Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ TƯ

30/05/201318:38(Xem: 4054)
4. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ TƯ

 

Tám Sự Tích Phật Lực

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Phật lịch 2545 (TL 2001)

---o0o---

SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ TƯ

ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA

-ooOoo-

Đức Phật cảm hóa được kẻ cướp sát nhân Angulimàla, do nhờ phép thần thông.

(Theo Chú giải Kinh Angulimàlasuttavannanà - Bộ chú giải Majjhimapannàsa, kinh Angulimàlasuttavannanà).

Đại đức Angulimàla vốn tên thật là Ahimsaka xuất thân từ dòng dõi Bà la môn, trong một gia đình quý tộc nhiều đời. Thân mẫu Ngài tên Mantanì; thân phụ Ngài tên Gagga, là quân sư tài đức khả kính của Đức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.

Trong đêm Ngài sinh ra đời, một hiện tượng lạ thường chưa từng có đã xảy ra: tất cả vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng chói lòa; ngay cả thanh gươm báu của Đức vua Pasenadi nằm ở trong bao, đặt trong căn phòng ngủ, cũng phát ra ánh sáng thép lạnh buốt, làm cho Đức vua kinh hoàng.

Ông Bà la môn, thân phụ của Ngài Angulimàla, nhìn thấy hiện tượng như vậy, liền bước ra hiên nhìn lên trời xem thiên văn, giữa hư không vời vợi một ngôi sao "kẻ cướp sát nhân"vừa xuất hiện. Ông nhẩm tính một hồi, rồi cảm thấy rùng mình sợ hãi. Ngôi sao ấy chính là biểu hiệu số mạng con trai vừa mới chào đời của ông. Sau nầy nó sẽ trở thành tên cướp giết người khét tiếng!

Là quân sư của Đức vua, người nắm cán cân công lý và sự an nguy cho xã tắc, ông Bà la môn không cho phép mình vì tình riêng mà dấu kín mầm móng tai họa, nên trời vừa sáng, ông đã vào chầu Đức vua Pasenadi tâu rằng:

- Đêm qua bệ hạ ngủ có được an giấc hay không?

Đức vua đáp:

- Thưa quân sư khả kính, Trẫm có ngủ yên được đâu! Không biết điềm xấu gì xảy ra mà thanh gươm báu của Trẫm đặt ở trong bao lại phát ra ánh sáng chói lòa rất là khủng khiếp. Trẫm lo sợ có điều tai họa gì đó liên quan đến tánh mạng của Trẫm, hoặc có chuyện bất trắc gì xảy ra cho ngai vàng của Trẫm chăng?

- Tâu bệ hạ - vị quân sư mau mắn đáp - đêm qua hạ thần có xem thiên văn, quả thật có một hung tinh vừa xuất hiện. Nhưng điềm xấu ấy không liên hệ gì đến tánh mạng cũng như ngai vàng của bệ hạ.

Tâu bệ hạ, không những chỉ riêng thanh gươm báu của bệ hạ, mà còn tất cả các loại vũ khí ở trong thành đều phát ra ánh sáng; đó là do năng lực ác nghiệp của con trai hạ thần vừa mới ra đời đêm qua.

Đức vua ngạc nhiên:

- Có chuyện như vậy sao! Quân sư hãy nói rõ cho Trẫm nghe!

- Tâu bệ hạ, con trai hạ thần vừa mới hạ sanh đêm qua ứng vào vị hung tinh ấy. Sau nầy, nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân rất nguy hiểm.

- Thật vậy sao? Đức vua hỏi. Nó sẽ trở thành tên cướp sát nhân? - chỉ là một tên cướp sát nhân thôi, hay là thủ lãnh một nhóm trộm cướp chuyên giết người, cướp của, dã man, tàn bạo, phá xóm, phá làng... và đe dọa cả ngai vàng của Trẫm?

- Không phải vậy, tâu bệ hạ! Nó chỉ là một tên cướp. Một mình nó thôi. Tuy chẳng tổn thương gì đến bệ hạ và ngai vàng, nhưng để tránh những tai họa về sau, thần xin phép bệ hạ cho thần được giết chết nó khi đang còn nhỏ.

Đức vua Pasenadi vốn là một vị vua hiền đức, nghe vậy liền có lời can ngăn:

- Đừng nên làm như thế, thưa quân sư khả kính! Nếu chỉ là một mình nó thì không thể gây ra tai họa lớn lao được. Trẫm biết rõ quân sư một đời nghiêm minh, thận trọng, chí công vô tư, không vì tình riêng mà che mờ phép nước. Nhưng đứa trẻ kia vừa mở mắt chào đời, chưa làm gì nên tội, xin quân sư hãy tha mạng sống cho nó.

Nếu bảo là do năng lực của ác nghiệp, thì quân sư nên tìm cách ngăn chặn, bằng cách nuôi dưỡng nó trong môi trường đạo đức, như vậy thì quả của ác nghiệp khó có cơ hội phát sanh.

Quân sư hãy chăm sóc, nuôi nấng, dạy bảo nó trở nên con người hiền lương. Ví như thanh gươm nằm trong vỏ, mũi tên nằm trong bao tên, thì nó làm sao có thể hại đến ai được!

Vậy quân sư nên đặt tên cho đứa trẻ là Ahimsaka (người không làm hại, làm khổ đến ai).

Bà la môn Gagga nghe vậy, cúi đầu tuân phục, ông cảm kích và tri ân Đức vua hiền minh không kể xiết.

