Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Trung tướng Trần Văn Đôn: Nguyên nhân và Biến cố 1-11-1963

02/11/201817:20(Xem: 10513)
05. Trung tướng Trần Văn Đôn: Nguyên nhân và Biến cố 1-11-1963

Trung tướng Trần Văn Đôn: Nguyên nhân và Biến cố 1-11-1963.

by tienglongta

     Trần Văn Ä Ã´n.jpg

Tác giả Trung tướng Trần Văn Đôn



Lời Tòa Soạn:
 Hàng năm, trước ngày 1 tháng 11, ngày đánh dấu sự xụp đổ chế đô Độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm vào thời Đệ I Cộng Hòa, người ta lại thấy có những làn sống giao động kẻ binh người chống gây ra sự phân hóa trong Cộng đồng người Việt, mà quên đi vấn nạn đất nước giặc Tàu xâm lăng. Thực tâm nhóm chủ trương Tiếng Lòng Ta không muốn nhắc tới sự kiện này, nhưng có một sô quý vị Hoài Ngô đã bôi bẩn lịch sử, đổ tội cho sự tranh đấu Phật Giáo là nguyên nhân đưa đến sự cưỡng chiếm Miền Nam của Cộng sản Bắc Việt vào ngày 30-4-1975, đo đó, buộc lòng chúng tôi phải đưa lên hồi ký của Trung tướng Trần văn Đôn, một nhân vật trọng đại trong hàng ngũ tưởng lãnh đã lật đổ chế độ Gia đình trị Ngô Đình Diệm và cũng để cho đọc giả và nhất là giới trẻ được am tường về một sự thật.

Lịch sử là  những trang sư sách thiết tưởng không ai có thể chối bỏ, rồi đây những trang sử sách sẽ ghi lại đầy đủ về thời Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, là một vị nguyên thủ quốc gia mang tinh thần “kỳ thị tôn giáo” áp lục bằng Đạo Dụ Số 10, chỉ có Thiên Chúa Giáo mới được xem là một Tôn giáo duy nhất, còn tất cả các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo và ngay cả Phật giáo Việt Nam với hơn 80% tín đồ vẫn chỉ xemmột hiệp hội, như Hiệp hội đáng giày, Hội Phụ nữ, Hội Tennis...

Chúng ta trốn tránh Cộng sản, vì người Cộng sản chủ trương Tam vô; Vô gia đình, Vô tôn giáo, Vô tổ quốc. Mà Tôn giáo, Tổ Quốc, Gia Đình là những tiềm tàng trong tâm linh con người không thể quên, vì thế mà làn sóng người tỵ nạn Cộng sản đã bất chấp mọi hiểm nguy vượt biên, vượt biển tìm tự do. Nơi đất khách quê người đã tỏ bày cho thế giới về ý nghĩa hai chữ Tự Do thật quý gia, trong đó có Tự do đối với niềm tin tôn Giáo chính mình.

Một vị lãnh đạo quốc gia như Tổng Thống Ngô Đình Diệm đặt Thiên Chúa Giáo của ông lên trên sự tự do tín ngưỡng của người dân, thì không thể xem là một vị Tổng Thống anh minh được- Tiếng Lòng Ta.

Trần Văn Đôn

Lần thứ nhất, Tướng Nguyễn Văn Hinh cuối năm 1954 bao vây Dinh Độc Lập, chiếm đài phát thanh, chỉ hằng ngày cho phát thanh chửi rủa gia đình họ Ngô nhưng không làm gì hơn nữa nên người ta gọi “đó là cuộc đảo chánh rùa bò”.

 Lần thứ hai, Tướng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh ngày 1.1.1955.

 Lấn thứ ba, ông Hà Minh Trí (Cao Đài) ám sát hụt Tổng Thống Diệm ngày 21.2.1957 tại Hội Chợ Buôn Mê Thuột.

 Lần thứ tư, Đại Tá Nguyễn Chánh Thi và Đại Tá Vương Văn Đông với cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 - mà Trung Tá Nhảy Dù Phan Trọng Chinh khi đứng trước  vành móng ngựa đã dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chỉ huy, tôi đã đánh rốc vào dinh Độc Lập đêm 11.11. chứ không chần chờ bỏ lỡ cơ hội”.

 Lần thứ năm, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lái chiến đấu cơ giội bom xuống Dinh Độc Lập sáng ngày 27.2.1962.

