là huyền bí, cao siêu, nhưng thật ra, đạo Phật rất thực tế vì luôn chủ trương xoay tìm lại con người thật của chính mình là một điều hết sức thực tế. Cũng vậy, các Thiền sư Việt Nam thời Lý – Trần luôn sống với thực tại, hiện tiền là trở về với chính mình, với con người chân thật của mình. Như khi vua Lý Thái Tông đến thăm và hỏi Thiền sư Thiền Lão rằng: Hòa Thượng trụ ở chùa nầy bao lâu?

Thiền sư liền đọc hai câu thơ:

Đản tri kim nhật nguyệt,

Thùy thức cựu xuân thu…

Nghĩa là:

Sống ngày nay biết ngày nay,

Còn xuân thu trước ai hay làm gì. [22, 127]

Chân lý không ở đâu xa, mà ở chính trong mỗi chúng ta. Chân lý đó phải sống trong hiện tại. Mọi ý định tìm cầu chân lý ở quá khứ, ở tương lai, hay ở đâu xa xôi bên ngoài đều sai lầm. Chân lý đó là Phật tánh. Nói cách khác, cái khả năng thành Phật đã có sẵn trong mỗi chúng ta. Thiền sư Khuông Việt cũng nói ý này trong bài kệ:

Mộc trung nguyên hữu hỏa

Nguyên hỏa phục hoàn sinh

Nhược vị mộc vô hỏa

Toản toại hà do manh. 

Nghĩa là:

Trong cây sẵn có lửa

Có lửa, lửa lại sanh

Nếu bảo cây không lửa

Cọ xát làm gì sanh. [37, 49]

Nếu mỗi con người không có sẵn tính Phật thì tu không bao giờ thành Phật. Cũng như trong cây nếu không sẵn lửa thì làm sao lại phát lửa khi cọ xát? Cũng theo ý này, vua Lý Thái Tông làm bài thơ “Dụng tâm học đạo”:

Bát Nhã chân vô tông,

Nhân không ngã diệc không,

Quá, hiện, vị lai Phật

Pháp tính bản tương đồng.

Dịch:

Đạo Phật vốn không dòng

Người không mình cũng không.

Trước rầy sau các Phật.

Pháp tính vẫn cùng chung. [32]

Chư Phật ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai đồng một pháp tánh, chúng sanh cũng đồng một pháp tánh không khác. Pháp tánh đó chính là tánh Phật. Các vị Thiền sư chỉ “tánh Phật thường hữu trong ta” để chúng ta nhận ra con người chân thật của chính mình. Hằng sống với cái chân thật ấy là người an lạc. Nên gọi đó là Niết Bàn, là giải thoát. Đức Phật là người đã đạt được trạng thái đó. Vì thế, sống giữa thế gian, tuy chịu sự chi phối của định luật vô thường, cũng sanh già bệnh chết nhưng Ngài vẫn ung dung tự tại trước mọi hoàn cảnh.

Mãn Giác Thiền sư đã nói:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai,

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai,

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. [37, 131]

Nghĩa là:

Xuân đi trăm hoa rơi.

Xuân đến trăm hoa nở,

Trước mắt đời diễn biến,

Trên đầu già đến nơi

Chớ nói xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai [4, 46].

Xuân đến, xuân đi, hoa nở, hoa tàn,… thời gian luôn vận chuyển vốn là hình ảnh chúng ta thường bắt gặp trong lẽ sống thường nhật. Mãn Giác Thiền sư đã giác ngộ lẽ vô thường đó, cho nên trước dòng biến đổi cuồn cuộn theo thời gian, Ngài đã vượt lên trên tất cả những hệ lụy, không hốt hoảng lo sợ bởi hạn định của kiếp người như Xuân Diệu:

Xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết thì đời tôi cũng mất.

Sự giác ngộ của Mãn giác Thiền sư trong tinh thần tự tại mang ý nghĩa vĩnh cửu:

Chớ nói xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước, một cành mai.

Một cành mai vẫn nở trong cảnh hoa rụng của xuân tàn, đó là bản thể chân như bất sanh bất diệt của vạn pháp, là chơn tâm bản thể Như Lai Tạng. Rõ ràng trong cái tàn úa ảo mộng vô thường có cái thường hằng bất diệt.

Thu lai lương khí sảng hung khâm,

Bát đẩu, tài cao đối nguyệt ngâm.

Kham tiếu thiền gia si độn khách,

Vị tương hà ngữ tác truyền tâm. [37, 214]

Dịch:

Êm dịu hơi thu mát cõi lòng.

Tài thơ ngâm chọi bóng trăng trong,

Cửa Thiền những thẹn người si độn,

Để lại câu gì? Nghĩ chửa thông. [32, 91]

Qủa thật như vậy, không còn gì để lại. Chỉ có Phật tánh là cái quý nhất được lưu lại mà thôi:

Ngọc lý bí thinh diễn diệu âm

Cư trung mãn mục lộ thiền tâm

Hà sa cảnh thị Bồ đề cảnh

Nghĩ hướng Bồ đề cách vạn tầm.

Dịch:

Trong ngọc ẩn thinh diễn diệu âm

Nơi kia đầy mắt bày thiền tâm

Hà sa cảnh là Bồ đề cảnh.

Nghĩ đến Bồ đề cách vạn tầm. [37, 109]

Chân lý trong con người, con người là chân lý. Phật tánh trong con người, con người là Phật không sai. Cho nên thấy cảnh là Bồ đề, sống trong cảnh tức là sống trong Bồ đề. Như vậy, chủ thể và đối tượng là một. Chân lý thực tại không phải ở đâu xa, mà ở chính trong ta, ở trước mắt chúng ta. Chân lý đó phải được nắm bắt trong hiện tại và hiện tiền. Mọi tìm cầu ở quá khứ, tương lai hay ở đâu xa bên ngoài đều sai lầm. Và càng sai lầm hơn nữa nếu cứ chấp vào văn tự để tìm kiếm chân lý ấy.

Thiền tông coi ngôn ngữ, văn tự chỉ là phương tiện diễn tả chứ không thể hiện được trọn vẹn thực tại tuyệt đối là chân như. Thiền tông vẫn dựa vào kinh điển nhưng lại chủ trương phải xa lìa văn tự, vượt lên trên ngôn ngữ, văn tự mới đạt chân lý. Như người đi đò qua sông lên bờ rồi phải vứt đò đi. Điều này đã được đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang:

Tri ngã thuyết pháp ,

Như phiệt dụ giả,

Pháp thượng ưng xả,

Hà huống phi pháp.

Và Viên Chiếu Thiền sư cũng đã nói: “Độ hà tu dụng phiệt, đáo ngạn bất tu thuyền”[17] (Qua sông phải dùng đò, đến bờ chẳng cần thuyền) không ngoài ý nghĩa trên.

