Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về sự “Thức tỉnh tâm linh” qua những lời Khai thị của Chư Tôn Thiền Đức.

19/07/202405:30(Xem: 823)
Tản mạn về sự “Thức tỉnh tâm linh” qua những lời Khai thị của Chư Tôn Thiền Đức.
hoa_sen (15)


Tản mạn về sự “Thức  tỉnh tâm linh”  
qua những lời Khai thị của Chư Tôn Thiền Đức.




Có lẽ một lúc nào đó khi tầng nhận thức của chúng ta được nâng  cao theo quá trình tiến hoá của sự tu tập, khiến cho lời khai thị đã chấn động, và tự nhiên khiến chúng ta sẽ nhìn nhận vấn đề đang được đề cập một cách sâu sắc hơn nhiều trong khi tâm linh là một lĩnh vực sâu và cần thời gian rất dài để khai sáng. 

Và người viết cũng từng được dạy rằng: “Trong vấn đề tu tập hãy dùng trí tuệ mình để tìm Phật  chứ đừng được dạy gì thì nghe nấy, vì thực tế tuy chúng ta  cần nghe những lời giảng về Ngài từ những người khác, nhưng chúng ta  sẽ tìm Ngài trong sự chiêm nghiệm cuộc sống, trong sự biến đổi không ngừng của tự nhiên, trong mọi thứ với vị trí trí của mình ở tầng nhận thức nào.” 

Trộm nghĩ……việc nhận biết các mức độ nhận thức ở con người là vô cùng quan trọng, để chúng ta biết được mình đang ở đâu và làm thế nào để nâng cao.

Và một điều đặc biệt: Khi con người nâng cấp và đạt đến một mức độ nhận thức nhất định thì không chỉ về mặt tâm thức mà còn về cơ thể vật lý, chúng ta cũng sẽ cảm nhận được sự hoàn thiện và đủ đầy hơn.

Phải chăng có rất nhiều yếu tố để ảnh hưởng đến sự thức tỉnh tâm linh( trải nghiệm cảm xúc và niềm tin)đó là: 

1. **Niềm tin vào người diễn giả**: Khi bạn tin tưởng vào người diễn giả, bạn dễ dàng tiếp nhận thông điệp mà họ truyền tải. Sự tin tưởng này có thể xuất phát từ danh tiếng, sự uyên bác, hoặc trải nghiệm cá nhân trước đó với diễn giả.

2. **Nội dung phù hợp với giá trị cá nhân**: Nếu nội dung của bài diễn văn hoặc thuyết giảng phù hợp với những giá trị, niềm tin và trải nghiệm cá nhân của bạn, nó sẽ dễ dàng gây xúc động. Bạn cảm thấy như mình được hiểu và đồng cảm.( phù hợp với tầng nhận thức của mình)  

3. **Khả năng truyền đạt của diễn giả**: Một diễn giả giỏi biết cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, và ngôn ngữ cơ thể để truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả. Khả năng này giúp kích thích cảm xúc của người nghe và tạo ra một kết nối sâu sắc.

4. **Trải nghiệm cá nhân và tâm trạng hiện tại**: Những trải nghiệm cá nhân trước đây và tâm trạng hiện tại của bạn có thể làm tăng cường sự phản ứng cảm xúc khi nghe một bài diễn văn. Nếu bạn đang trong một trạng thái cảm xúc nhạy cảm, bạn sẽ dễ dàng xúc động hơn.

5- Sự đồng cảm*— Đồng cảm là khả năng hiểu và chia sẻ cảm xúc của người khác. Khi bạn đồng cảm với ai đó, bạn không chỉ nhận thức được cảm xúc của họ mà còn cảm thấy được cảm xúc đó như thể bạn đang trải qua chính mình. 

Có thể đó là: (1-Đồng cảm cảm xúc (Emotional Empathy)Đây là khả năng cảm nhận được cảm xúc của người khác.2-Đồng cảm nhận thức (Cognitive Empathy) đấy  là khả năng hiểu được quan điểm và cảm xúc của người khác ta có thể nhận ra tại sao họ cảm thấy như vậy và suy nghĩ từ góc nhìn của họ.