Cậu bé Ahimsaka lớn lên, rất thông minh dĩnh ngộ, lại có sức mạnh phi thường, sống trong gia đình dòng dõi Bà la môn có truyền thống đạo đức lâu đời, cho nên cậu bé được nuôi dưỡng và giáo dục tốt trong một môi trường sống hiền hòa, tạo nhân tạo duyên cho thiện pháp phát sanh, những phẩm chất hiền lương của con người càng thêm tăng trưởng.

Khi đứa bé lớn, đến tuổi đi học, ông Bà la môn Gagga gởi con du học xứ Takkasilà, tại ngôi trường đào tạo các vị Hoàng tử, con cháu Bà la môn từ các quốc độ... có vị đã trở thành đấng minh quân, những nhà lãnh đạo tài ba, những bậc hiền triết uyên thâm....

Là đứa trẻ vốn có thiên tài xuất chúng, nên bất cứ môn học nào Ahimsaka cũng đều xuất sắc hơn các người học trò khác. Ngoài ra, cậu là người học trò luôn luôn làm tròn tất cả mọi phận sự đối với thầy, mọi lễ nghi phép tắc... không ai có thể chê cậu ở một điểm nhỏ nào. Tài năng và đức hạnh của Ahimsaka đều vẹn toàn, cho nên, người thầy Bà la môn và phu nhân của thầy rất hài lòng, thương yêu Ahimsaka và xem như đứa con ruột của mình.

Mọi sự việc ấy làm cho bạn bè đồng học ganh tỵ, họ bàn luận với nhau rằng: "Kể từ khi có mặt Ahimsaka nơi nầy, trong chúng ta không có một ai hơn nó, dầu chỉ một bộ môn nào. Nó là người có tài trí hơn hẳn chúng ta về mọi phương diện kể cả đạo đức. Ahimsaka là người học trò tài đức vẹn toàn, luôn luôn được thầy khen, ngược lại tất cả chúng ta là Hoàng tử, công tử... mà thầy quở trách chúng ta. Đó cũng chỉ vì Ahimsaka quá tài giỏi hơn chúng ta gấp bội, còn chúng ta so với nó thì quá kém cỏi mà thôi".

- Vậy chúng ta có mưu kế nào để đuổi Ahimsaka ra khỏi trường nầy không?

- Chúng ta chẳng có cách gì nói xấu Ahimsaka được.

- Nếu nói Ahimsaka thuộc dòng dõi thấp hèn ư? Chẳng thể nào, vì Ahimsaka thuộc dòng dõi Bà la môn cao quý, là con của ông Gagga, vị quân sư của Đức vua Pasenadi trị vì xứ Kosala.

- Nếu nói Ahimsaka là đứa học trò không làm tròn bổn phận, vô lễ với thầy ư? Chẳng thể nào vì Ahimsaka là người học trò làm tròn bổn phận, có lễ phép, tôn kính thầy hơn tất cả chúng ta....

Cuối cùng có một người trong nhóm đưa ý kiến:

"Tất cả chúng ta chia ra làm ba nhóm, và nhóm nào cũng đều thưa với thầy một điều giống nhau. Ban đầu có lẽ thầy không tin, thầy quở trách, chúng ta phải nên kiên nhẫn chịu đựng, nhưng dần dần thầy sẽ hoang mang ngờ vực và cuối cùng thầy sẽ tin".

Tất cả xem đó là một mưu kế hay.

Thế là theo kế hoạch, phải thực hiện tuần tự theo thời gian.

Ngày hôm sau, vào một dịp thuận lợi nhất, nhóm thứ nhất vào quỳ và thưa thầy rằng:

- Ai cũng biết bạn Ahimsaka là người học rất giỏi, có tài trí, lễ phép, từ lâu rất được thầy yêu bạn mến, nhưng chúng con nghi y có âm mưu hại thầy, chúng con kính yêu thầy, xin thưa cho thầy biết để đề phòng trước thì hơn.

Nghe nói vậy, vị thầy rất bực tức quở trách họ, vì cho rằng họ có ác tâm muốn làm tổn thương tình cảm giữa ông và Ahimsaka, người học trò ông rất mực thương yêu như con, bèn xua đuổi nhóm đó đi ra ngoài ngay.

Một thời gian sau, y theo kế hoạch, nhóm thứ nhì với số người đông hơn, cũng vào quỳ hầu thầy và thưa chuyện với nội dung y như lần trước. Họ cũng bị thầy quở trách rồi đuổi đi ra. Một thời gian lâu sau, nhóm thứ ba cũng thưa như hai nhóm trước, vị thầy cũng đối xử như hai nhóm trước. Mặc dầu vậy, nhóm thứ ba nầy tỏ vẽ khẩn khoản van xin thầy: nếu thầy không tin chúng con, xin thầy xem xét Ahimsaka có tài trí khác thường, nếu y mưu tính việc lớn thì khó ai biết được.

Sau nhiều lần, vị thầy bắt đầu suy nghĩ: "Sao cả ba nhóm học trò nầy đều thưa một việc giống nhau? và chúng đều có ý lo lắng cho sự an toàn của ta".