Chân lý không được trực ngộ, không là chân lý đích thực, triết lý không có sự chứng nghiệm của bản thân chỉ là triết lý suông. Chân lý tuyệt đối đâu có thể giải bày thấu đáo bằng phương tiện ngôn ngữ, văn tự. Do đó, lúc sắp tịch diệt đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới bảo đệ tử rằng: “Ta đã thuyết pháp 49 năm nhưng chưa nói một lời nào”, vì Ngài sợ đệ tử câu chấp lời nói của Ngài mà không đạt được chân lý sâu xa, cũng như chỉ nhìn ngón tay chỉ mặt trăng tưởng lầm ngón tay là mặt trăng chứ không thấy mặt trăng. Vậy Ngài đã dạy đệ tử hãy xem lời giảng của Ngài chỉ là phương tiện, như ngón tay chỉ mặt trăng, phải nhìn theo ngón tay để thấy mặt trăng, và đừng bao giờ nhầm lẫn ngón tay là mặt trăng - Một cách đào luyện tinh thần, tự lực tự tìm chân lý của Đức Phật, chân lý đó là Phật tánh, là bản tánh, là bản minh. Nói cách khác là khả năng thành Phật đã có sẵn trong mỗi chúng ta. Phật chính là mình, tức là trong mỗi người đã sẵn có tính Phật. Như Trần Nhân Tông đã nói trong bài phú Nôm “Cư Trần Lạc Đạo”:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Nghĩa là:

Ở đời vui đạo phải tùy duyên,

Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.

Châu báu đầy nhà đừng chạy kiếm,

Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền. [12, 316]

Điểm này, chuẩn bị cho con người một sự tự tin mạnh mẽ vào khả năng, tiềm lực của bản thân để nhiếp phục bất cứ thế lực nào.

Phật tánh cũng gọi là chân tâm. Chân đối với vọng. Tâm thức của chúng ta, cái tâm luôn vọng động, dễ dàng chạy theo ngoại trần, và bị ngoại trần chi phối, sai sử, điều khiển. Từ bỏ vọng để về chân thì sẽ làm chủ được ngoại cảnh, và điều khiển nó theo hướng có lợi cho tự thân và nhân quần xã hội. Nói một cách khác, Thiền được đưa vào cuộc sống, phục vụ đất nước, phục vụ dân tộc, hướng dẫn mọi người tu dưỡng và hoàn thiện nhân cách. Vì thế, Thiền đã dễ dàng hòa đồng cùng các tôn giáo khác trên tinh thần mọi con đường đều đi đến chân lý.

Thiền, không phải dùng như một thứ lý thuyết suông mà có thể nhận chân được. Nó chủ yếu sử dụng phương pháp trực nhận thực tại, tức kiến tánh. Nó không cho phép người thực tập Thiền tư biện, mà trái lại Thiền giả phải biết suy tư và nhìn thẳng thực tại, tự mình nhìn thấy chứ không ai có thể làm thay cho được. Về mặt này, Thiền khuyến giáo con người phát huy tính tự lực, tự cường để khắc phục hoàn cảnh. Tuy ảnh hưởng từ Thiền tông Phật giáo Ấn – Hoa, nhưng Thiền tông Việt Nam thời Lý – Trần không thể siêu hình như Phật giáo Ấn vào những thế kỷ thứ VI vì họa ngoại xâm luôn đe dọa, và càng không thể chấp nhận thuyết “Thiên mệnh” của Trung Hoa vì các Thiền sư cho rằng vua cai trị dân phải lấy ý dân làm ý mình, lấy lòng dân làm lòng mình. Thiền tông Việt Nam thời Lý – Trần, quả thật là một đạo Thiền đầy sức sống.

Tóm lại, tư tưởng chủ đạo “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” của Thiền Tông đã được Thiền sư Lý – Trần noi theo. Có điều nếu ngày xưa, các Thiền sư Ấn Độ, Nhật Bản … thường la hét, đánh đập hoặc làm những hành động kỳ lạ, trả lời bằng những câu hiểm hóc, khó hiểu cốt để gây sự căng thẳng trong cân não người học đạo khiến họ trực ngộ thì Thiền sư Lý – Trần thường đọc những bài kệ với hình thức gọn nhẹ, giản dị, lời nói đầy yếu tố ngụ ngôn giàu chất thơ với những hình ảnh sinh động khi trả lời, để dẫn dụ người học đạo dễ tiếp cận chân lý. Những câu chuyện đối đáp giữa các vị Thiền sư trong “Tham Đồ Hiển Quyết” và “ụThiền Uyển Tập Anh” ghi lại, đã minh chứng cho luận điểm trên. Đây là vấn đề thi vị hóa triết lý vốn khô khan, một biểu hiện đặc thù của tư tưởng Thiền tông thời Lý – Trần.

CHƯƠNG 3: TINH THẦN NHẬP THẾ CỦA CÁC VỊ THIỀN SƯ THỜI LÝ – TRẦ

Trong lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy có không ít những vị Thiền sư Việt Nam đã thể hiện trọn vẹn tinh thần vì dân vì nước. Các Thiền sư này xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau, khi thì đóng vai Thái sư Khuông Việt, hay người chèo đò Đỗ Thuận, lúc lại là người thầy thuốc Tuệ Tĩnh hay thợ đúc đồng Nguyễn Minh Không, thậm chí có lúc tự tại ở ngôi vị đế vương xông pha trước mũi tên lằn đạn để chống đỡ cho muôn dân thoát khỏi nạn dày xéo của ngoại bang. Đối với các Ngài, hình thức cư sĩ, xuất gia, làm vua, làm quan, làm người chèo đò, làm thầy thuốc, làm thợ mộc hay thợ đúc đồng hoặc bất cứ ngành nghề gì chẳng qua chỉ là lớp áo đổi thay không dừng trên sân khấu cuộc đời, trong tâm niệm các Ngài luôn mong mỏi đem lại ấm no hạnh phúc cho dân tộc. Vì vậy, tất cả những Thiền sư đi vào cuộc đời mà không bị lợi danh quyền thế làm hoen ố vẩn đục, tâm hồn các Ngài luôn thanh thoát như những đóa hoa sen thơm ngát giữa bùn lầy mà không bị bùn nhơ làm ô nhiễm đã thể hiện trọn vẹn tinh thần “VÔ NGÃ – TÙY DUYÊN – HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN”.

3.1. VÔ NGÃ.

Chúng sanh sở dĩ trôi lăn trong sanh tử luân hồi là do chấp thân này là ta, rồi thương yêu qúy trọng nó, suốt đời lao tâm nhọc trí vật lộn với cuộc sống rất vất vả, cũng vì lo cho cái ăn, cái mặc, cái ở … của ta, rồi lo cho quyến thuộc bà con của ta, hễ ta được thì người mất. Vì vậy thế giới luôn cạnh tranh, nhân loại tương tàn, tương sát, chúng sanh tạo bao nhiêu lỗi lầm để rồi triền miên trong luân hồi. Cũng vì thế nhà thơ Xuân Diệu từng than thở:

Hoa nở để mà tàn

Trăng tròn để mà khuyết

Bèo hợp để mà tan

Người gần để mà ly biệt.

Còn Lão Tử cho rằng: “Ta có đại hoạn vì ta có thân”. Không phải như số người nghe trong kinh Phật nói: “xem thân như huyễn hóa” cho là tâm trạng bi quan yếm thế. Phật giáo nêu rõ các kinh nghiệm cơ bản về khổ đau là sự mất mát, chia lìa, còn hạnh phúc là sự lạc thọ, tức sự thọ nhận cái cảm giác an vui, hoan hỷ trong tâm. Giải thoát chính là mặt trái của khổ đau. Và giải thoát đồng nghĩa với hạnh phúc. Hiểu hạnh phúc là phù hợp với con đường giải thoát. Như vậy cốt lõi của đạo lý giải thoát là giáo lý vô ngã. Các Thiền sư thời Lý – Trần đã hiện thực hóa giáo lý vô ngã, nâng nó lên thành một triết lý sống.