 Lần thứ sáu, đảo chánh thành công bởi một tập đoàn Tướng, Tá và binh sĩ- hùng hậu nhất từ trước, bắt đầu từ chiều ngày 1.11.1963 đến sáng ngày 2.11.1963 thì kết thúcTrung Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH dưới thời ông Diệm, qua hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, Xuân Thu, USA, 1989, từ trang 171 đến 179, ông viết trong lúc mà hầu như mọi Tướng Lãnh quân nhân QLVNCH đều còn sống và phần đông là có mặt tại Hoa Kỳ:

tuong-Le-van-TyĐại Tướng Lê Văn Tỵ (Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH )

“Đại Tướng Lê Văn Tỵ (Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH – tqd) đi Mỹ chữa bệnh. Đến ngày 19 tháng 8 năm 1963, ông Diệm chỉ định tôi chức quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, rồi ông Nhu ra lịnh tấn công chùa để cho tôi và quân đội chịu trách nhiệm. Dĩ nhiên sự việc đó làm cho dư luận trong và ngoài nước kết án quân đội mà người đứng mũi chịu sào là tôi”.

diem_nhu_1

Cố vấn Ngô Đình Nhu và Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Chiều ngày 20 tháng 8, ông Ngô Đình Nhu mời tôi, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Quân trấn Sài gòn, và Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng giám đốc Công an Cảnh sát, đến dinh Độc Lập ra lịnh: “Tối nay sẽ bắt các sư sãi cộng sản.”220px-Le_Quang_Tung

<Đại tá Lê Quang Tung

Đêm 20 tháng 8, lợi dụng lịnh giới nghiêm, dinh Độc Lập ra lịnh riêng cho Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt cùng Cảnh Sát Đặc Biệt của Dương Văn Hiếu, Mật vụ và Cảnh sát chiến đấu của ông Trần Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành bao vây tấn công các chùa trong đô thành để bắt các Thượng tọa, Đại đức, Tăng ni và Phật tử.

Lực Lượng Đặc Biệt là một tổ chức của quân đội, được thành lập từ năm 1956 gồm gần 10 Đại Đội (mỗi đại đội 120 người), võ trang súng ống tối tân nhất, được huấn luyện kỹ như Nhảy Dù, bơi lội, đột kích sau lưng địch… Một số ít chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt này đã từng nhảy dù ra Bắc để hoạt động, vì vậy nên được lựa chọn rất kỹ, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn. Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy lực lượng này.

Nghe lịnh tấn công chùa như vậy, chúng tôi biết là việc này sẽ làm suy sụp thêm cho chế độ nhưng không thể can gián được. Đêm đó, tôi và Trần Thiện Khiêm theo dõi tại bộ Tổng Tham Mưu trên máy riêng Motorola của Cảnh sát nên chúng tôi biết cuộc tấn công này do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy tổng quát.

Tôi và ông Khiêm lấy xe đến chùa Xá Lợi vào khoảng 1 giờ khuya. Đến nơi tôi thấy đèn còn bật sáng, cảnh sát còn đi qua lại. Bước vào chính điện, tôi giở mũ, ông Khiêm cũng giở theo. Lính cảnh sát thấy vậy cũng giở mũ và đứng im. Tôi hỏi:

- Quý Thầy đâu hết rồi?

Họ nói dẫn qua Phú Nhuận, còn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết thì được đưa về cơ quan tình báo của Đại Tá Nguyễn Văn Y.

httinhkhiet

Tôi ra lịnh họ tắt đèn đóng cửa lại, đừng làm mất trang nghiêm nơi thờ phượng. Dặn xong chúng tôi ra về, đến cơ quan của Đại Tá Y. Ông Y cho biết Hòa thượng rất mệt, mai sáng phải cho vô bịnh viện quân sự Cộng Hòa. Chúng tôi trở ra đi thẳng đến dinh Gia Long. Lúc đó khoảng 3 giờ sáng. Gặp ông Nhu, ông ta bảo ra lịnh thiết quân luật. Lịnh này ban ra là có ý đổ trách nhiệm tấn công chùa cho quân đội, tôi hiểu ý của ông Nhu nhưng im lặng thi hành.

Lúc 5 giờ sáng, ông Diệm tập hợp Nội Các chánh phủ để trình bày sự việc. Ngay trong phiên họp đó, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu từ chức để phản đối sự đàn áp Phật giáo của anh em ông Diệm. Sự từ chức nầy của ông Mẫu làm thế giới xôn xao, Phật tử xúc động, dân chúng cảm phục một người đã thẳng thắn từ bỏ chức vụ để phản đối hành động bất công và tàn bạo.

