Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xin Đừng Thổi Phồng Thời Mạt Pháp

30/06/202405:54(Xem: 873)
Xin Đừng Thổi Phồng Thời Mạt Pháp

Le Khai Mac_Khoa tu ky 17_24_12_2017 (1)Xin Đừng Thổi Phồng Thời Mạt Pháp

            Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp. Nhưng mấy lúc gần đây nhân lỗi lầm của một hai vị sư khi thuyết pháp đã dấy lên một làn sóng nói rằng Phật Giáo tiêu ma rồi, thời mạt là đây chứ còn đâu nữa khiến hàng Phật tử hết sức dao động và lo lắng. Thế nhưng tại sao giữa thời mạt pháp mà:

-Chùa Hoằng Pháp, Chùa Giác Ngộ liên tục tổ chức các khóa tu hoặc thuyết pháp hoặc giao lưu, xuất gia gieo duyên cho vài ngàn người, có khi lên tới cả chục ngàn bao gồm quý vị cao niên, thanh viên sinh viên và trẻ em?

-Chùa Đức Hòa thuộc Dĩ An, tỉnh Bình Dương liên tục tổ chức các buổi thuyết pháp, vừa thiền trà, vừa thảo luận cho mấy trăm sinh viên nam thanh nữ tú. Ngày xưa chưa mạt pháp, đi chùa chỉ có các cụ già gần đất xa trời. Ngày nay nam thanh nữ tú tới chùa tu học, nghe pháp và thiền trà - tức hạt giống Phật đã nảy mầm trong giới trẻ sao nói là mạt pháp?

-Chùa Vẽ quận Hải An, Hải Phòng với 600 bạn trẻ về tu Khóa Tu Mùa Hè năm nay. Mạt pháp sao tuổi trẻ yêu Phật Giáo và tới đông như thế?

-Rồi Tu Viện Quảng Đức và Giáo Hội Úc Châu hằng năm đều tổ chức nhiều khóa tu học cho Phật tử trên toàn liên bang Úc Châu. 

Phật Giáo hưng thịnh như thế sao nói là mạt pháp?

-Rồi Chùa Viên Giác ở Hannover, Đức “Là ngôi phạm vũ uy nghiêm của người Việt được thành lập đầu tiên tại Đức Quốc. Chùa là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa, xã hội của người Việt và người Đức tại Hannover. Hằng năm, số Phật tử và đồng hương người Việt về chùa tu học, nghe thuyết pháp, dự lễ hội … vào khoảng 80,000 lượt người, người Đức đến chùa sinh hoạt vào khoảng 40,000 lượt người.” (Thư Viện Hoa Sen) Phật Giáo nở hoa ở một quốc gia mà ngày xưa được gọi là “Trưởng nữ của giáo hội La Mã” sao nói là mạt pháp?

-Rồi Chùa Điều Ngự, một ngôi chùa có thể nói lớn nhất vùng Orange County, California là nơi tu học, giảng pháp cho cả chục ngàn Phật tử trong vùng và đã có lần thỉnh mời Đức Đạt Lai Lạt Ma tới thuyết pháp sao gọi là mạt thế được?

-Rồi Tử Đảm Hải Ngoại ở Texas, Tu Viện Kim Sơn ở Bắc California, cùng cả trăm ngôi chùa rải rác khắp nước Mỹ và Gia Nã Đại đã là chỗ dựa tinh thần, xuất gia, tu học cho cả triệu Phật tử giữa lúc lòng tin vào Tam Bảo mỗi lúc mỗi gia tăng trong cuộc sống tha hương đầy khó khắn,  vậy sao gọi là mạt pháp được?

 -Rồi cả mấy chục trang nhà Phật Giáo ở hải ngoại, nổi bật nhất là Thư Viện Hoa Sen với nhiều triệu lượt thăm viếng. Nó là mảnh đất quý báu để quý tăng/ni và thiện tri thức luận đàm và đóng góp trí tuệ của mình cho việc hoằng dương chánh pháp. Ngày xưa chưa mạt pháp, đâu có diễn đàn, đâu có báo chí. Trước 1975 Miền Nam có hai tờ Chánh Đạo và Hải Triều Âm của giáo hội sau cũng phải đóng cửa vì ít độc giả và chi phí quá lớn. Hoằng pháp lớn mạnh như thế sao nói là mạt pháp?

-Bao nhiêu căn nhà tình thương, cây cầu nhân ái cho các vùng quê nghèo, quán cơm chay miễn phí để giúp người nghèo mở ra khắp đất nước, chùa là quán trọ cho sĩ tử ở phương xa. Đây là điển hình nhất của tấm lòng từ bi thấm nhuần tinh thần cứu khổ của Đạo Phật, sao không thấy,  mà nói đó là mạt pháp?