Vì không hiểu giáo lý vô ngã, nên con người thường bị hoàn cảnh chi phối, kích thích, khiến bên trong thì bị phiền não khuấy nhiễu, bên ngoài thì chạy theo thanh sắc. Vì thế con người muốn tự tại mà chưa tự tại, muốn an vui mà chưa lúc nào an vui. Khi đã hiểu rõ giáo lý vô ngã, thì một thể vô ngã trùm khắp cả vũ trụ, chẳng còn chi ghét – thương, của ta – của người. … Tất cả các phạm trù đối đãi đều tan biến, con người tự do, tự tại. Đây chính là phong thái của các Thiền sư có thực tu thực chứng thời Lý – Trần.

Dưới mắt Thiền sư với huyễn hóa là sức mạnh để làm lợi ích cho chúng sanh như “Bồ tát lấy thân như huyễn, hóa độ chúng hữu tình như huyễn”. Chính vì thấu hiểu cuộc đời giả tạm nên Thiền sư Vạn Hạnh đã lăn xả vào công việc lợi tha dù gặp phải khó khăn nguy hiểm, Ngài không sờn lòng vì sắc thân như huyễn, có gì để sợ mất đâu. Thấy thân như huyễn để mạnh mẽ vươn lên, không còn sợ hãi trước vạn vật. Đấy chính là tinh thần xuất thế của Thiền sư. Ngài đem tinh thần xuất thế để mà nhập thế, nên Ngài làm tất cả việc mà người tầm thường không thể làm được như đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, khi thấy Lý Công Uẩn còn bé, sáng suốt tinh khôn, phong tư tuấn tú khác thường, Vạn Hạnh biết sẽ là người làm nên sự nghiệp lớn và nói rằng: “Người này không phải là người thường, lớn lên tất làm vua giỏi một nước” hay “Người này không phải tầm thường, mai sau tất làm vua cả nước”.

Vào buổi đầu nhà Lý, Thiền sư đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, đã có một vai trò quan trọng đối với chính trị. Và Ngài đã đem hết trí lực của mình phò vua, giúp nước đem lợi ích cho tha nhân, cùng với vua quan lo việc giữ gìn đất nước để thiên hạ thái bình. Ngài đã đem tài trí làm nên những bài “sấm truyền” để hướng dẫn lòng dân phải biết sáng suốt trong đạo nghĩa “phò vua” đã được thể hiện rất rõ qua bài kệ “Tật Lê”:

Tật Lê trầm Bắc thủy,

Lý tử thọ Nam thiên.

Tứ phương qua can tịnh,

Bát biểu hạ bình yên.

Dịch:

Tật Lê chìm biển Bắc,

Cây Lý che trời Nam.

Bốn phương binh đao dứt,

Tám hướng thảy bình an. [37, 59]

Đó là, hình ảnh một vị Thiền sư dùng gậy Thiền để bảo vệ non sông đất nước, Ngài đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho nền độc lập nước nhà. Tư tưởng hành đạo của Ngài là phụng sự dân tộc trong tinh thần “vị tha vô ngã”:

Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô,

Nhậm vận thịnh suy, vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dịch:

Thân như bóng chớp chiều tà,

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời.

Sá chi suy thịnh cuộc đời,

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành. [22, 120]

Vận dụng những quy luật tất yếu để phù hợp với thực tại xã hội cũng chính là tâm thức chuyển lưu phù hợp với quan điểm chung trong phạm trù tư tưởng. Sự thăng trầm thịnh suy của cuộc đời cũng như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Sự sống chết chỉ trong hơi thở. Vì vậy, nếu có sống thì hãy sống bằng nguyên lý “rõ biết thực tại”. Thực tại nhân dân, đất nước đang cần thì Ngài sẵn sàng xả thân làm tất cả, nhưng khi đất nước thái bình thì Ngài xem mọi vinh hoa phú quí giữa cuộc đời đều tạm bợ, ngộ lẽ vô thường nên trong khi làm việc Thiền sư vẫn giữ thái độ xuất thế của mình, không đắm chìm trong danh lợi, xong việc thì lui về chùa sống đời nhàn tảng. Một tinh thần “nhập thế vô trụ” và “xả bỏ tự ngã, vị kỷ” đã được đức Phật chứng minh rất rõ ràng:

Bình bát cơm ngàn nhà,

Thân chơi muôn dặm xa,

Mắt xanh xem người thế,

Mây trắng hỏi đường qua.

Thiền sư cầu mong được giải thoát nhưng không phải giải thoát để rồi thờ ơ với thực tại xã hội, mà triết học hành động của Thiền sư Vạn Hạnh tiêu biểu chung cho thái độ của các Thiền sư: làm thì làm nhưng không mắc kẹt vào công việc, không kẹt vào pháp hữu vi, đó là triết lý vô trụ. Chính vì thế, các vị giác ngộ khi sắp thị tịch thường để lại một bài kệ, những lời di huấn cho chúng đệ tử không ngoài nội dung thực chứng về lý vô ngã.

Và tinh thần vô ngã đã thể hiện rất rõ nơi Thiền sư Huyền Quang đời Trần. Cuộc đời Ngài thường làm thơ nói nhiều đến cái “quên” mà trước hết là quên bản thân mình:

Vong thân, vong thế dĩ đô vong,

Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương,

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,

Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

Dịch:

Quên mình, quên đời, đà quên hết cả,

Ngồi lâu trong tịch lặng, mát lạnh cả giường.

Cuối năm ở trong núi không có lịch,

Thấy hoa cúc nở biết rằng đã tiết Trùng dương. [28, 701]

Thiền sư đã quên hết cả ngày tháng, chỉ nhìn thiên nhiên biến đổi trước mắt mà biết thời tiết. Trong gian nhà lá ở lẫn cùng mây, nhà thơ sống tự tại quên thời khắc, không bận tâm đến những việc xung quanh:

Bán gian thạch thất hòa vân trụ,

Nhất lĩnh thuế y kinh tuế hàn.

Tăng tại thiền sàng, kinh tại án,

Lò tàn cốt đột, nhật tam can.

Dịch:

Nửa gian nhà đá lẫn trong mây,

Một mảnh áo lông trải tháng ngày.

Tăng ở trên giường, kinh tại án,

Lò hương tàn lụn, mặt trời lên. [37, 355]

Sự quên mình, quên cái “tôi” hữu hạn và thời gian hữu hạn để hội nhập vào cái vô biên, vĩnh cửu đã tạo nên nguồn thơ tứ dạt dào, mới lạ cho nhiều nhà thơ đương thời mà Thiền sư Huyền Quang là tiêu biểu. Ở bài “Tảo thu” trong “hơi đêm mát lạnh thấm vào bức rèm, cây trước sân vi vu báo tiếng thu”, nhà thơ đã đạt tới một khoảnh khắc vĩnh cửu khi buông bỏ dòng chảy của tâm thức, quên ta và vật, chan hòa làm một với trăng sáng:

Dạ khí phân lương nhập họa bình,

Tiêu diêu đình thụ báo thu thanh.

Trúc đường vong thích hương sở tận,

Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.

Dịch:

Hơi mát đêm thâu lọt tới mành,

Cây sân xào xạc báo thu thanh.

Bên lều quên bẵng hương vừa tắt,

Lưới bủa vầng trăng, mấy khóm cành. [28, 699]

Hơn thế nữa tinh thần “vô ngã” cũng được Thiền sư Viên Chiếu trình bày thật rõ ràng:

Thân như tường bích dĩ đồi thì,

Cử thế thông thông thục bất bi.

Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,

Sắc không ẩn hiện nhậm suy di.

Dịch:

Thân như tường vách đã lung lay.