Lúc đó ông Trần Văn Chương đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, bà Chương là Quan sát viên cho Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hiệp Quốc, nhận thấy anh em Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, con gái mình tiếp tay phát ngôn hỗn xược mà mình không thể can ngăn được nên cả hai ông bà đều từ chức.

Sự từ chức của ông Mẫu và ông bà Trần Văn Chương là những ngọn đòn đau đớn cho anh em nhà họ Ngô.

Giới nghiêm là hạn chế sự lưu thông về đêm, còn Thiết quân luật là phải đem quân đội ra đường canh gác. Mỗi thứ phù hợp với một tình trạng mà Thiết quân luật chỉ áp dụng khi thật sự nguy hiểm cho nước nhà. Bởi vậy nghe lịnh Thiết quân luật, các tướng ngơ ngác.

Ngày 21 tháng 8, đài VOA loan tin quân đội nghe theo lịnh Tổng Thống đi tấn công chùa. Tôi không biết làm sao cải chính tin đó với đài VOA nên tôi cho Đại Úy Lê Văn Khấn, sĩ quan tùy viên của tôi đi mời ông Conein, sĩ quan CIA quen tôi từ năm 1946 ở Hà Nội hiện đang ở góc đường Công Lý và Nguyễn Đình Chiểu đến Bộ Tổng Tham Mưu gặp tôi đêm đó. Ông Conein sợ tôi gài bẫy nên mang theo súng tùy thân.

Chín giờ tối, ông Conein lại, chúng tôi cho biết quân đội không tham gia trong việc tấn công các chùa như đài VOA đã loan tin để ông Conein về trình lại đại sứ Mỹ. Ông Conein hỏi: “Các tướng lãnh Việt Nam có ý định đảo chánh không?” Tôi trả lời: “Chuyện này rất quan trọng sẽ nói sau.” Rồi ông Conein ra về.

Hai hôm sau đài VOA cải chính, nói rõ là quân đội Việt Nam không tấn công chùa. Ông Nhu nghe tin cải chính nầy rất tức giận, buộc mấy ông tướng phải họp lại (cái này thì quả nhiên là độc tài gia đình trị chứ còn gì nữa? – tqd), tuyên bố đứng sau lưng Tổng Thống và tôi phải ra nhật lịnh nói rằng quân đội có tham gia việc đó. Tôi phải tuân lời. Tuân lời ra nhật lịnh kêu gọi quân đội xiết chặt hàng ngũ sau lưng Ngô Tổng Thống thì được, nhưng nói làm sao cho anh em quân nhân và đồng bào hiểu mình đang tìm cách hạ một chính quyền đang bị dân oán hận!  Tôi ra lịnh cho Đại Úy Phạm Văn Túy, tín đồ Thiên Chúa giáo đang làm việc ở văn phòng tôi thảo nhật lịnh. Cùng tâm trạng như tôi và hiểu ý tôi nên Đại Úy Túy viết đoạn chót mà tôi rất hài lòng:

Cuộc chiến đấu rất nhiều gian khổ, thử thách lòng hy sinh của chúng ta cho chính nghĩa và Tổ quốc. Chúng ta phải cương quyết giữ vững ý chí, chủ động trên khắp các lãnh vực đấu tranh. Tôi (“Tôi” ở đây là Trung Tướng quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Văn Đôn – tqd) luôn luôn ở bên cạnh các anh em. Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.

Báo chí lúc ấy bất bình hành động của ông Ngô Đình Diệm và vợ chồng Ngô Đình Nhu có mấy tờ in đậm câu chót trong nhật lịnh nên nhiều người đọc tinh ý sẽ hiểu câu: “Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.

(…)

Việc một nữ sinh (Quách Thị Trang – tqd) bị bắn chết (sáng ngày 25.8.1963 trước chợ Bến Thành, Sài gòn – tqd) DieuNghiemQuachThiTrang_01làm cho chúng tôi thấy hổ thẹn với quần chúng khi khoác áo quân nhân ra đường. Việc Phật tử bị giam cầm làm cho tôi có mặc cảm tội lỗi. Nói làm sao cho dân chúng hiểu được rằng chúng tôi không làm việc đàn áp đó, chúng tôi không chủ trương giết người biểu tình bất bạo động, chúng tôi không đồng ý bắt giam người như vậy? Nhưng chúng tôi cúi đầu nhẫn nhục chờ ngày không xa chúng tôi sẽ trả lời với mọi người bằng hành động.”