3-Đồng cảm nhân ái (Compassionate Empathy)Đây là sự kết hợp của cả đồng cảm cảm xúc và nhận thức, kèm theo một mong muốn giúp đỡ.) 

Do vậy Đồng cảm có vai trò quan trọng trong giao tiếp và quan hệ con người, giúp xây dựng sự kết nối, hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Nó cũng là yếu tố then chốt trong nhiều lĩnh vực, từ tâm lý học, giáo dục, tôn giáo 

Mà muốn được có sự đồng cảm từ những lời khai thị , ta cần biết mình đang ở tầng nhận thức nào 

Mời xem chi tiết các tầng nhận thức : 

Tầng 1 nhận thức - (không có chính kiến của bản thân mình.) nên thường chịu rất nhiều rủi ro và sự đối xử không công bằng. Vì họ chưa nhận ra được giá trị của bản thân và không biết điều gì là phù hợp với mình.

Tầng 2 nhận thức -biết nghi ngờ, biết đặt câu hỏi để phản biện và dần tìm ra câu trả lời cho chính mình. Người ở tầng này là những cá thể sống có mục tiêu, có hướng tới trong cuộc đời. Họ biết mình muốn gì, cần gì và phải làm gì để đạt được điều đó, biết  điểm kiểm rà soát ngoại tại chuyển sang điểm kiểm rà soát nội tại. Tức là biết rằng bản thân họ không thể kiểm soát và bắt buộc mọi thứ xung quanh diễn ra theo đúng như mong muốn, nhưng họ là người có toàn quyền kiểm soát được suy nghĩ và cách lựa chọn để đối diện với hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, điểm hạn chế của những người ở tầng số 2 là mặc dù biết mình có khả năng ở trong thế chủ động, nhưng cảm xúc khó chịu, bực bội, đau khổ... khi mọi việc không diễn ra theo kế hoạch vẫn là điều không thể chối bỏ.

Tầng 3 nhận thức - Đây là quá  trình tiếp theo dẫn dắt dần dần bước vào con đường thức tỉnh tâm linh. Họ biết rằng thế giới không chỉ tồn tại dưới dạng hữu hình (Nơi mà chúng ta đang học tập, làm việc và sinh hoạt hàng ngày) và song song với nó hãy còn có 1  thế giới tồn tại dưới dạng tâm thức mà đôi lúc chúng ta được chỉ dẫn và hành động do trực giác hay linh tính mách bảo. 

Do vậy nếu lời khai thị đã làm “Thức tỉnh tâm linh “ thì đó phải chăng chính là một sự thay đổi sâu sắc trong ý thức hoặc nhận thức thực nghiệm về bản chất thực sự của người nghe  và bản chất của thực tại. 

Nó thường được mô tả như một trạng thái mở rộng nhận thức, tự do nội tâm và cảm giác kết nối sâu sắc với bản chất của cuộc sống. 

Về cốt lõi, sự thức tỉnh tâm linh liên quan đến sự thay đổi từ việc chỉ xác định với ý thức hạn chế về bản thân hoặc bản ngã đến việc nhận ra một khía cạnh sâu sắc hơn, rộng lớn hơn của con người chúng ta. Đó là một hành trình khám phá bản thân, siêu việt bản thân và khám phá bản chất cơ bản của sự tồn tại. 

Một điều chú ý người ở tầng nhận thức thứ 3 sẽ sớm có những tiểu ngộ trước khi bước vào tầng 4 nhận thức là ĐẠI NGỘ hay còn gọi là Giác Ngộ vì bấy giờ tính ích kỷ cũng được giảm bớt đi rất nhiều. Họ sẽ nhìn nhận cuộc sống một cách thoải mái, hạnh phúc và nhẹ nhàng hơn. Mọi thứ diễn ra dường như đều trôi chảy và thuận lợi đối với họ. 