            Lời mỉa mai, bôi lọ và thổi phồng thêm về thời mạt pháp của một số phần tử cực đoan đã phớt lờ những sự kiện thực tế. Họ lên án và buộc tăng ni phải theo lối sống cách đây 2600 năm, và không được phép thích nghi với thế hệ mới, cuộc sống mới.

-Trong khi số lượng Phật tử gia tăng gấp mấy chục lần ngày xưa. Cả triệu du khách ngoại quốc đến thăm mỗi năm. Không có những danh lam thắng cảnh để họ chiêm bái, kỷ niệm thì lại nói đất nước lạc hậu. Còn xây chùa to, Phật lớn để làm địa điểm du lịch tâm linh lại nói đó là mạt pháp. Đúng là giọng lưỡi thế gian, làm gì cũng bị chê trách.

-Ni sư nhận tiền để làm Phật sự, nuôi cô nhi, làm từ thiện, duy trì sự sống của chùa… là mạt pháp. Không nhận tiền cúng dường để chùa nghèo mạt rệp, ni sư phải đi xin ăn hằng ngày, chùa chiền mục nát rồi ngủ ở gốc cây, gò mả mới là tu theo chánh pháp.

-Phải ôm bình bát, đi lang thang, không chùa, không tịnh xá, không tu viện, không chỗ để giải quyết những nhu cầu tâm linh cho  Phật tử. Nếu không làm như vậy là không tu theo chánh pháp.

-Không được đi xe hơi hay máy bay dù xa ngàn dặm, mà phải lang thang đi bộ, đi chân đất…nếu không sẽ là không tu theo chánh pháp.

-Bệnh tật phải để cho chết như thế mới là tu theo hạnh đầu đà. Không được vào bệnh viện để chữa trị, nếu không sẽ là không tu theo chánh pháp.

-Cả trăm giảng sư tăm tiếng thuyết pháp không ngừng nghỉ hoằng hóa độ sinh ròng rã suốt nửa thế kỷ qua thì không khen ngợi, ghi công. Một hai vị nói năng thiếu cân nhắc hoặc sai chánh pháp thì thổi phồng lên nói, “Mạt pháp đây rồi”. Vua chúa còn có khi lầm, học giả uyên bác vẫn bị phê bình thì giảng sư có lỡ giảng bậy cũng là chuyện thường tình. Đó gọi là “human error” vì con người chưa thành Phật thì vẫn có lỗi lầm. Điều quan trọng không phải là lỗi lầm mà biết lỗi lầm có tu sửa hay không.

            Trong một bài viết của Sư Minh Tâm đăng trên trang Phật Giáo Việt Nam năm 2020 nói về thời kỳ mạt pháp như sau. Mạt pháp hay mạt thế không phải chỉ đến với sự tu hành và giáo pháp của Đức Phật mà còn đến với hiện tình của thế giới và con người. Khi đó:

- Chúng sinh chỉ tham tiền tài vật chất, tích lũy để làm giàu, cũng không tu phúc đức chân chính. Có kẻ còn bắt đầu buôn bán nô tỳ, bắt nô tỳ cày ruộng trồng trọt, sưu cao thuế nặng. Ngoài ra còn đốt phá rừng, làm tổn hại sinh mạng chúng sinh, không còn một chút thiện tính từ bi nào nữa.

- Khí hậu dị thường, thiên tai nhân họa xảy ra thường xuyên, nước hạn hán, ngũ cốc không chín, bệnh dịch làm chết nhiều người. Covid-19 lấy đi mấy triệu sinh mạng rồi lại còn cúm heo, cúm gà, cuồng phong, bão tố, lụt lội, bờ sông bờ biển sạt lở, địa cầu hâm nóng…là những minh chứng của thời mạt thế.

Còn trong hàng ngũ tăng ni:

-Trong thời mạt pháp, sẽ xuất hiện rất nhiều tăng nhân giả làm thiện tri thức đưa chúng sinh lầm đường lạc lối.

            Nhưng cuối cùng Sư Minh Tâm đã kết luận bằng một câu rất chí lý, “Xuất phát từ lòng từ bi với con người, Phật Thích Ca Mâu Ni đã đưa thiên cơ trọng yếu này vào các dự ngôn minh xác, lấy đó khải thị người đời sau phải sáng suốt để tự cứu, thoát khỏi kiếp nạn, và hướng về kỷ nguyên mới của lịch sử.”