Đau đáu người đời luống xót thay

Nếu đạt tâm không, không tướng sắc,

Sắc không ẩn hiện, mặc vần xoay. [37, 71]

Chính yếu tố thường và bất diệt của “tâm không” Thiền sư đã chứng đắc. Cho nên, đối với Ngài, sinh và tử đã không còn ngăn ngại. Khi sống, Ngài sống với cái “thật có” của mình, sống với cái “miên viễn”, thì lúc chết, Ngài vẫn đang sống cùng cái “thật có”, cái “miên viễn” của mình. Vậy thì ngay lúc ấy, sanh và tử, cặp phạm trù đã không còn ý nghĩa. Vì vậy, đứng giữa sống và chết, Thiền sư đã dung thông tất cả, cứ mặc cuộc thế vần xoay, tạo hóa biến đổi. Với lòng từ bi, Ngài đã truyền trao lại cho các thế hệ sau những kinh nghiệm quý báu đó.

Đặc biệt, vô ngã là cái đẹp tuyệt đối vì nó không hạn hẹp, nó không nhuốm màu phân biệt, khi nó tỏa ra trong cuộc sống thì đó là lòng Đại Từ Bi, khi nó vươn đến tầng cao thì đó là Đại Trí Tuệ. Vì cái đẹp tuyệt đối nên không có phân biệt chủ khách. Trong khoảng trời đất bao la, trong chốn mây khói của thôn làng ông chài chìm sâu vào giấc ngủ, vô tư vô ngã được thể hiện qua bài thơ “Ngư Nhàn”:

Vạn lý thanh gian, vạn lý thiên ,

Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán,

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.

Dịch:

Bát ngát sông xanh, bát ngát trời,

Một thôn dâu giá, một làn hơi.

Ông chài ngủ tít không người gọi,

Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi. [37, 156]

Tinh thần vô ngã không mang ý nghĩa phi nhân bản với cách hiểu xóa bỏ con người – cá nhân mà chính là yêu cầu giải phóng tuyệt đối với con người - giải phóng mọi ràng buộc của tự nhiên, xã hội và của cả chính bản thân mình. Nó tạo nên một con người tự do tuyệt đối, nói như Trần Thánh Tông “đã nhảy ra khỏi vạn tầng của ngục tù mặc sức tung hoành”.

Đây cũng là một khía cạnh của tinh thần phá chấp ở cấp độ cao, phá bỏ cái chấp khó phá bỏ nhất là “chấp ngã”, khư khư bám vào cái tôi thấy, cái tôi nghe, cái tôi nghĩ, cái tôi cảm … thì ý nghĩ và hành động chỉ là thiên lệch, chủ quan. Giáo lý vô ngã giúp con người phá bỏ được cái chấp thủ khó phá nhất là “chấp ngã”, vượt lên trên cái nhìn nhị nguyên, đạt đến cái nhìn bình đẳng vô sai biệt đối với vạn vật. Vì giáo lý vô ngã là cốt lõi của sự giải thoát, nên với tinh thần này các vị Thiền sư đã chỉ cho mọi người thấy được “Chúng sanh dữ Phật đồng”. Chúng sanh và Phật không khác: “Cùng là mày ngang mũi dọc”; “Lỗ mũi phập phồng thở xưa nay đều giống nhau”.

Các Thiền sư thời Lý – Trần bằng tinh thần vô ngã đã trang bị cho mọi người lòng tự tin hơn vào nền độc lập tự chủ của nước nhà. Khiến họ tin tưởng hơn vào sự nghiệp chung của dân tộc, sự nghiệp đoàn kết toàn dân bảo vệ đất nước sẽ thắng lợi vẻ vang. Lòng tin được củng cố và cũng chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy họ tham gia tích cực hơn vào sự nghiệp vĩ đại của toàn dân tộc: giữ vững quyền tự chủ của nhân dân, của nước nhà.

Tinh thần vô ngã còn đem lại cho con người lòng vị tha – yếu tố tối cần thiết cho những nhà cầm quyền nếu muốn đem lại hạnh phúc thực sự cho dân và hợp lòng dân. Có quên mình thì mới thấy đúng sự thực cuộc sống của dân từ nơi vị trí cao nhất trong xã hội. Nhờ tinh thần ấy mà những người lãnh đạo quốc gia thời ấy, khi nhận trách nhiệm thì tận tụy hết lòng, khi hết vai trò thì dễ dàng “lìa bỏ ngai vàng như trút bỏ chiếc giày rách”. Họ tùy duyên mà hành động đi đến vô tâm, bởi hiểu biết quy luật vô thường của cuộc sống và không lầm coi cái “tôi” là một giá trị vĩnh hằng. Chính vì thế, họ đã sống trọn vẹn và hoàn thành nghĩa vụ của một con người. Niềm vui nhẹ nhàng thư thái từ bên trong tâm hồn họ đã toát ra để hài hòa cùng sự trong sáng của đất trời vạn vật.

Tóm lại, tinh thần “vô ngã” của các Thiền sư đã góp phần ảnh hưởng đến tâm hồn, nhân cách con người thời đại Lý – Trần. Nó đã giúp con người sống cởi mở, vị tha hơn và cũng tự tin, hào hùng hơn, đặc biệt là với giai cấp cầm quyền phong kiến đương thời – nhân tố quan trọng trong công cuộc phục hưng và phát triển kỳ diệu của dân tộc Đại Việt – Soi lại tấm gương sáng của người đi trước, mỗi người trong chúng ta ngày nay hẳn đều tâm đắc được những bài học sâu xa cho bản thân.

3.2. TÙY DUYÊN.

Đạo Phật bắt nguồn từ Trung Ấn Độ, nhưng cành lá của đạo Phật ngày nay vẫn luôn lan tỏa khắp năm châu bốn biển. Đạo Phật luôn “Tùy Duyên” theo từng phong tục tập quán ở mỗi nước khác nhau, nhưng tính chất “Bất Biến” của đạo Phật vẫn không bao giờ thay đổi. Đức Từ Phụ của chúng ta có nói: “Tất cả nước đại dương chỉ có cùng một vị, đó là vị mặn; pháp môn tu tập của Ta tuy nhiều, nhưng chỉ có cùng một vị, đó là vị Giải Thoát.”

Tinh thần này, ba đời chư Phật luôn tiếp nối nhau vận dụng để cứu độ chúng sanh qua đoạn kinh Lăng Nghiêm:

Phật thân sung mãn ư thập phương,

Phổ hiện nhứt thiết chúng sanh tiền.

Tùy duyên phó cảm mị bất châu,

Nhi thường xử thử Bồ-đề tòa.

Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm “Phổ Môn”, có đoạn mô tả hạnh nguyện cứu độ chúng sanh qua tinh thần “Tùy Duyên Bất Biến” của Bồ tát Quán Âm như sau: “… Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ tát liền đều hiện thân mà vì đó nói pháp, đáng dùng thân Bích Chi Phật, thân Duyên Giác, Thinh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Đồng Nam, Đồng Nữ, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi Nhơn v.v… được độ thoát, liền đều hiện thân ra mà vì đó nói pháp”. [39, 710]

Tiếp nối tinh thần “Tùy Duyên Bất Biến” đó bằng cách thể nhập vào cuộc sống xã hội, hóa độ tất cả mọi đối tượng trong nhiều lãnh vực khác nhau theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Âm: “Nhược hữu quốc độ chúng sanh ưng dĩ…”. Thời đại Lý – Trần có các ông vua kiêm Thiền sư đã sống và hành động đúng với sứ mạng cao cả mà đức Phật đã dạy trong Kinh Trường A Hàm là: “du hành vì hạnh phúc của quần sanh, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”. Với chủ trương ấy, các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông vừa lo việc triều chính, vừa học đạo, hành Thiền. Trần Thái Tông từ bỏ dục vọng, lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình. Vì thế Ngài vận dụng sắc thân như huyễn hóa để cống hiến cho dân cho nước. Tọa thiền hay hành thiền chỗ nào lại chẳng thiền, chỗ nào lại chẳng có Niết bàn. Ngay lúc dầu sôi lửa bỏng cũng là thiền đấy thôi. Với tâm không dính mắc thì đời là đạo, tâm ấy chính là tâm thiền. Tâm thiền hiện hữu thì đời sống ấy chính là thiền. Đạo Phật cũng chẳng phải là một thứ triết lý mang tính chu kỳ, mà nó là đạo sống. Sống bằng nguyên lý “rõ biết thực tại” có như vậy mới hành động dung thông.

Đối với các Ngài sự tu học gắng liền với mọi sinh hoạt của cuộc sống đời thường, và liên hệ chặt chẽ với những hoạt động của mọi người trong xã hội. Trần Thánh Tông vừa dự yến, vừa bàn đạo Thiền, còn Trần Nhân Tông thì “cư trần lạc đạo” một cách ung dung: 

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,

Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên,

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Nghĩa là:

Ở đời vui đạo cứ tùy duyên,

Hể đói thì ăn mệt ngủ liền,

Châu báu đầy nhà đừng chạy kiếm,

Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền? [12, 316]

Đó là những vị vua tùy duyên mà hành động, đem đạo vào đời để phục vụ xã hội, phục vụ nhân dân cùng với việc tham Thiền học đạo. Bởi vì các Ngài biết rất rõ “đạo bất viễn nhân” (đạo không xa người), đạo phải được sống, được thể nghiệm ngay trong lòng cuộc đời nên “Phàm làm vua phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình”. Như kinh Phổ Hiền nói: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường Chư phật, trang nghiêm thế gian là trang nghiêm tịnh độ của Chư Phật.”

Thể theo tinh thần ấy, các vị Thiền sư thời Lý – Trần luôn lấy chúng sanh làm đối tượng để phụng sự. Các Ngài luôn dấn thân vào đời để làm lợi lạc cho đất nước, ích lợi cho dân tộc. Các Ngài tùy duyên mà xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Khi thì đóng vai Thái sư, khi thì làm người chèo đò, khi thì làm Thầy thuốc, khi làm cư sĩ, lúc làm người xuất gia, làm vua, làm quan… Nhưng tất cả những hình thức đó cũng không ngoài mục đích là đem lại an bình cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho nhân dân, làm vơi bớt nỗi khổ đau của chúng sanh. Bởi lẽũ cõi Ta Bà này là cõi đời đau khổ nên các vị Thiền sư mang tâm hồn “Bồ Tát” vào đời độ sanh, như là dòng suối uyên nguyên ngọt ngào hương vị tưới mát lòng nhân thế:

Bồ Tát đi vào đời

Như hoa nở khắp nơi

Tô điểm màu tươi thắm

Trang nghiêm nét tuyệt vời

Tóm lại, các vị Thiền sư tùy duyên vào cuộc đời đã mở ra một chân trời an lạc, trong sáng, hướng dẫn chúng sanh tìm về với đạo pháp, tránh ác làm lành, tu tâm hành thiện, đi đến giải thoát sanh tử khổ đau.

3.3. HÒA QUANG ĐỒNG TRẦN.

Hàng đệ tử Phật vốn lấy từ bi và trí tuệ làm căn bản và hạnh nhẫn nhục làm nền tảng. Đối với thanh sắc lợi dưỡng, ngũ dục lục trần phần nhiều đều xa lánh, không giống với quan niệm thường tình cho rằng đời là một trường tranh đấu, chỉ mong sao thắng lợi về mình, đạt được càng nhiều càng tốt. Do thế, khiến một số người tự mệnh danh là tích cực tiến bộ, đã vội vàng cho Phật giáo là tiêu cực lánh đời, không thích hợp với xã hội cạnh tranh rộn rịp đương thời. Nhưng, Phật giáo có đúng là tiêu cực lánh đời hay không? Không. Nếu người nào hiểu được ít nhiều về Phật giáo đều biết rằng đạo Phật vốn có tinh thần nhập thế tích cực. Điều này biểu hiện rất rõ ràng qua lời phát nguyện của tôn giả A Nan mà Tăng chúng các Tự viện thường đọc tụng vào mỗi thời công phu sáng:

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,

Như nhất chúng sanh vị thành Phật

Chung bất ư thử thủ nê hoàn.

(Đời ngũ trược con xin vào trước,

Còn một chúng sanh chưa thành Phật

Không bao giờ con nhập Niết bàn). [31, 59]

Thế nhưng, có người sẽ hỏi: “Nếu chỉ đọc tụng suông như vậy có thể gọi là hành động tích cực được sao?” xin thưa, tinh thần Phật giáo Đại thừa là độ khắp chúng sanh. Muốn độ sinh trước hết phải học tập phương pháp cứu độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói trong kinh Lương Hoàng Sám: “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục; chẳng những vào địa ngục mà còn trang nghiêm địa ngục”. Và Bồ Tát Địa Tạng cũng bảo: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Đó là mục đích giáo hóa của Bồ Tát, các Ngài rất trân trọng tịnh giới nhưng nhiều khi chỉ vì muốn gần gũi với chúng sanh để dễ dìu dắt hướng dẫn họ nên phải phạm giới, như trường hợp Tế Điên Hòa Thượng, Phật Ấn Thiền sư, Thái Hư Đại Sư là những ví dụ điển hình. Đối với các ngài “Trà đình tửu điếm giai ư thanh tịnh đạo tràng”, hay như kinh Duy Ma Cật nói: “Hành ư phi đạo thị danh Phật đạo”. Ví như hoa sen vươn lên từ bùn nhơ nước đục, Bồ tát đi vào đời nhưng không bị đời làm ô nhiễm. Tuy hòa quang đồng trần, đi vào cuộc đời nhưng tâm hồn các Ngài vẫn thong dong tự tại khác nào “chim lượn giữa trường không, gió lùa qua khóm trúc”; “gió lùa khóm trúc gió đi trúc chẳng lưu hình”.… Tinh thần hòa quang đồng trần này đã được Hương Hải Thiền sư minh họa qua hình ảnh:

Trời không cánh nhạn bay qua.

Bóng in đáy nước xóa nhòa một khi.

Nhạn không để dấu làm chi.

Nước không giữ bóng bởi vì vô tâm.

và Thiền sư Thường Chiếu cũng đã truyền dạy cho các đệ tử mình nguyên tắc “tùy tục” nghĩa là làm giống như cuộc đời. Ngài là người có đạo học uyên thâm. Bài kệ Ngài đọc trước lúc lâm chung biểu lộ được phong thái của người đã giải thoát, tìm thấy rằng thực hữu tràn đầy kia không nơi đâu và không lúc nào không phải là quê hương mình:

Đạo bản vô nhan sắc,

Tân tiên nhật nhật khoa,

Đại thiên sa giới ngoại

Hà xứ bất vi gia?