Vị thầy bắt đầu hoang mang ngờ vực, khi đã ngờ vực rồi thì mọi hành vi cử chỉ, lời nói của Ahimsaka cũng đáng nghi cả. Sự nghi ngờ ấy tuy chưa tìm ra chứng cớ rõ ràng, nhưng vị thầy cảm thấy lo sợ, bất an, vị thầy nghĩ:"Cách tốt nhất để giữ gìn bảo vệ sanh mạng của ta là phải tìm kế hạ thủ trước. Nếu tự tay ta đầu độc hoặc giết chết y, bọn học trò sẽ biết, và như vậy thì vua chúa, Bà la môn, quý tộc... cũng sẽ biết, tiếng xấu sẽ lan truyền ra mọi quốc độ rằng: "thầy mà giết chết học trò", thì còn gì là uy tín và đạo đức của ta nữa. Khi thiên hạ mất đức tin ở nơi ta thì họ sẽ không còn gởi con cháu đến đây học nữa. Khi ấy, danh vọng ta sẽ mất mà lợi lộc cũng không còn! Vậy tốt hơn hết ta hãy bày ra một kế để cho người ta giết Ahimsaka".

Vì nghĩ như thế, nên một hôm ông gọi Ahimsaka lại bảo:

- Nầy Ahimsaka con yêu quý, con là một người học trò có tài trí phi thường, con rất xứng đáng, nên thầy muốn truyền dạy môn học tột bậc cho con, với điều kiện con phải giết đủ một ngàn ngườiđem trình cho thầy, để ứng dụng vào môn học ấy, cũng đồng thời là sự tạ ơn thầy một cách xứng đáng với công lao nuôi dạy của thầy.

- Kính thưa thầy, con sanh ra ở dòng dõi Bà la môn cao quý, con không thể nào giết hại người được, bạch thầy - Ahimsaka thưa.

Vị thầy dạy rằng:

- Nếu như vậy, con không thể nào thành đạt đến tột cùng môn học, thật là uổng công lao nuôi dạy của thầy! Con không đền đáp được công ơn thầy.

Ahimsaka nghe thầy nói vậy, bất đắc dĩ phải làm theo lời thầy, xem là việc đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy, nhưng thật tâm hoàn toàn không thích làm việc bất lương như vậy.

Sau khi lạy từ giã thầy, Ahimsaka mang năm loại vũ khí theo mình đi vào rừng, chờ có ai đi vào rừng hay đi ngang qua rừng sẽ giết. Vì tâm không ham thích giết người, đây chẳng qua là một việc làm bất đắc dĩ nên chàng không nhớ rõ đã giết bao nhiêu người rồi. Sau đó, hễ giết được một người, chàng cắt lấy một đầu ngón tay cho dễ đếm, những ngón tay để rãi rác bị thất lạc, hoặc các loài thú ăn mất. Cuối cùng, Ahimsaka nghĩ ra một cách là xâu những đầu ngón tay nầy thành vòng đeo ở cổ. Từ đó chàng có biệt danh là Angulimàla:có nghĩa là kẻ cướp sát nhân, cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ.

Dân chúng trong thành nghe đến tên cướp sát nhân Angulimàla thảy đều kinh sợ, không ai dám đi một mình qua khu rừng, nhưng dầu đi từng toán từ 10 người - 20 người hay 30 người cũng không một ai thoát khỏi lưỡi đao của Angulimàla.

Tiếng đồn vang xa từ làng nầy qua làng khác quanh vùng, không ai dám đi ngang qua khu rừng ấy. Thế là bắt buộc Angulimàla phải vào xóm làng tìm người để giết cho đủ số 1000. Dân chúng kinh sợ bỏ xóm làng, đi lánh nạn sang nơi khác cách xa khu rừng ba do tuần.

Chuyện Angulimàla giết hại mọi người náo động đến kinh thành Sàvatthi. Một nhóm các bô lão đại diện dân chúng xin vào cầu cứu Đức vua Pasenadi rằng:

- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu dân vô tội, tên Anguli-màla kẻ cướp giết hại nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ, dân chúng kinh sợ đã bỏ xóm làng đi lánh nạn sang nơi khác, chịu cảnh cực khổ thiếu thốn.

Kính xin bệ hạ bắt y trị tội để chúng con được trở về quê hương yên ổn làm ăn.

Nghe dân chúng kêu van thảm thiết như vậy, Đức vua liền hội triều hỏi ý kiến các quan. Đức vua quyết định thân chinh cầm đầu dẫn quân truy bắt Angulimàla, tên cướp giết người để trị tội.

Trong buổi hội triều, vị Bà la môn Gagga, quân sư của Đức vua Pasenadi có linh tính báo cho biết Angulimàla tên cướp sát nhân ấy không ai khác mà chính là Ahimsaka, con trai yêu quý của ông.

Bãi triều, về nhà, ông âu sầu kể lại cho bà Mantanì, vợ ông, biết rằng: Nầy phu nhân "tên cướp sát nhân" ấy không phải ai khác mà chính là Ahim-saka, đứa con trai yêu quý của chúng ta.

Nghe vậy, bà Mantanì khóc lóc cầu xin chồng đi tìm con trở về nộp cho Đức vua, xin Đức vua từ bi ân xá tội chết, trước khi Đức vua truy bắt.

Ông Bà la môn cũng thương yêu con, nhưng bây giờ nó đã trở thành kẻ cướp sát nhân rồi, ông Bà la môn là bậc trí thức biết suy xét về lời dạy của bậc hiền triết ngàn xưa có dạy rằng: "Có bốn hạng người không nên đặt niềm tin vào họ" :

- Là tên cướp sát nhân, dầu trước đây hắn là bạn cũ.

- Là bạn cũ, dầu đã từng sống chung với nhau lâu năm.

- Là Đức vua, dầu được Đức vua tin cẩn.

- Là đàn bà, dầu trước đây đã từng đối xử rất tốt với bà ta.

Suy ngẫm bốn hạng người nầy, con trai của ông là một trong những hạng người ấy, không nên đặt niềm tin vào nó. Cho nên, ông Bà la môn từ chối lời yêu cầu của vợ.