Tại sao vậy? Bởi vì khi không còn tâm lý kháng cự, bản thân sẽ không hấp dẫn những điều tiêu cực vào cuộc sống nữa. Phản ứng tiêu cực tự động chính là một trong những lý do khiến chúng ta tạo nhiều quả xấu, đồng thời làm mất đi sự may mắn của chính mình. 

Có người sẽ sống xuôi theo dòng chảy của cuộc đời. Vì sau thời gian  trải qua một quá trình rèn luyện và phấn đấu. Đến đây, những tham vọng, mục tiêu, những mưu tranh hay toan tính đời thường không còn làm khó được họ nữa. 

Họ đạt đến trạng thái "go with the flow" - Buông bỏ và thả lỏng hoàn toàn. 

Họ nhận thức được rằng, không nhất thiết phải đua tranh, cũng không nhất thiết phải khẳng định hay tạo ra một thứ gì đó chỉ với mục đích để chứng minh MÌNH với THẾ GIỚI. 

Khi thấy được mọi hiện hữu diễn ra đều là “Pháp thuyết” 

Trong cuộc sống  hiện tại này , 

hãy trân quý, cám  ơn mọi NHÂN  DUYÊN 

Chỉ một lời khai thị giản dị, hoặc nhìn thấy thiên nhiên 

Sẽ bàng hoàng, xúc động vì phù hợp tầng nhận thức 

Và nhận ra chính do yếu tố 

niềm tin , thấu hiểu, trải nghiệm đồng cảm tương tức 

Đến từ trái tim và đi đến trái tim 

Cũng như phong thái bình thản, tịnh yên 

Biểu lộ từ đức khiêm cung, tấm lòng Bồ tát ! 

Ôi ! giá trị những lời khai thị bao la tỏa ngát 

Kết nối sâu sắc với kỷ luật tự thân 

Giúp phát triển nhân cách , tự do nội tâm 

Giúp duy trì sự kiên định, vượt qua thử thách 

Mời xem một danh ngôn từ Thiền Sư “Meister Eckhart” 


“Lời cầu nguyện mãnh lực nhất, gần như toàn năng, và công việc xứng đáng nhất trong tất cả là kết quả của một tâm trí tĩnh lặng. Càng tĩnh lặng nó càng mãnh liệt, xứng đáng, sâu sắc, hiệu quả, và hoàn hảo. Đối với một tâm trí tĩnh lặng, mọi thứ đều có thể. Một tâm trí tĩnh lặng là gì? Một tâm trí tĩnh lặng là một tâm trí không có gánh nặng, lo phiền, tự do khỏi mọi vướng mắc và mưu cầu cá nhân, hoàn toàn hiệp nhất với Thiên ý và từ bỏ mọi ý riêng.”

 

Lời kết :

Một khi hiểu được bản thân mình đang ở đâu và ở vị trí nào sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong công cuộc khám phá và phát triển nâng cao bản thân mình, và khi đó dù chỉ một câu nói bình dị cũng là một lời khai thị rất trân quý cho đời sống tâm linh mình.

 

Dù khó có thể đạt đến tầng nhận thức thứ tư trong kiếp này nhưng cũng xin  giới thiệu 

tầng nhận thức này —-đây là mức độ nhận thức tối cao nhất của con người,có thể nói những người đạt đến được cấp độ này cũng chỉ được đếm trên đầu ngón tay. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo, là những bậc giác ngộ. 

Họ hiểu được quy luật và cách thức vận hành của vũ trụ. Vũ trụ ở đây chính là con người, là thế giới vật lý, là thế giới trong tâm thức, là sự tồn tại của những linh hồn bậc cao... , không có sự tách biệt giữa cá thể này với cá thể kia. Tất cả mọi thứ đều được kết nối với nhau bởi một trường năng lượng. 

Cuối cùng xin được quý đạo hữu bạn đọc thông cảm cho những gì trình bày còn khiếm khuyết vì người viết đã tham vấn với AI và nhiều sưu tầm trên mạng thông qua cảm xúc của mình.

Kính trân trọng,  

PT  Huệ Hương 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 7428)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4667)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 6268)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 6340)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5603)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4903)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 5084)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4687)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 6245)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 7952)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]