Ngày 22 tháng 8, tôi đến thăm Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Với giọng nói mệt nhọc, ngài hỏi:

- Tại sao lại đánh chúng tôi?

Nghe hỏi tôi xót xa quá, nhưng không biết trả lời sao!

Vì thiết quân luật, chúng tôi ở trong trại không về nhà, nhiều anh em cũng như tôi nhận những cú điện thoại trách móc của vợ, không những chỉ các gia đình theo đạo Phật mà người phụ nữ thuộc các tôn giáo khác cũng có người trách chồng sao lại tham gia vào việc đàn áp Phật giáo… Đại Tá Trần Ngọc Huyến, một tín đồ Thiên Chúa giáo, người ủng hộ ông Diệm hết tình cũng chống vấn đề đàn áp Phật giáo đó của anh em ông Diệm.

Những gì chúng tôi nung nấu từ đầu năm 1960 đến nay đã đến lúc phải bộc phát. Những độc tài, bất công, đàn áp của chính quyền mà suốt mấy năm trời chúng tôi bất bình đến nay phải bùng nổ. Những chuẩn bị từ lâu nay đến lúc phải thi hành.” (bằng vào 1 giờ 30 chiều ngày 1.11. 1963 – tqd).

Ông Nhu đã tỏ vẻ coi thường khi nhận được báo cáo đầu tiên về những đoàn quân tiến về dinh Tổng Thống. Ông tin rằng việc tấn công nầy nằm trong chiến lược của ông nhằm phát giác và tiêu diệt những người đối nghịch của ông.

Theo kế hoạch của ông Nhu thì vài đơn vị trung thành của ông sẽ chiếm vài nơi trọng yếu tại thủ đô. Lúc đó ông và ông Diệm sẽ bay ra Vũng Tàu. Chỉ vài ngày sau, tình trạng lộn xộn và không luật lệ đó sẽ mở ngõ cho kẻ thù của chính quyền vào. Các đơn vị trung thành với chế độ đánh chiếm lại. Lúc đó quân phản loạn của Mỹ sẽ bị sập bẫy chết trong đô thị nầy (Sài Gòn – tqd).

Một việc không may cho anh em nhà Ngô là ông Nhu đã nhờ Tướng Tôn Thất Đính thực hiện kế hoạch nầy. Trước đó (cũng trong chiều ngày 1.11.1963 - tqd) ông Nhu có điện thoại cho ông Đính nhưng không gặp. Sau đó ông ta có liên lạc với vài tướng lãnh mà ông nghĩ trung thành với chế độ, nhưng cũng không gặp ai cả. Lúc đó, ông mới biết là đảo chánh có thật” - (Trần Văn Đôn, Sđd, tr 270).

Đến 3 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 11, Tổng Thống Ngô Đình Diệm điện thoại cho tôi lần đầu tiên và hỏi:

- Các anh làm gì đó?

- Thưa cụ, quân đội đứng lên đáp lại lòng mong mỏi của dân. Chúng tôi yêu cầu Cụ từ chức vô điều kiện. Chúng tôi sẽ lo cho Cụ và gia đình đi ngoại quốc.

Ông Ngô Đình Diệm hỏi tiếp:

- Tại sao các anh làm như vậy?

- Vì chúng tôi yêu cầu đã nhiều lần mà Cụ không chịu thay đổi gì hết. Xin Cụ cải tổ chính phủ, chấm dứt đàn áp Phật giáo và ngày hôm qua tôi có gặp Cụ thì Cụ cũng cương quyết không thay đổi.

- Nói vậy chứ tôi định ngày nay tuyên bố cải tổ chính phủ. - (Y như con nít? – tqd).

- Thưa Cụ muộn quá rồi.”  Đây có Trung Tướng Dương Văn Minh xác nhận lời nói của tôi.

Tôi chuyển điện thoại cho Trung Tướng Dương Văn Minh.

Khi điện đàm, các tướng tá đang đứng ngồi xung quanh nên chúng tôi nghe Trung Tướng Minh nói:

- Chúng tôi chịu đựng từ mấy năm nay rồi. (Chứ không phải khởi sự từ biến cố triệt hạ cờ Phật giáo và đàn áp giết chết Phật tử đêm 8.5.1963 - tqd).

image025

Đậi tá Đỗ Mậu, Trung Tướng Dương Văn Minh, Thiếu tướng Tôn Thất Đính

Rồi ông nói tiếp:

Anh em chúng tôi có mặt ở đây là… Trung Tướng Dương Văn Minh.