Biết vậy, bà Mantanì rất nóng lòng vì thương yêu đứa con của bà, với tình thương yêu của một người mẹ, bà nghĩ: "nó là gì đi nữa, thì nó cũng chỉ là đứa bé nhỏ dại, đáng thương, đáng yêu của mình, đáng được tha thứ!".

Thế là chẳng quản gian lao vất vả, nguy hiểm, bà Mantanì quyết đi tìm Ahimsaka, đứa con yêu quý của bà.

ĐỨC PHẬT CẢM HÓA ANGULIMÀLA

Cuối canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn nhập đại bi định, sau khi xả định, quán xét chúng sanh có duyên lành nên tế độ, Đức Thế Tôn nhìn thấy Angulimàla hiện trong mạng lưới đại bi của Ngài. Ngài biết rằng: duyên lành của Angulimàla đã đến, Như Lai sẽ tế độ Angulimàla, chỉ cần nghe lời giải đáp xong Angulimàla sẽ phát sanh đức tin trong sạch, từ bỏ mọi vũ khí, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu, về sau Angulimàla sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Thánh Quả cùng với Tam minh.

Đức Thế Tôn còn thấy rõ rằng: nếu Ngài đến chậm trễ, Angulimàla sẽ giết mẹ, phạm trọng tội trong ngũ vô gián nghiệpthì vô phương cứu thoát.

Thế rồi, sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn đi vào thành Sàvatthi để khất thực như lệ thường, sau khi độ ngọ xong, dọn dẹp chỗ ở, rồi Đức Thế Tôn chỉ một mình mặc y, mang bát đi theo con đường mòn nhỏ nhắm hướng đi thẳng đến khu rừng nơi ở của Angulimàla.

Dân chúng bên đường nhìn thấy Đức Thế Tôn (không nhận biết được Đức Phật)đi theo con đường vào khu rừng nơi trú ngụ của Angulimàla, lo sợ Ngài bị giết bèn ra ngăn cản:

- Kính bạch Sa môn, kính xin Ngài đừng đi theo con đường nầy, ở trong khu rừng kia có tên Angulimàla là kẻ cướp giết người, bất luận là ai y cũng không thương xót. Kẻ cướp sát nhân nầy đã tàn sát dân làng già trẻ, dân chúng còn sống sót kinh sợ đều bỏ làng đi lánh nạn nơi khác. Một vùng đất rộng bên trong kia chỉ còn cảnh tiêu điều vắng vẽ, không một bóng người qua lại.

- Kính bạch Sa môn, trước đây có những toán người đông 20 người, 30 người, 40 người... đi qua con đường nầy cũng đều bị Angulimàla sát hại, không còn một ai sống sót cả. Kính xin Sa môn đừng vào nơi nguy hiểm ấy.

Đức Thế Tôn nghe dân chúng bạch đến ba lần, rồi dạy:

- Các con hãy an tâm! Không có điều gì xảy đến với Như Lai đâu! Rồi Ngài vẫn tiếp tục đi.

Hôm ấy, Angulimàla nghĩ rằng: "Ta sống ở đây đã lâu rồi, ta đã giết rất nhiều người, những người chết mà ta đã cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đếm được 999 ngón, chỉ cần giết thêm một người nữa, cắt một đầu ngón tay là tròn đủ 1000 ngón, là đủ 1000 người; ta cần phải ra ven rừng, hễ nhìn thấy người nào trước tiên là giết người ấy cho đủ số, đem về trình cho thầy, để đền đáp công ơn nuôi dạy của thầy và thầy sẽ truyền đạt bộ môn tột bậc cuối cùng cho ta. Lúc đó ta sẽ cạo râu, cắt tóc thay đổi y phục, xin bái tạ thầy trở về hầu thăm cha mẹ".

Nghĩ xong, Angulimàla mang vũ khí đi ra ven rừng. Người trước tiên mà y nhìn thấy từ xa đang đi đến là bà Mantanì, mẹ của y. Bà Mantanì nhận ra người cầm gươm kia là con của mình, bà vui mừng gọi tên con Ahimsaka! Ahimsaka! Con yêu quý! Nghe gọi vậy, Angulimàla nhận biết người đàn bà kia là mẹ của mình, nhưng do tà kiến chấp thủ, với ý nghĩ "người nào trước tiên" là giết liền cho đủ số 1000 người, nên y đành lòng phải giết mẹ thôi!

Angulimàla chạy ra đón đường thì bỗng nhiên nhìn thấy Đức Phật, xuất hiện ở khoảng giữa y và mẹ của y, Angulimàla liền thay đổi ý định thay vì giết mẹ, thì giết vị Sa môn đi một mình này. Angulimàla cầm gươm đuổi theo Đức Phật, Đức Phật dùng thần thông bước đi chậm rãi khoan thai như bình thường, nhưng đằng sau, Angulimàla đã cố chạy đuổi theo hết sức lực mà vẫn không bắt kịp Ngài.

Angulimàla thoáng nghĩ: "Thật lạ thường thay! Chưa từng có bao giờ! Trước đây dầu voi, ngựa, nai, xe ngựa chạy ta cũng chạy đuổi theo bắt được dễ dàng. Nhưng bây giờ dầu ta đã chạy hết sức mà vẫn không đuổi kịp vị Sa môn đang bước đi khoan thai chậm rãi kia".

Angulimàla cầm gươm chạy đuổi theo Đức Phật suốt ba do tuần, đã đuối sức, dừng chân lại, cất tiếng gọi lớn.

- Này ông Sa môn kia, Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!