            Đúng thế, theo Luật Vô Thường, Đức Phật vì lòng lân mẫn chúng sinh mà khuyên bảo, nhắc nhở tăng ni và Phật tử đời sau. Giống như cha mẹ, dù con cái đã lớn rồi, hễ đi đâu xa đều dặn, “Cần thận nghe con”. Đó là vì lòng thương của cha mẹ lúc nào cũng nghĩ đến con.

             Quý vị có đồng ý, chiếc xe hơi sẽ không bao giờ gây tai nạn khi nó chết hoặc nằm im một chỗ. Nhưng khi nó vượt qua vạn dặm thì nó có thể gặp tai nạn. Ngày xưa cả nước có vài trăm tăng ni và vài trăm ngôi chùa nhỏ, nhiều nơi là nhà tranh vách đất. Ngày nay theo thống kê, Việt Nam hiện có 18,491 ngôi chùa, tịnh xá, thiền viện, tịnh thất, niệm Phật đường, tu viện. Và có 54,773 tăng ni. Tín đồ chiếm 60% dân số. Với con số tăng ni lớn lao như thế làm sao tránh khỏi một số hư hỏng? Cai trị một tiểu quốc như Tân Gia Ba hay Monaco rất dễ, cai trị một nước 100 triệu dân thì khó vô cùng. Xin hãy dùng trí tuệ suy xét và cảm thông với những cái bất toàn trong tăng đoàn. Và dĩ nhiên giáo hội sẽ phải tu sửa. Theo Phật là hành trình tu sửa liên tục.

            Quả thật hễ nghe nói tới mạt pháp ai cũng sợ. Nhưng mạt pháp do chính chúng ta tạo ra. Nếu do chúng ta tạo ra thì chúng ta có thể lướt qua được. Bằng cách nào? Xin thưa bằng cách tu theo chánh pháp, tức tu theo lời Phật dạy.

            Trong pháp hội Viên Giác, ngài Phổ Hiền Bồ Tát đã thưa thỉnh Phật như sau, “Xin ngài nói cho các chúng bồ tát trong pháp hội và chúng sinh muốn cầu đại thừa thời mạt pháp, nghe cảnh giới thanh tịnh rồi làm thế nào để tu hành?” Phật đáp: “ Thiện nam tử, tất cả bồ tát và chúng sinh thời mạt thế phải xa lìa cảnh giới hư dối huyễn hóa.” (*) Đúng vậy, chính vì vọng chấp vào cảnh giới hư huyễn như tưởng rằng tiền bạc, danh vọng, địa vị đem lại hạnh phúc cho nên sinh tâm loạn động từ đó phá pháp, phá giới và đưa tới mạt pháp.

            Còn ngài Phổ Giác Bồ Tát cũng lo ngại về thời mạt thế cho nên cũng đứng dậy thưa thỉnh, “Bạch Thế Tôn, Chúng sinh thời mạt thế xa cách Phật dần, các hiền thánh ẩn phục, tà pháp càng thêm lên thì chúng sinh phải cầu hạng người nào? Y theo những pháp gì? Làm những hạnh gì? Từ bỏ bệnh gì? Phát tâm như thế nào để cho chúng sinh mù quáng khỏi bị tà kiến?”  Phật đáp, “Thiện nam tử, chúng sinh thời mạt thế nếu định phát tâm lớn thì cầu thiện tri thức. Nếu muốn tu hành phải cầu người có hiểu biết chân chính, tâm không trụ ở tướng, không chấp trược cảnh giới Thanh Văn Duyên Giác (tức tu hạnh A La Hán).” (*) Vậy thì rõ ràng, khi còn các thiện tri thức thì vẫn có thể cứu vãn được thời mạt pháp.Thiện tri thức ở đây không phải chỉ là các tu sĩ mà là các nhà trí thức, cư sĩ có tâm lớn, trí tuệ lớn và thông đạt đại thừa, “Dù hiện ở trần lao làm việc khó nhọc ở đời mà tâm thường thanh tịnh, thị hiện ra các lỗi lầm để tán thán hạnh thanh tịnh.” (*)

            Tóm lại, thiện tri thức trước biến động của thời cuộc thường tham chiếu Chánh Kiến và Chánh Tư Duy. Còn phàm phu bình dân thấy chuyện ồn ào thì làm cho ồn ào thêm để tỏ ra ta đây am hiểu thời thế và biết chuyện”. Còn kẻ làm truyền thông trên youtupe thì khai thác triệt để kiếm tiền. Tố cáo cái xấu có thể là người tốt nhưng chưa chắc là người tốt. Người tốt chắc chắn nhất là người làm việc tốtCho nên thiện tri thức rất thận trọng về lời nói và những gì viết ra. Thời mạt pháp đáng lo nhưng không đáng sợ khi nhớ lời dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh, “Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.”