Nghĩa là:

Đạo vốn không nhan sắc,

Mà ngày càng gấm hoa,

Trong ba ngàn cõi ấy,

Đâu chẳng phải là nhà? [37, 221]

Trong thời đại Lý – Trần, các Thiền sư đã hòa cùng bước thăng trầm vinh nhục của dân tộc, đất nước. Và sự đóng góp của các Ngài dưới các triều đại đã thể hiện rõ nét truyền thống yêu nước của Phật giáo Việt Nam. Sư Vạn Hạnh, người có công đầu trong việc thành lập Vương triều Lý, xây dựng đất nước Đại Việt. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó qua lời khẳng định của vua Lý Nhân Tông:

Vạn Hạnh dung tam tế

Chân phù cổ sấm thi

Hương quan danh Cổ pháp

Trụ tích trấn vương kỳ.

Nghĩa là: 

Vạn Hạnh thông ba cõi

Lời Ông nghiệm sấm thi

Quê hương làng cổ pháp

Chống gậy trấn kinh ky. [28, 433]

Hình ảnh vị Thiền sư dùng gậy Thiền để bảo vệ non sông, đất nước thật dung dị. Thiền sư vạn hạnh đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập tự chủ quốc gia.

Ngài đã khuyên quan Thân vệ điện tiền Lý Công Uẩn nên thể theo lòng dân mà lên ngôi, mở mang đất nước cũng chứng tỏ rằng hành động chống gậy trấn giữ kinh kỳ của nhà sư, đồng thời nói lên được tấm lòng Thiền sư luôn luôn hướng về đời, nghĩ đến dân tộc đất nước: “Nay xem trong thiên ha ỉ(…) không ai bằng Thân vệ, là người khoan từ, nhân thứ, lại đuợc lòng dân chúng, mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu trong muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa”. [16, 119]

Thời đại Lý – Trần, không ít Thiền sư đã tham gia “trấn giữ” và xây dựng đất nước như thế. Và càng đáng quý hơn là hình ảnh một vị Thiền sư thong dong với cuộc sống an nhàn, giản dị chốn núi rừng vắng vẻ khi việc an dân vệ nước đã thành:

Phú quý phù vân trì vị đáo,

Quan âm lưu thủy cấp tương thôi.

Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ,

Nhất tháp trùng phong, trà nhất bôi.

Dịch:

Giàu sang mây nổi đến dần dà,

Ngày tháng trôi nhanh chẳng đợi mà.

Chi bằng tiểu ẩn nơi rừng suối,

Một giường gió mát, một chung trà. [37, 556]

Thiền sư Huyền Quang đã thi vị hóa hình ảnh vị Thiền sư vui với nếp sống đạo, giản dị mà thanh cao, xem phú quý vinh hoa như mây bay gió thổi. Những thứ đó chỉ có thể chi phối người đời – những người chưa dứt hết tham, sân, si. Những ham muốn thế tục ấy không thể nào đến gần Thiền sư được.

Các vị Thiền sư luôn tạo ra một khuynh hướng sống cho mình làm cơ sở cho hành giả thể hiện và thực hành khuynh hướng sống cho người. Hành trang của các Thiền sư là trí tuệ, từ bi và bình đẳng. Các Ngài mang hành trang của mình đi khắp mọi nẽo đường với tinh thần “hòa quang đồng trần”. Như Thiền sư Pháp Thuận đã trả lời vua Lê Đại Hành về vận nước như sau:

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư thiện các

Xứ xứ tức đao binh.

Nghĩa là:

Ngôi nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên điện các

Chốn chốn dứt đao binh. [28, 204]

Những loại kim thạch văn như văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đề Sùng Thiện Diên thát bi). Mai Công Bật ca ngợi chính sách tốt đẹp của Lý Nhân Tông, sự thịnh vượng của đất nước, thành tích đánh giặc giữ nước v.v… Văn bia chùa Báo Ân núi An Thạch (Thanh Hóa) trong khi ca ngợi Lý Thường Kiệt, vị tướng tài ba có công lớn trong việc xây dựng Vương triều Lý, đồng thời là một Phật tử đã đóng góp nhiều trong sự nghiệp chấn hưng, phát triển Phật giáo, thì lại bộc lộ niềm tự hào về phẩm chất và khí phách của dân tộc. Người Phật tử Lý Thường Kiệt được Thiền sư Pháp Bảo ca ngợi nhiều trong văn bia chùa Linh Xứùng núi Ngưỡng Sơn. Đây là đoạn tổng kết bài bia:

Lý Công nước Việt. Noi dấu tiền nhân.

Cầm quân tất thắng. Trị nước yên dân.

Danh lừng thiên hạ. Tiếng nức xa gần.

Vun trồng phúc đức. Đạo Phật sùng tin. [16, 120]

Các vua quan Phật tử thời Lý – Trần đã “hòa quang đồng trần” rất sống động trong việc an dân trị quốc và bảo vệ quê hương. Sự hiện diện của các Ngài trong thời đại bấy giờ, trong đạo lý dân tộc Việt Nam có thể ví như một ngọn đèn sáng xua tan bóng tối trong căn nhà chứa đầy những vật dụng quý báu. 

Nơi phong cách của Tuệ Trung Thượng Sĩ ta có thể nhận ra được phần nào trong thái độ của ông đối với cuộc đời, và ông có một cuộc sống hòa đồng, theo pháp thứ tự của Tứ Nhiếp Pháp, gọi là đồng sự, có gần người mới dễ dàng thuyết phục người. Khi nhận định về con người của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Pháp Loa viết: “Sống hòa đồng thế tục, đối với mọi vật chưa từng xúc trái”(Hổn tục hòa quang, dữ vật vị thường xúc ngỗ).

Nhờ sớm ngộ lý thiền, biết hòa quang đồng trần, Thượng Sĩ đã tự tại trong mọi tình huống. Khi được Hoàng Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mời vào cung dự tiệc, thức ăn trên bàn có cả chay và mặn, Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt. Thấy lạ, Hoàng Hậu hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, làm sao thành Phật được?” Thượng Sĩ trả lời: “Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật. Phật không cần thành anh”. Em không nghe Cổ Đức nói: “Văn Thù là Văn Thù, Giải thoát là Giải thoát” đó sao?

Tuệ Trung Thượng Sĩ – Thiền sư đã thể hiện tinh thần nhập thế “phụng đạo, hộ quốc, giúp đời” một cách chủ động và tự tại:

Phong xuy bất ngại hoa gian mật,

Nguyệt lạc vô phòng giản để thâm.

Dịch:

Gió thổi ngại gì đám hoa rậm,

Trăng tà đâu quản đáy khe sâu. [37, 274]

Thái độ ung dung của Thượng Sĩ cho ta thấy Ngài đã sống giữa lòng thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm; trong mọi cuộc tiếp xúc Ngài luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó, Ngài có thể làm tiếp nối được hạt giống chánh pháp, dìu dắt được những kẻ mới học. Ai đến tham cứu tìm học với Ngài cũng được Ngài chỉ dẫn tường tận thấy được phần cương yếu của đạo pháp khiến tâm họ có chổ vào.

Tinh thần “hòa quang đồng trần” là tất cả những gì các vị Thiền sư mang theo suốt cuộc vân du trên khắp nẽo đường đất nước. Đem ánh sáng từ bi và trí tuệ rọi chiếu vào cuộc sống đồng thời chuyển hóa nó thành cõi Niết bàn. Niết bàn ở ngay đây và giải thoát cũng ở ngay đây. Vì Niết bàn chỉ hiện diện khi và chỉ khi con người thể hiện hành vi ban vui cứu khổ. Thể hiện hành vi đó là thể hiện đức tính từ bi nhằm mục đích đưa con người đến cuộc sống an lạc, hạnh phúc. 