Đức Phật biết được nhân duyên đã đến, Ngài vừa chậm rãi bước đi, vừa cất giọng phạm âm dạy vọng lại:

- Này Angulimàla, Như Lai đã dừng lại lâu rồi! Còn chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!

Nghe vậy, Angulimàla rất ngạc nhiên suy nghĩ: những Sa môn dòng Sakya này là bậc thường hay nói sự thật, nói như thế nào, làm như thế ấy; làm như thế nào, nói như thế ấy. Nhưng tại sao, ở đây, rõ là ông Sa môn này đang bước đi mà nói là: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!".Còn ta là người dừng chân lại rồi, ông Sa môn lại nói: "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại!",thế là nghĩa làm sao?

Angulimàla bèn hỏi Đức Thế Tôn rằng:

- Này ông Sa môn, rõ ràng ông đang đi mà lại nói: "Như Lai đã dừng lại lâu rồi!".Còn tôi thì đã dừng chân lại rồi nhưng ông lại nói "Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại",nghĩa là sao?

Đức Phật thuyết giảng dạy Angulimàla rằng:

- Này Angulimàla, thật vậy,Như Lai đã dừng lại lâu rồi. Nghĩa là Như Lai đã từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh từ lâu rồi; còn con chưa từ bỏ sự sát hại tất cả chúng sinh. Vì vậy, Như Lai mới gọi"Chính con! Chính con mới là người chưa chịu dừng lại".

Angulimàla vừa nghe xong, tỉnh thức ngay, liền ném các loại vũ khí xuống hố sâu bên sườn núi, vì biết rõ vị Sa môn này chính là Đức Thế Tôn, bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài là bậc xứng đáng lễ bái cúng dường của chư thiên, Phạm thiên và nhân loại, với tấm lòng đại bi, Ngài ngự đến khu rừng này, để tế độ cho con thoát khỏi si mê lầm lạc, giúp cho con có được trí tuệ sáng suốt, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con. Kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi tội lỗi do thân, khẩu và ý. Mong Ngài minh chứng cho con, thành tâm sám hối tội lỗi này.

Angulimàla bạch Đức Thế Tôn xong, rồi đến quỳ đảnh lễ dưới chân Đức Phật, cầu xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Với tâm từ bi quảng đại, với Phật nhãn thấy rõ phước duyên của Angulimàla đầy đủ tam y quả bát, các vật dụng của Sa môn, cho nên Đức Phật đưa bàn tay phải chỉ ngón trỏ vào Angulimàla mà dạy rằng:

"Ehi bhikkhu......".

"Con trở thành Tỳ khưu như con đã xin phép.Pháp mà Như Lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, con nên thực hành phạm hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn".

Đức Thế Tôn dạy xong, Angulimàla liền trở thành vị Tỳ khưu với tướng mạo và đầy đủ tám món vật dụng của Sa môn, phát sanh do phước duyên từ kiếp trước. Từ đây, Tỳ khưu Angulimàla thu thúc lục căn thanh tịnh như một vị Đại đức cao hạ. Tế độ Angulimàla xong, Đức Thế Tôn dẫn vị tân Tỳ khưu theo sau ngự đi về chùa Jetavana.

ĐỨC VUA PANESADI CA TỤNG ĐỨC PHẬT

Cũng trong khoảng thời gian ấy, Đức vua Pasenadi xứ Kosala thân chinh dẫn một đoàn quân gồm 500 binh mã ra khỏi thành truy tìm Angulimàla. Khi gần đến chùa Jetavana, Đức vua xuống ngựa đến hầu Đức Phật. Thấy Đức vua đến cùng một đoàn quân trang bị vũ khí và binh mã thiện chiến, Đức Thế Tôn bèn hỏi Đức vua Pasenadi:

- Nầy Đại vương, có phải vị vua các nước láng giềng khiêu chiến nên Đại vương thân chinh, dẫn quân đi đánh phải không?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, không phải Đức vua Bimbasàra trị vì xứ Magadha làm cho con bực tức, cũng không phải Đức vua Licchavi trị vì xứ Vesali chọc giận con, vua các nước lớn, nước nhỏ khác cũng không làm cho con phải khó chịu....

Kính bạch Đức Thế Tôn, bởi vì trong nước của con có tên Angulimàla, kẻ cướp sát nhân rất hung ác và rất tinh nhuệ, nó đã giết nhiều người, cắt đầu ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ. Dân chúng ở gần khu rừng kinh sợ bỏ đi nơi khác lánh nạn, chịu bao nổi khổ cực thiếu thốn. Cho nên, hôm nay con phải đích thân dẫn tinh binh đi truy tìm Angulimàla, tên cướp sát nhân dã man tàn bạo ấy, đem về triều đình trị tội, để đem lại sự bình an cho dân chúng của con.

- Này Đại vương, nếu Đại vương nhìn thấy Angu-limàla cạo râu tóc, mặc y cà sa xuất gia trở thành Tỳ khưu, hành phạm hạnh cao thượng, có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh, thì Đại vương đối xử với vị Tỳ khưu ấy như thế nào?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, đối với vị Tỳ khưu ấy, con sẽ cung kính đón tiếp, đảnh lễ thỉnh mời ngồi chỗ cao quý và xin hộ độ tứ vật dụng.

Kính bạch Đức Thế Tôn, nhưng Angulimàla là kẻ cướp sát nhân tàn bạo, không còn nhân tính, ác tâm phát sanh, khiến tạo mọi tội lỗi khủng khiếp, thì làm sao có thể trở thành vị Tỳ khưu có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh cho được. Bạch Ngài.

