Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trung Đạo Là Con Đường Đúng Đắn Nhất

02/06/202406:53(Xem: 987)
Trung Đạo Là Con Đường Đúng Đắn Nhất


phat thuyet phap

Trung Đạo
Là Con Đường Đúng Đắn Nhất


            Hiện nay hiện tượng hành giả Minh Tuệ đã đi vào thời điểm bùng nổ quá độ không sao kiểm soát được nữa. Đã có một người đàn ông 47 tuổi, từ Mỹ về hối hả tham gia cuộc đi bộ với hành giả Minh  Tuệ, say nắng, mệt lả và chết tại bệnh viện Quảng Trị. Rồi lại có những người quá ái mộ nói rằng hành giả Minh Tuệ đã thành Phật hay là một vị Phật sống. Có thật hành giả Minh Tuệ đã thành Phật rồi chăng?

             Phật là vị đại giác ngộ thầy dạy của cõi Trời và cõi Người trí tuệ tuyệt vời mà hàng Bồ Tát thượng thủ phải tới vấn hỏi để tu học. Kinh điển Phật để lại không một đại trí thức nào có thể hiểu hết và diễn đạt được cho dù có nghiên cứu cả đời. Ngoài 10 danh hiệu chỉ dành cho các vị Phật như Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Phật, Thế Tôn… Phật còn chứng đắc Lục Thông trong đó bao gồm: Thần Túc Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông ,Túc Mạng Thông, Thiên Nhãn Thông và Lậu Tận Thông và Tam Minh bao gồm: 1)Túc Mạng Minh: Tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống đã qua của mình và của tất cả chúng sinh. 2)Thiên Nhãn Minh: Tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống tương lai của mình và của tất cả chúng sinh diễn biến sinh diệt như thế nào. 3)Lậu Tận Minh: Tuệ giác sáng suốt nhận biết các pháp đoạn trừ phiền não mê lầm của mình và của tất cả chúng sinh để được an lạc. Ngoài ra theo các nhà nghiên cứu Phật giáo của Tây Phương, Đức Phật còn là người kể chuyện rất tài tình và đi trước kiến thức của nhân loại hơn 2500 năm.

            Chính vì thế mà chư Tổ tu hành cả đời, chứng đắc cũng chỉ là đệ tử của Phật mà thôi. Nếu có đắc quả phải được Phật công khai thọ ký. Ngay Đức Đạt Lai Lạt Ma tu hành từ lức năm tuổi được cả thế giới Tây Phương kính nể , đã gọi ngài là Phật Sống (Living Buddha) nhưng ngài nói rằng đừng có bậy bạ gọi tôi như vậy, tôi chỉ là đệ tử của Đức Phật. Do đó chúng ta phải hết sức thận trọng khi cho rằng một vị nào đó ôm bình bát, mặc áo bá nạp, tu theo khổ hạnh, đi dọc đường, khất thực và ngủ ở bờ bụi, gốc cây, gò mả….đã là Phật hoặc Phật Sống kẻo mang tội.  Cứ để yên cho họ tu đừng làm phiền họ, vài ba chục năm nữa sẽ biết có thành Phật với trí tuệ tuyệt vời chinh phục cả cõi Trời và Cõi Người hay không? Và có chuyển hóa dung mạo tầm thường thành  dung mạo với 32 vẻ đẹp hay không? Và vị Phật xuất thế này sẽ nói toàn giáo lý mới khác hẳn với giáo lý của Đức Phật Thích Ca làm cho cả thế giới kinh ngạc? Nếu nói toàn giáo lý cũ thì chỉ là học trò của một vị sa môn nào đó hay Phật tử có học kinh điển mà thôi.