Tóm lại, các Thiền Sư hóa độ chúng sanh bằng cách hòa quang nhập tục, đồng với mọi người trong mọi công việc, đồng cam cộng khổ với người, an nguy cùng hưởng, vui buồn cùng chia. Các Ngài luôn sống hài hòa với chúng sanh. Phải chăng “Hòa Quang Đồng Trần” là những xẻn đất khỏa lấp đi hố sâu ngăn cách giữa mình và người, là sợi dây thân ái liên kết trong mối quan hệ của cuộc sống. Nhưng đỉnh cao của nó phải mang tính chất đạo đức, hay nói một cách khác, các Ngài vào đời giáo hóa chúng sanh nhưng không rời bản vị giác ngộ giải thoát. Tạo điều kiện cho mọi người phát triển vươn lên trong chánh pháp được hiện tại lạc trú.

KẾT LUẬN

Các vị Thiền sư thời Lý – Trần đã sinh ra trên một đất nước vừa thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm phương Bắc. Nhìn lại nỗi khổ đau của Tổ quốc quê hương, chắc chắn các Thiền sư đã thấy rõ và biết bổn phận mình phải làm gì. Trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn, các Thiền sư đã ý thức nhận ra trách nhiệm để chung vai góp sức vào công cuộc giữ gìn và bảo vệ an bình cho đất nước, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

Tinh thần nhập thế của các vị Thiền sư thời Lý – Trần là hạt nhân để quy tụ lòng người, làm cơ sở cho trí tuệ và đạo đức xã hội. Các Ngài đã làm cuộc cách mạng, khai sáng nhà Lý, đặt nền móng cho nhà Trần và chính trên cơ sở vững chắc của hai triều đại Lý – Trần đã tạo nên một nước Đại Việt thật sự thống nhất hùng cường, chẳng những có thể chịu đựng thắng lợi mọi thôn tính ngoại xâm mà còn tạo được xu thế phát triển mạnh mẽ cho xã hội và quốc gia trên mọi chiều không gian và đã bất tử qua dòng thời gian.

Thời đại Lý – Trần từ bi nhân bản, dân chủ dùng đức trị thay pháp trị. Đâu đâu cũng thấy bóng dáng siêu thoát kỳ vĩ của Thiền sư, chính các vị Thiền sư đã hoàn thành sự nghiệp “Trị quốc bình thiên hạ” tại Việt Nam một cách có qui mô và toàn diện nhất. Đây là một sự thành tựu vĩ đại, vì nó không thể hiện qua lời nói hay sách vở mà nó đã thể hiện qua việc làm của các Thiền sư đối với đất nước và dân tộc. Để minh chứng cho vấn đề đặt ra, chúng ta thấy một Ngô Chân Lưu (Khuông Việt) cùng Đỗ Pháp Thuận đại diện triều đình đối ngoại làm thơ khiến sứ giả phải kính phục: “Sư Thuận thi cú, Tống Sứ kinh dị”, một Vạn Hạnh với tinh thần “Nhậm vận”, “Dung tam tế” đã “Chống gậy trấn giữ kinh kỳ” để cho quốc thái dân an. Qua đó các Thiền sư thời Lý – Trần đã hình thành một ý thức sống tinh thần sâu sắc, thâm thúy và sinh động theo lời dạy của đức Phật: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Đồng thời, lời dạy ấy đã âm sâu vào tiềm thức của các vị Thiền sư và đã biến thành hành động bằng sự dấn thân vào sự nghiệp xây dựng đất nước, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân sinh. Tuy nhiên, trong mọi việc làm các Thiền sư đã giác ngộ chân tướng ẩn hiện, có không của các pháp như Thiền sư Từ Đạo Hạnh thân chứng:

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không.

Các vị Thiền sư thời Lý – Trần mỗi người một vẻ, một sắc thái. Nhưng cái chung nhất mà chúng ta có thể thấy qua thơ văn và thi kệ của các Ngài là tinh thần “Vô ngã vị tha”. Các Ngài luôn sống tu tập và hành đạo để đạt đến đỉnh cao là vô ngã, là quên mình, rồi đem những điều đạt được đó để phụng sự nhân sinh, phụng sự đất nước. Cả cuộc đời các Ngài hành động không ngừng nghỉ với tư tưởng và truyền thống là: “Phụng đạo, yêu nước” theo khuynh hướng thực tiễn và trước khi qua đời, các Ngài để lại một bài thơ hay bài kệ với mục đích không phải cho mình mà là gởi gắm cho mọi người. Qua đó, chúng ta thấy tinh thần nhập thế được toát lên từ tư tưởng phụng sự đạo pháp, đất nước và dân tộc.

Tóm lại, các vị Thiền sư thời Lý – Trần đã hành động cụ thể và phát huy một cách trọn vẹn tinh thần vô ngã vị tha của những con người mang hạnh nguyện độ sanh. Đó là những chất liệu giúp cho đàn hậu học chúng ta phát Bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo, hoàn thành sự nghiệp tự lợi, lợi tha. Và cũng là nhân tố chính đưa chúng sanh đến sự an vui giải thoát ngay trong thực tại.

Tăng ni chúng ta là những người kế thừa mạng mạch sanh tồn của đạo pháp, kế thừa sự nghiệp Như Lai, tiếp nối con đường chư Tổ, đem đạo vào đời làm sáng đạo đẹp đời, thay Phật Tổ tuyên dương giáo pháp. Với sứ mạng tối cao, hiến trọn đời mình cho lí tưởng lợi tha, muốn thành tựu vẻ vang, chúng ta phải thiết thực áp dụng tinh thần vô ngã vị tha của các vị Thiền sư để cảm hóa lòng người, hay nói cách khác, phải hòa nhập vào cuộc đời, hành Bồ Tát đạo để tiến đến quả vị toàn giác. Từng bước thể hiện tinh thần nhập thế trong mọi sinh hoạt của cuộc đời, cho Phật pháp mãi sáng ngời lợi lạc khắp muôn nơi. Được như vậy chính là chúng ta đã đóng góp một phần trong sự nghiệp hòa bình an vui của nhân loại và cũng đã góp phần trong công cuộc xây dựng một cõi niết bàn tịnh lạc ngay tại thế gian này.

THƯ MỤC THAM KHẢO

[1]. HT. Minh Châu, Kinh Pháp Cú, NXB Tôn giáo.

[2]. HT. Minh Châu, Kinh Trung Bộ, Đại Tạng Kinh Việt Nam, 1991.

[3]. Minh Chi, Phật giáo và Triều đại Lý – Trần, Học Viện PGVN.

[4]. Minh Chi, Truyền Thống Văn Hóa và Phật giáo Việt Nam, NXB Tôn giáo.

[5]. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 1.

[6]. Đạo Đức Học Phật Giáo, GHPGVN, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, 1995.

[7]. Giáo Dục Phật Giáo trong thời hiện đại, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, NXB TP. HCM.

[8]. HT. Nhất Hạnh, Đạo Phật đi vào cuộc đời, NXB Lá Bối.

[9]. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Ban Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh ấn hành.

[10]. HT. Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, GHPGVN, NXB Tôn Giáo.

[11]. Đinh Gia Khánh, Lời giới thiệu “Lĩnh Nam Chích Quái”, Nxb Văn Hóa, H , 1960.

[12]. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Thành hội Phật giáo TP. HCM ấn hành, 1992.

[13]. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Ủy Ban KHXHVN Viện Triết Học, NXB Khoa Học Xã Hội.