Lúc ấy, Tỳ khưu Angulimàla ngồi không xa chỗ Đức Phật, Ngài đưa tay chỉ về phía Tỳ khưu Angulimàla và nói:

- Này Đại vương, vị Tỳ khưu đang ngồi ở chỗ kia chính là Angulimàla đó!

Đức vua Pasenadi vô cùng ngạc nhiên, vẽ mặt hoảng sợ, Đức Phật liền trấn an:

- Này Đại vương, hãy bình tĩnh! Chắc chắn sẽ không bao giờ có một tai họa xảy đến cho Đại vương nào do từ Angulimàla đâu!

Nghe Đức Phật dạy vậy, Đức vua liền trấn tĩnh, nhưng không khỏi ngạc nhiên, nên đến gần vị Tỳ khưu Angulimàla bạch hỏi rằng:

- Thưa Ngài, Ngài chính là Angulimàla phải không?

- Phải vậy, thưa Đại vương. - Vị Tỳ khưu đáp.

Đức vua vẫn chưa hết ngờ vực, hỏi tiếp.

- Thưa Ngài, thân phụ và thân mẫu của Ngài tên gọi là gì?

- Thưa Đại vương, thân phụ của bần đạo tên gọi Gagga, thân mẫu tên gọi là Mantànì.

Đến đây, không còn nghi ngờ gì nữa, Đức vua Pasenadi vô cùng hoan hỷ, cung kính đảnh lễ Tỳ khưu Angulimàlà và bạch rằng:

- Cầu chúc cho người con thân yêu của quân sư Gagga và bà Mantanì được an vui! Con xin hộ độ bốn món vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bịnh cho Ngài.

Angulimàla, sau khi trở thành Tỳ khưu đã nguyện thực hành hạnh đầu đà, tri túc trong bốn món vật dụng, nghe Đức vua bạch như vậy nên thưa lại rằng:

- Thưa Đại vương, xin Đại vương đừng bận tâm, vật dụng đối với bần đạo đủ rồi.

Đức vua Pasenadi thấy Đức Phật đã cảm hoá được Angulimàla từ một tên cướp sát nhân dã man, hung ác đã trở thành một Tỳ khưu có giới hạnh trong sạch, thu thúc lục căn thanh tịnh... mà không cần đến một vũ khí, quyền lực nào ngoài tâm đại bi vô lượng vô biên của Ngài. Một lòng tôn kính vô hạn phát sanh, Đức vua quỳ đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi tán dương rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn,

Thật là một điều phi thường chưa từng có!

Chỉ có Ngài mới có thể tế độ được người mà trên thế gian này không một ai có thể tế độ được! Chỉ có Đức Thế Tôn mới có thể làm vắng lặng phiền não nơi người, mà không một ai có thể làm cho vắng lặng phiền não được!

Với tâm đại bi vô lượng vô biên của Đức Thế Tôn, đã dẫn dắt những người từ nơi si mê tăm tối, tìm đến chỗ ánh sáng trí tuệ kỳ diệu mà không một ai có thể làm được.

Chính con đây, con không thể nào dùng quyền lực hay vũ khí để bắt buộc người khác cải tà quy chánh. Con hết lòng thành kính tri ân Đức Thế Tôn vô thượng!

Đức vua Pasenadi đảnh lễ, bái biệt Đức Thế Tôn và Tỳ khưu Angulimàla rồi dẫn quân trở lại kinh thành.

Một buổi sáng, Đại đức Angulimàla mặc y mang bát đi vào thành Sàvatthi để khất thực, khi đi dọc theo một con đường, Ngài nhìn thấy một thai phụ đang đau đớn quằn quại, vì không sanh con ra được, Ngài phát sanh tâm bi: "Ôi chúng sinh quá đau khổ, thật đáng thương xót thay!".

Thấy cảnh đau khổ của người đàn bà ấy, khiến Ngài phát sanh tâm bi cứu khổ, tìm cách nào cứu bà đây? Ngài đi khất thực độ ngọ xong, trở về chùa Jetavana, Ngài liền vào hầu Đức Phật bạch lại sự việc đã tận mắt chứng kiến, phát sanh tâm bi thương xót đến nỗi khổ của chúng sinh.

Đức Phật dạy:

- Này Angulimàla, con hãy đi đến chỗ người đàn bà đang đau khổ ấy, phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

"Yato’ham bhagini ariyàya jàtiyà jàto, nàbhijànàmi, sancicca pànam jìvità voropetà. Tena saccena sotthi te hotu sottha gabbhassa".[*]

"Này cô, kể từ khi bần đạo xuất gia trở thành Tỳ khưu trong dòng dõi Thánh tông, biết mình không cố ý sát hại chúng sinh. Do lời chân thật này, xin cho cô sinh nở được dễ dàng, thai nhi của cô cũng được an toàn".

[*] Majjhimanikàya. Majhjhimapannàsa, đoạn kinh Angulimàlasutta

Nghe theo lời chỉ giáo của Đức Phật, Đại đức Angulimàla đi lại chỗ người đàn bà ấy, Ngài ngồi bên ngoài bức màn che, với tâm bi, đọc lời chú nguyện: "Yato’ham bhagini ariyàya jàtiyà jàto, nàbhijànàmi, sancicca pànam jìvità voropetà. Tena saccena sotthi te hotu sottha gabbhassa."[**], mà Đức Phật đã chỉ dạy.