            Cũng phải nói thêm, nếu tu khổ hạnh mà thành Phật thì năm anh em Kiều Trần Như đã thành Phật rồi. Cuối cùng họ phải từ bỏ và đi theo con đường Trung Đạo của Phật qua lời thuyết giảng, trong pháp thoại  “Chuyển pháp luân” tại khu Tiên Nhân Luận Xứ, trong rừng Thí Lộc, thuộc Ba-la-nại, “Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-Bàn. “          Theo một nghĩa của Trung Đạo thì trong đời sống tu hành khi theo một đường lối khổ hạnh cực đoan là sai lầm, đồng thời, buông mình vào chủ nghĩa khoái lạc, chạy theo các dục cũng là vô tri.   Người ta phải luôn đứng ở khoảng giữa, hay chính xác hơn là vượt thoát hai thái cực ấy mới phù hợp với nghĩa Trung Đạo.” (Thư  Viện Hoa Sen)

             Tu khổ hạnh phải chống lại những phản ứng tự nhiên của cơ thể như đói, lạnh, ngủ nghỉ, cơ thể cần vệ sinh, đánh răng xúc miệng thường xuyên, nếu không cơ thể và miệng sẽ ghẻ lở, hôi thối, răng sớm rụng, khiến đầu óc cứ bị quấy nhiễu bởi những định luật vật lý của cơ thể, khó có thể đại định để phát triển trí tuệ. Hành giả tu khổ hạnh ở tuổi 40, 50 còn có thể chịu đựng được. Qua tuổi 60 chắc chắn sức khỏe suy yếu, không thể đi bộ đường xa, ngủ ngồi… và phải bỏ cuộc xin tá túc ở chùa như chuyện của một vị sư tu hạnh Đầu Đà trước năm 1975 do thầy Thích Chân Tính (Chùa Hoằng Pháp) kể lại.

            Giả dụ như hành giả lâm trọng bệnh, phải vào bệnh viện để chữa trị. Liệu hành giả có thể nại cớ tôi tu theo hạnh Đầu Đà, thà chết chứ không thể nằm ở bệnh viện? Theo một tài liệu mà Cư Sĩ Nguyên Giác thu thập được, khi Đức Phật lâm bệnh,  Jīvaka (Pali: Jīvaka Komārabhacca; tiếng Phạn: Jīvaka Kaumārabhṛtya)[3] là bác sĩ riêng của Đức Phật và Vua Ấn Độ Bimbisāra, được gọi là Y Vương. Ông sống ở Rājagṛha, Rajgir ngày nay, vào thế kỷ Thứ V trước Tây Lịch. Một ngày ông đến thăm sức khỏe của Phật ba lần và ông rất lo lắng cho sức khỏe của Đức Phật. Ngay Đức Phật khi lâm bệnh cũng phải nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng và có bác sĩ chăm sóc, huống gì đời thường, xác phàm như chúng ta. Một ngày đi bộ ba bốn chục cây số, tối về mệt mỏi, lăn ra ngủ như một xác chết, thời giờ đâu để ngồi Thiền để an trụ tâm và phát triển trí tuệ? Chọn con đường cực đoan thì nổi tiếng nhưng không đi tới đâu hết. Nếu nói về khổ hạnh thì không ai qua nổi đất nước Ân Độ với cả trăm loại khổ hạnh, thấy mà nổi da gà…nhưng có ai thành Phật đâu ngoại trừ Đức Thích Ca Mâu Ni đi theo Trung Đạo.

             Trong Bát Chánh Đạo thì Phật tử và tu sĩ phải biết thế nào là Chánh Mệnh, tức yêu mến thân mệnh này, tránh xa hai cực đoan mê đắm nhục dục và hành xác. Không thể nào có được đầu óc minh mẫn trong một cơ thể bệnh tật, yếu đuối. Khi sắp chết, vì thân xác vô cùng yếu đuối cho nên con người lúc đó thường mê sảng và lú lẫn, nhiểu khi chỉ thều thào, nói không ra lời. Vậy thì Trung Đạo là con đường đúng đắn nhất. Hãy tin vào lời Đức Phật là bậc Toàn Thiện, Toàn Trí và Toàn Giác.

            Bài viết này còn hết sức thô thiển, chỉ nói lên phần nào những điểu kiện vật chất lẫn tinh thần và tu như thế nào trong nhiều đời, nhiều kiếp để thành Phật. Kính cẩn.

                                                                             Thiện Quả Đào Văn Bình 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 7438)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4667)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 6269)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 6341)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5603)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4904)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 5086)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4688)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 6249)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 7967)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]