Nói đến đây, ông Minh đưa cho từng người hiện diện xưng cấp bực và tên họ của mình, rồi lần lượt các vị như:

- Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ,

- Thiếu Tướng Lê Văn Kim,

- Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm,

- Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm,

- Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là,

- Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu,

- Thiếu Tướng Trần Tử Oai,

- Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân,

- Thiếu Tướng Nguyễn Giác Ngộ,

- Đại Tá Nguyễn Đức Thắng,

- Đại Tá Đặng Văn Quang,

- Đại Tá Nguyễn Văn Chuân,

- Đại Tá Nguyễn Khương,

- Trung Tá Nguyễn Văn Thiện,

- Trung Tá Lê Nguyên Khang.

Sau đó, ông Ngô Đình Nhu xin nói chuyện với tôi:

- Tại sao các anh lại phải đánh, có việc gì không bằng lòng thì nói với nhau (Ở đó mà “nói với nhau”! Nếu “có gì không bằng lòng thì nói với nhau” thì ông Nhu đã không thể đe dọa “những Tướng nào mà âm mưu đảo chánh thì sẽ treo cổ nó trên đường Công Lý” và; không thể có chuyện như bắt cóc thủ tiêu man rợ bằng hình thức dìm hai ông Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia xuống lòng sông Nhà Bè? - tqd). Sao mà thiếu tình như vậy? (Tình? đối với Đảng Cần Lao, những Mật vụ, hành xử người dân qua cái gọi là “phong trào tố Cộng”, việc triệt tiêu đối lập, thanh trừng các chính khách v.v… là những điều mỉa mai, cay đắng nhất suốt khung thời gian mà nhà Ngô cầm quyền! – tqd). 

Tôi trả lời:

- Chúng tôi hành động như vậy chỉ vì ý dân. Hôm qua, chính ông Cố Vấn đã nói với tôi rằng ông Cụ không chịu thay đổi gì hết, và sau đó ông Cụ đã xác nhận với tôi là tình hình tốt đẹp (“tốt đẹp” trong việc đi đêm với Bắc Việt, dùng gián điệp VC vào dinh Tổng thống, vào chức vụ Tỉnh trưởng, dùng nhà ông Tàu Mã Tuyên liên lạc với MTGPMNVN, đàn áp khốc liệt Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…nhưng “tố Cộng” giết người thì cứ làm, cứ ra tay? – tqd) không cần thay đổi gì hết…

Thôi được! Mời mấy anh lên đây (dinh Gia Long – tqd) thương thuyết với chúng tôi. Tôi sẽ bảo đảm an ninh cho các anh.

Tôi chuyển lời mời lên thương thuyết của ông Nhu với các anh em hiện diện để biết ý kiến, đa số các anh em lắc đầu không đồng ý vì nhớ lại cuộc đảo chánh năm 1960, ông Diệm ông Nhu nói thương thuyết, thỏa thuận nhưng đó chỉ là cớ kéo dài để chờ quân tiếp cứu (đích thực là thế chứ không thể có chuyện “Tổng thống không cho quân đội đánh nhau với quân đội” bao giờ, và, việc xỉ gạt đó - 1960, na ná cái họa vua U Vương bên Tàu vào hồi nhà Chu đốt Lộc Đài ở Trung nguyên báo động giả cho chư hầu kéo quân về triều ca cứu giá để cho Bao Tỷ và Muội Hỷ cười! – tqd).

Tôi trả lời với ông Nhu:

- Các Tướng Tá ở đây không một ai đồng ý lên thương thuyết, vì biết đây là một cớ hoãn binh, một cái bẫy mà thôi.

 “Cũng trong lúc 4 giờ chiều, các sĩ quan cao cấp vào thêm Bộ Tổng Tham Mưu như Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Đặng Thanh Liêm, Đại Tá Bùi Hữu Nhơn…

Để yểm trợ cho đoàn quân tấn công thành Cộng Hòa, tôi cho hai khu trục phát xuất từ căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất bay lên bắn yểm trợ cho Bộ Binh.

Các Tư Lệnh Vùng I và Vùng II gọi về báo cáo tình hình và tôi cũng cho biết tình hình thủ đô.