[14]. Nguyễn Hữu Lợi, Chùa Một Cột với tinh thần Phật giáo Việt Nam thời nhà Lý, Tạp chí tư tưởng tháng 10 -1974.

[15]. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần Diện mạo và Đặc điểm, NXB Đại Học Quốc Gia – TP. HCM.

[16]. Nguyễn Công Lý, Bản sắc dân tộc trong Văn Học Thiền Tông thời Lý – Trần, NXB Văn Hóa Thông Tin, 1997.

[17]. Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích, Thiền Uyển Tập Anh, Phân Viện NCPH – NXB Văn học, H, 1990.

[18]. HT. Trí Quảng, Cảm niệm về Đức Phật, Thành hội Phật giáo TP. HCM ấn hành.

[19]. Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật giáo Việt Nam, NXB Thuận Hóa.

[20]. Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu về Thiền Uyển Tập Anh, NXB TP.HCM.

[21]. Lê Mạnh Thát, Tổng Tập Văn Học Phật giáo Việt Nam, NXB TP. HCM.

[22]. Thích Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, NXB Minh Đức, Sài Gòn tái bản, 1960.

[23]. Thích Mật Thể, Phật giáo khái luận, NXB Minh Đức, Sài Gòn tái bản, 1960.

[24]. Nguyễn Khắc Thuần, Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam, NXB Văn Hóa Thông Tin.

[25]. Nguyễn Khắc Thuần, Nước Đại Việt thời Lý – Trần, NXB Thanh Niên.

[26]. Nguyễn Khắc Thuần, Đại Cương Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam, Tập II, III, NXB Giáo Dục.

[27]. Thiền Học Đời Trần, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành, 1995.

[28]. Thơ Văn Lý – Trần, Tập I, II, NXB Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1989.

[29]. Thơ Văn Lý – Trần, NXB Văn Nghệ TP. HCM.

[30]. Thơ Văn Lý – Trần, Tập I, Viện văn học, KHXH, H, 1997.

[31]. Thích Như Tịnh, Nhị Khóa Hiệp Giải, NXB Tôn Giáo, 1974.

[32]. Ngô Tất Tố, Thơ Thiền Lý – Trần, NXB Mai Lĩnh, Hà Nội, 1942.

[33]. Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục, HT. Thanh Kiểm dịch, GHPGVN, Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành, 1992.

[34]. Trần Thái Tông, Khóa Hư Lục, Phụ lục: Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục; Đào Duy Anh dịch, Nxb KHXH, H , 1974.

[35]. Thích Minh Tuệ, Lược Sử Phật Giáo Việt Nam, GHPGVN, Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành, 1993.

[36]. HT. Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ Lục Giảng Giải, GHPGVN, NXB TP. HCM.

[37]. HT. Thanh Từ, Thiền Sư Việt Nam, Tu Viện Chân Không, Vũng Tàu, 1973.

[38]. HT. Thanh Từ, Tham Đồ Hiển Quyết và thi tụng các Thiền sư thời Lý, GHPGVN Ban Văn Hóa Trung Ương, Thiền Viện Thường Chiếu ấn hành, 1995.

[39]. HT. Thanh Từ, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, NXB Tôn Giáo.

[40]. Đoàn Thị Thu Vân, Khảo Sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam Thế Kỷ X – XIV, Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, NXB Văn Học.

Nguồn: dentutraitim.com

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 2002)
Đàng Ngoài-Đàng Trong, một giai đoạn bi ai của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự phân chia đất nước kéo dài trên 170 năm với 7 lần hưng binh đánh nhau khiến cho muôn dân đồ thán. Cục diện huynh đệ tương tàn của hai nhà Trịnh -Nguyễn chưa kết thúc thì tiếp đến cuộc chiến tranh nông dân Tây Sơn lại nổi lên.
08/04/2013(Xem: 555)
Học thuyết Duyên Khởi (Paỉiccasamuppàda) của đạo Phật cho thấy rằng, tất cả các pháp trong vũ trụ vạn hữu luôn luôn có mối quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ, hết sức mật thiết. Từ cái mong manh, nhỏ bé như hạt sương mai đọng trên cỏ nội hoa ngàn, cho đến cái bao la rộng lớn như giải ngân hà giữa cõi vô biên, tất cả đều tương quan, cùng tác động lẫn nhau trong quá trình sinh thành và hoại diệt.
08/04/2013(Xem: 447)
Đại trí và đại bi là hai mặt của tâm Bồ Đề. Đó là chất liệu duy nhất để hoàn thành công hạnh tu tập của mọi hành giả. Điều đó đã được chỉ dạy trong “Phát Bồ đề tâm văn”:
08/04/2013(Xem: 540)
Trong thế giới chúng ta, con người không chỉ là vốn quý nhất của xã hội, mà còn là sản phẩm đẹp nhất của tự nhiên. Trong quá trình vận động phát triển, con người biết tạo ra văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần mang lại nét tươi sáng cho cuộc đời này.
08/04/2013(Xem: 541)
Đạo Phật truyền đến nước ta khoảng những năm đầu Công nguyên, đã trở thành một trong những hệ tư tưởng Tôn giáo có sức sống lâu dài nhất và song hành cùng Dân tộc trong mọi thời đại lịch sử. Chính vì vậy, văn hóa Phật giáo ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống hằng ngày của người Việt.
08/04/2013(Xem: 505)
Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, họ đã biết cách tìm thức ăn để sinh sống. Từ việc hái lượm đơn giản dần dần đến việc săn bắn, rồi biết tạo ra các công cụ để phục vụ cho việc sản xuất. Đó là một quá trình tiến bộ do có sự học hỏi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bên cạnh đó, họ cũng có những sáng tạo để dạy cho nhau cách đối phó với những ác thú, thiên tai, thời tiết…
08/04/2013(Xem: 565)
“Đoạn trường tân thanh” hay chúng ta quen gọi là truyện Kiều, là tác phẩm đã đưa tên tuổi Nguyễn Du lên hàng đại văn hào thế giới. Giá trị về tư tưởng, nghệ thuật của “Đoạn trường tân thanh” là điều khơng cĩ gì phải bàn cãi. Bao nhiêu những khảo luận, phê bình, nghiên cứu của rất nhiều học giả uyên bác, thuộc hàng đại thụ trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam suốt gần hai thế kỷ qua đã phần nào chứng minh điều đĩ.
08/04/2013(Xem: 559)
Chúng ta hãy ngược dòng thời gian nhìn lại những trang sử hào hùng của lịch sử dân tộc Đại Việt hay những triều Đại mà Phật giáo nước nhà phát triển mạnh, nhất là thời đại nhà Trần. Trong quá trình phát triển lịch sử Phật giáo Việt Nam, dưới triều Đại nhà Trần đã thể hiện rõ sức sống tự lực, tự cường với tinh thần độc lập của dân tộc, không giùn chân, không khiếp sợ trước uy quyền hay một thế lực ngoại ban nào cả, mà thể hiện rõ tính dân tộc của người Việt.
08/04/2013(Xem: 15898)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
08/04/2013(Xem: 4262)
Việt Nam, xứ sở của sự giao thoa các trào lưu tư tưởng nhưng vẫn khẳng định một nền văn minh mang tính đặc thù dân tộc. Đạo Phật Việt Nam chung hưởng hai suối nguồn Phật giáo lớn là Ấn Độ và Trung Hoa. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, Phật giáo đã tồn tại trong hai quốc gia chịu nhiều tang thương chinh chiến, chung chịu biết bao cảnh thăng trầm, vinh nhục.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567