[**] Về sau, lời chú nguyện này trở thành kinh Paritta, có hiệu nghiệm mọi lúc, mọi nơi. Hễ có trường hợp người đàn bà nào khó sanh, đọc bài kinh này, chú nguyện trong ly nước, đổ trên đầu người đàn bà khó sanh ấy, ngay tức khắc người đàn bà ấy sinh con ra một cách dễ dàng, an toàn cả mẹ lẫn con.

Lạ lùng thay! Lời chân thật vừa dứt, người đàn bà sinh đứa con một cách dễ dàng - như đổ nước ra khỏi bình - và hài nhi cũng được an toàn như ý nguyện.

ĐẠI ĐỨC ANGULIMÀLA CHỨNG ĐẮC THÁNH QUẢ ARAHÁN

Đại đức Angulimàla sống riêng một mình nơi thanh vắng, không dễ duôi, tinh tấn tiến hành Tứ niệm xứ, bằng trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, Ngài đã chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả, diệt đoạn tuyệt được vô minh và tham ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam minh.

Như vậy, Ngài đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh đế, đồng thời hoàn thành xong phạm hạnh. Ngài biết rõ kiếp này là kiếp chót, không còn tái sanh kiếp nào khác nữa.

Mặc dầu, sau khi Đại đức Angulimàla đã trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp (thiện nghiệp, ác nghiệp) mới không tạo, song nghiệp cũ vẫn còn có hiệu lực cho quả ở kiếp hiện tại, cho nên khi Ngài đi vào thành Sàvathi để khất thực, những cục đá, những khúc cây... người ta ném đi đâu đó lại rơi xuống trúng nơi đầu hoặc thân hình của Ngài, làm cho đầu bị chảy máu, thân hình bị bầm tím, y rách, bát bể... trông thấy thật đáng thương.

Khi trở về, Đại đức Angulimàla đến hầu Đức Thế Tôn, Ngài thấy như vậy, khuyên dạy an ủi rằng:

- Này Angulimàla, con hãy cố nhẫn nại, thay vì phải chịu quả khổ lâu dài ở trong điạ ngục, thì nay con chỉ chịu quả khổ một phần nào ở kiếp hiện tại này thôi.

Đại đức Angulimàla hoan hỷ vâng theo lời giáo huấn của Đức Phật.

ĐẠI ĐỨC ANGULIMÀLA CẢM HỨNG TỰ THUYẾT

Đại đức Angulimàla chỉ có một mình ở nơi thanh vắng, nhập Arahán Thánh Quả Định, hưởng sự an lạc giải thoát, khi xả định,

Ngài cảm ứng tự thuyết những bài kệ rằng:

"Người nào trước kia dễ duôi quên mình,
Về sau có chánh niệm và tinh tấn,
Người ấy làm cho đời thêm xán lạn,
Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
Người nào đã tạo ác nghiệp tội lỗi,
Quả ác được ngăn bởi 4 Thánh Đạo,
Người ấy làm cho đời thêm xán lạn,
Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.
Tỳ khưu nào dẫu còn thời trẻ trung,
Tinh tấn hành theo giáo pháp Đức Phật,
Tỳ khưu ấy làm cho đời xán lạn,
Như vầng trăng thoát khỏi đám mây che.

Rồi tiếp theo Đại đức rải tâm từ đến cho những người mà Ngài đã lầm lỡ, làm khổ trước đây bằng những bài kệ:

"Này tất cả những người thù ghét tôi!
Xin hãy đến đây lắng nghe chánh pháp.
Mà tôi đã được nghe từ Đức Phật,
Hãy nên thân cận với bậc Thiện trí,
Là bậc đã chứng ngộ pháp siêu thế,
Xin hãy thực hành theo lời giáo huấn
Của Đức Phật cao thượng hơn chúng sinh.

Này tất cả những người thù ghét tôi!
Xin mời quý vị tùy thời nghe pháp.
Bậc Thiện trí thường tán dương ca tụng,
Pháp rải tâm từ và đức nhẫn nại,
Lắng nghe và thực hành theo pháp ấy,
Dập tắt được oan trái và hận thù.

Này tất cả những người thù ghét tôi!
Xin các người không nên làm khổ tôi,
Và không nên làm khổ chúng sinh khác,
Nên tinh tấn thực hành theo chánh pháp
Chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả, Niết Bàn,
Diệt đoạn tuyệt tham ái và phiền não.

Ngài Đại đức hướng dẫn cách tu hành bằng những bài kệ:

Người nông dân cần nước,
Làm mương dẫn nước vào.
Người thợ làm mũi tên,
Uốn cây tên cho thẳng.
Người thợ mộc đẽo cây,
Đẽo cây theo ý mình.
Cũng như bậc Thiện trí,
Tự dạy mình mà thôi.
Có người dạy súc vật,
Dùng gậy, móc sắt, roi.
Còn Đức Phật dạy tôi,
Bằng phép mầu cao thượng,
Không quyền lực, vũ khí.
Từ trước tôi làm hại,
Tất cả mọi chúng sinh,
Thế mà mang cái tên,
Là A - him - sa - ka [*]
.
Kể từ nay về sau,
Không làm hại ai cả,
Đúng nghĩa thật tên tôi.
Trước kia tôi chính là,
Một kẻ cướp sát nhân,
Nổi danh khắp đó đây,
Aí - gu - li- mà - la,
Đắm chìm trong nước xoáy,
Sanh tử khổ luân hồi.
Nay tôi đến quy y,
Nơi Đức Phật cao thượng.
Từ trước tôi nổi danh,
Aí - gu - li - mà - la,
Kẻ giết người vấy máu.
Nay chứng ngộ Niết Bàn,
Nhổ gốc rễ tham ái,
Chặt đứt mầm tái sanh.
Tôi đã tạo ác nghiệp,
Đáng lẽ sa ác đạo,
Chịu khổ đau nhiều kiếp.
Nhờ chứng ngộ Thánh Đạo,
A - ra - hán Đạo Tuệ,
Diệt tận các phiền não,
Tâm trong sạch thanh tịnh,
Dùng vật thực không nợ.
Người ngu không trí tuệ,
Thường sống trong dễ duôi.
Bậc Thiện trí hiểu biết,
Giữ gìn không dễ duôi,
Luôn luôn có chánh niệm,
Như giữ gìn cuả báu.
Chớ nên sống dễ duôi,
Chớ say đắm ngũ trần.
Người hành Tứ niệm xứ,
Con đường duy nhất ấy,
Luôn tinh tấn chuyên cần,
không dễ duôi chánh niệm,
Chứng đắc 4 Thánh Đạo,
4 Thánh Quả, Niết Bàn.
Tôi đến với Phật giáo,
Là sự đến tốt lành,
Điều suy xét của tôi,
Không phải là sai lầm.
Tôi đã chứng đắc được,
A-ra-hán Thánh Đạo,
A-ra-hán Thánh Quả,
Cùng Niết Bàn cao thượng,
Trong giáo pháp Đức Phật.
Sự xuất gia Tỳ khưu,
Của tôi là cao quý,
Chứng đắc thành bậc Thánh
A-ra-hán, Tam minh,
Hoàn thành lời Phật dạy.

[*] A-him-sa-ka: vô hại, không làm hại chúng sanh.



---o0o---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/01/2015(Xem: 7998)
DƯỚI GỐC CÂY NÀY, NẾU TA KHÔNG ĐẮC ĐẠO VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ, DẦU CHO TAN THÂN NÁT THỊT QUYẾT KHÔNG ĐỨNG LÊN. Lời nguyện vĩ đại trên Đức Phật đã đánh đổ tất cả thành trì, vương tước và khước từ cuộc sống vị kỷ, hạn hẹp tình vợ chồng con cái trong chốn nhung lụa, giàu sang của hoàng tộc. Lời nguyện siêu tuyệt trên Đức Phật đã băng rừng, lội suối trải qua bao gian khổ, nhọc nhằn hiểm nguy để tìm ra chân lý giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài.
24/12/2014(Xem: 15606)
Bộ tranh cuộc đời Đức Phật Buddha life story
19/01/2014(Xem: 7720)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
16/12/2013(Xem: 21923)
Viết xong cuộc đời ngài Tôi bần thần, dã dượi Sinh lực tổn hao Như thân cây không còn nhựa luyện Như sức ngựa đường dài Hoàn tất cuộc lữ trình lên đến đỉnh đồi cao Ôi! Tôi đã chạy đuổi chiêm bao Muốn vói bắt mảnh trăng trời nguyên thuỷ
08/12/2013(Xem: 5304)
Con người sở dĩ có một vị trí đặc biệt trong các chủng loại động vật, là nhờ có một nhận thức về tư duy và có một tâm thức về linh học. Từ khi con người hiện hữu trên tinh cầu, vấn đề nhận thức được hoàn thiện từ sơ cơ cho đến tinh tường là nhờ trao đổi thông tin, giao tiếp và xử lý nhiều vấn nạn.
26/10/2013(Xem: 51999)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/06/2013(Xem: 8062)
Ý Nghĩa Phật Thành Đạo
18/05/2013(Xem: 5715)
Trong kinh điển Pāli không có dấu hiệu nào cho thấy Đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả(26)của H.W. Schumann, là một luận điểm võ đoán, nếu không nói là chưa phản ánh đúng sự thật lịch sử. Gần mười năm trước, lần đầu tiên tiếp cận tác phẩm Đức Phật lịch sử(1)của H.W. Schumann qua bản dịch của cô Trần Phương Lan, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là sự kính phục về độ uyên bác của tác phẩm cũng như sự dấn thân khoa học của bản thân tác giả. Lời giới thiệu tác phẩm của HT.Thích Thiện Châu trong bản dịch tiếng Việt cũng đồng quan điểm này, khi ngài cho rằng: H.W. Schumann đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của Đấng Giác Ngộ như một người sống thật trong khung cảnh thật của Ấn Độ cổ đại, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H.W. Schumann về Đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về Đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào
10/04/2013(Xem: 7167)
Trong các buổi lễ tụng kinh cầu an, chư Tăng cũng như những người cận sự nam - nữ không thể thiếu bài kệ "Jayamangalagàthà - Bài kệ Hạnh phúc thù thắng". Bởi vì bài kệ này tán dương, ca tụng oai lực của Ðức Phật đã cảm thắng tám trường hợp xảy ra vô cùng khó khăn. Mỗi trường hợp Ðức Phật vận dụng mỗi pháp, không những để đối trị mà còn làm cho đối phương cảm phục phát sanh đức tin xin quy y nơi Tam bảo.
08/04/2013(Xem: 8107)
Cùng với thời gian vô cùng tận, không gian vô biên tế, cái đẹp cũng tồn tại với một ý nghĩa rất bao la mà con người khó có thể khám phá cho thật tường tận bằng tri thức của mình. Cuộc đời đức Phật là cả một lịch sử hùng tráng hướng đến tìm kiếm cái đẹp và xây dựng lý tưởng cái đẹp trong cuộc đời. Giáo lí được Ngài thiết lập là một hệ thống mỹ học thể nghiệm nội tại, có ý nghĩa vô cùng phong phú đối với đời sống nhân sinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567