            Chắc chắc chắn 100 năm nữa cốt tủy của đạo Phật vẫn còn nguyên, nhưng cách tu, cách sống của tu sĩ trên toàn thế giới sẽ lại thay đổi theo lời dạy “Tùy duyên nhưng bất biến”. Nó giống như người Việt bây giờ ăn mặc khác hẳn người Việt cách đây hơn một thế kỷ. Nhưng ngày nay đàn bà con gái có mặc váy đầm, đàn ông có mặc bộ com-lê thì vẫn là người Việt Nam. Cảnh của thế gian luôn luôn biến đổi nhưng dù có thay đổi thế nào đi nữa mà Tâm bồ đề kiên cố và sáng như gương thì Phật pháp vẫn trường tồn.


Thiện Quả Đào Văn Bình

(*) Kinh Viên Giác, bản dịch của cụ Thích Huyền Cơ , Hà Nội 1952

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2010(Xem: 3950)
Khi thấy những không gian ngập tràn sách trong ngày hội sách đang diễn ra ở nhiều thành phố lớn, lòng tôi rộn lên một niềm vui khó tả. Tôi bỗng nhớ về những ngày chật vật gom từng cuốn sách từ nước ngoài về Việt Nam, thời chúng ta còn hiếm sách.
27/12/2010(Xem: 4137)
Người dịch: Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đống góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó. Nội dung cuốn sách tập trung thảo luận về đạo đức học Phật giáo và liên hệ nó với những vấn đề đạo đức hiện đại như phá thai, hạn chế sinh sản, nghiên cứu phôi thai, trợ tử, việc kéo dài trạng thái sống thực vật.v.v… Cuốn sách cũng bàn đến vấn đề khi nào thì đời sống một con người được xem chính thức bắt đầu, và khi nào cái chết được coi chính thức xảy ra.
24/12/2010(Xem: 5298)
Phật giáo Việt-Nam trải qua nhiều bước thăng trầm. Đời Lý, Trần Phật giáo cực thịnh, là quốc đạo. Triều Lê Phật giáo bắt đầu suy vi. Đến triều Nguyễn Phật giáo sa sút, mất hẳn vị trí trong chính trị văn hóa và xã hội ở Việt-Nam.
19/12/2010(Xem: 4974)
Gần đây có người nói rằng Phật Giáo Đại Thừa là Bà La Môn Giáo, là tà ma ngoại đạo. Thật ra lời nói này không có gì mới lạ, nó đã có từ thời xưa, khi Phật Giáo đang ở trong thời kỳ phát triển. Tuy nhiên, nhằm tránh sự hoang mang cho những người mới bước chân vào đạo Phật và cho những Phật tử không có nhiều thì giờ nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai tôn giáo nên chúng tôi viết bài dưới đây. Chúng tôi không có ý so sánh hai tôn giáo lớn của nhân loại, vì việc làm này là của các nhà học gỉa, mà chúng tôi chỉ đưa ra vài điểm khác biệt quan yếu có tính cách nền tảng giữa đạo Phật nói chung, Phật Giáo Đại Thừa nói riêng so với Bà La Môn Giáo.
18/12/2010(Xem: 16060)
Nhận Xét Của Thượng Tọa Thích Đức Thắng Về Quyển Sách: Đường Về Xứ Phật Thích Thông Lạc
08/12/2010(Xem: 5365)
“Tăng ly chúng tăng tàn”, còn chúng tại gia ly chúng xuất gia thì ra sao? Thế nào là “cư sĩ ly tăng”? Đâu là nguyên nhân và đâu là cách giải quyết vấn đề? “Tăng ly chúng” là một vấn đề đã được bàn luận nhiều.
24/11/2010(Xem: 10695)
Mấy ngày qua, cả nước oằn mình trước sự tàn phá đầy tang thương của cơn bão Ketsana. Cũng thời điểm đó “cơn bão” bất khoan dung của chính quyền tỉnh Lâm Đồng kéo đến tu viện Bát Nhã, gây nên tình cảnh bất an cho khoảng 400 Tăng Ni tu theo pháp môn Làng Mai. Hai cơn bão đến cùng một lúc khiến cho lòng người Phật tử Việt Nam thêm quặn thắt.
23/10/2010(Xem: 4028)
"Chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".
16/10/2010(Xem: 4448)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
16/10/2010(Xem: 4693)
"Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]