Đến 6 giờ chiều ngày 1 tháng 11, Thiếu Tướng Đính đang chỉ huy tấn công các công sở cho tôi biết ông đã giải thoát nam nữ sinh viên, học sinh bị giam giữ vì tham gia biểu tình phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo. Tôi yêu cầu cho chở tất cả anh em vào bộ Tổng Tham Mưu gặp chúng tôi.

Đến 7 giờ 30, các anh em sinh viên học sinh được giải thoát vào thẳng bộ Tổng Tham Mưu. Nghe tin, chúng tôi xuống tiếp họ.

Vừa xuống cầu thang, chúng tôi nghe tiếng một anh sinh viên (Về sau chúng tôi biết là anh Nguyễn Hữu Đống, sinh viên Kiến trúc) hô to:

- Anh chị em! Quỳ xuống lạy các tướng lãnh đã cứu mạng chúng ta!

Thấy họ sắp quỳ, chúng tôi vội la to:

- Thôi! Thôi! Đừng…

Chúng tôi không nói thêm được gì vì trước cảnh nầy ai cũng quá cảm động, chảy nước mắt.

Nguyễn Hữu Đống đại diện anh em bày tỏ lòng biết ơn và niền hân hoan vui sướng vì quân đội lật đổ được chế độ độc tài tàn ác của gia đình họ Ngô. Giọng anh phát biểu có lúc hét lên như trút uất hận, có lúc hùng hồn đanh thép, lúc lại run run vì cảm động”.

Về sau chúng tôi nghe một vài nhân chứng đi sát với ông Diệm và ông Nhu như Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên, Đại úy An, sĩ quan cận vệ cho biết:

- sau khi nói chuyện với đại sứ Mỹ Cabot Lodge vào lúc 3 giờ chiều ngày 1.11.1963,

- sau khi nói chuyện với tôi (Trần Văn Đôn) và ông Minh,

- sau khi biết hầu hết các cấp chỉ huy cao cấp trung thành với ông đã bị bắt,

- sau khi biết hầu hết quân đội theo lịnh của các tướng lãnh đảo chánh và không có Vùng Chiến Thuật nào gởi quân tiếp cứu,

- sau khi biết quân đảo chánh đang đánh thành Cộng Hòa và sẽ tập trung tất cả quân lực đánh dinh Gia Long,

Hai ông ấy (Diệm, Nhu) quyết định đi ra khỏi dinh Gia Long.” (Trần Văn Đôn, Sđd, từ trang 221 đến 225).

Về phía dân chúng đồng bào:

Không phải đợi đến sáng ngày 2 tháng 11, dân chúng mới tràn ra đường, mà mọi người đã ra đường hoan hô quân đảo chánh ngay trong lúc súng nổ, trong lúc tấn công thành Cộng Hòa.

Đêm 1 tháng 11, chúng tôi ra lịnh giới nghiêm từ lúc 8 giờ tối tới 6 giờ sáng, vì không cho dân chúng ra đường sợ lạc đạn, vậy mà đồng bào vẫn ra đường theo sau quân đảo chánh để ủng hộ tinh thần. Sáng ngày 2 tháng 11, dân chúng Sài gòn tràn ra đường vui mừng hoan hô Quân Đội đã lật đổ một chế độ độc tài gia đình trị. Chúng tôi không làm sao quên được những nét mặt hân hoan, những đôi mắt ngời sáng, những cánh tay đưa cao và những tiếng hoan hô quân cách mạng vào ngày 2 tháng 11 đó.”

Trần Văn Đôn

Trích nguyên văn!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2011(Xem: 4668)
Sách vở, báo chí, dân chúng ở miền Nam trước đây gọi chế độ ông Diệm là độc tài, hoặc độc tài gia đình trị. Dictature, despotisme, tyrannie, autocratie, despotisme oriental ... tất cả những khái niệm chính trị đó của phương Tây đều có thể áp dụng được - và đã áp dụng - cho chế độ Ngô Đình Diệm. Tôi dùng chữ "toàn trị" ở đây trước hết là để nhấn mạnh một trong hai tiêu chuẩn chính mà Hannah Arendt đã dùng để định nghĩa khái niệm totalitarisme : ý thức hệ. Chế độ ông Diệm đã khẩn trương dựng lên từ đầu và càng ngày càng bắt dân chúng nuốt một thứ chủ nghĩa mà chẳng ai hiểu là gì : chủ nghĩa nhân vị.
14/06/2011(Xem: 7470)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4741)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 6333)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 6393)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5646)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4935)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 5145)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4716)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 6285)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]