Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguy Cơ Khác Biệt Tôn Giáo

05/03/201814:35(Xem: 5357)
Nguy Cơ Khác Biệt Tôn Giáo

ton giao
Nguy Cơ Khác Biệt Tôn Giáo



Báo Washington Post ngày 9/9/2017 đưa tin, Liên Hiệp Quốc nói rằng trong hai tuần qua, số người trốn chạy bạo động, vượt biên vào Bangladesh đã lên tới con số báo động là 270,000 người. (Ngày nay đã lên tới 700,000 người)  

Theo hãng thông tấn AP ngày 11/9/2017, chính phủ Bangladesh đã bằng lòng cung cấp đất để làm trại tạm trú cho 313,000 người tỵ nạn Rohingya đã tới đây từ 25/8/2017. Bà San Suu Kyi- lãnh đạo Miến Điện trên thực tế - sẽ không tham dự Đại Hội Đồng LHQ kéo dài từ 13/9/2017 tới 25/9/2017 nại lý do an ninh của đất nước. Bà đang bị chỉ trích về cuộc trốn chạy của người Hồi Giáo Rohingya.

Khác biệt tôn giáo, cùng tôn giáo nhưng khác hệ phái, khác biệt chủng tộc… khó lòng  sống chung với nhau đang là vấn nạn toàn cầu. Đông Timor năm 2002 tách ra thành lập một quốc gia riêng vì đa số theo Thiên Chúa Giáo do di sản của Thực Dân Bồ Đào Nha để lại. Nam Sudan tách ra thành lập một quốc gia riêng năm 2011 cũng chỉ vì Nam Sudan đa số theo Thiên Chúa Giáo. Kosovo tách ra khỏi Serbia năm 2008 vì vùng đất này 90% là Hồi Giáo.
            Ngay khi cùng thờ chung một Thượng Đế cũng không thể chung sống, chẳng hạn như Bắc Ái Nhĩ Lan mà đa số là Ca Tô Giáo La Mã đã tách ra khỏi Ái Nhĩ Lan mà đa số là Tin Lành. Nếu vấn đề Rohhingya không được giải quyết bằng phương thức hòa bình, dưới áp lực của các siêu cường, Bang Rakhine có thể sẽ ly khai và trở thành một quốc gia riêng trong lòng Miến Điện. Kịch bản để tiến đến mục tiêu này là nhân danh Liên Hiệp Quốc hoặc đơn phương, hoặc NATO+Mỹ sẽ thiết lập một Vùng Cấm Bay, tiêu diệt tất cả mọi tiềm lực của Miến Điện, sau đó đem lực lượng gìn giữ hòa bình tới đây mà quân Mỹ là chủ lực để thành lập một quốc gia riêng cho người Rohingya.

Nếu người Hồi Giáo Rohingya sống rải rác trên Miến Điện thì nó không tạo một áp lực chính trị lên chính quyền trung ương. Chính vì họ sống tập trung tại Rakhine cho nên sớm muộn gì họ cũng đòi tự trị và sau đó thành lập quốc gia riêng. Nói mà không sợ sai lầm, chỉ cần nước Mỹ này 30% dân số là người Hồi Giáo sống tập trung, nước Mỹ sẽ bị chia cắt theo lằn ranh tôn giáo. Chính vì thế mà Ô. Trump đã có những biện pháp hạn chế hoặc ngăn cấm người Hồi Giáo nhập cư để tránh một thảm họa không xa. Cho nên đứng ngoài phê phán Miến Điện thì dễ nhưng chính mình “ở trong chăn” mới thấy muôn vàn khó khăn. Tự do đi lại, dang tay chào đón người di dân, nhất là người Hồi Giáo tới nước Mỹ đã trở thành một nguy cơ tiềm ẩn chứ không còn là một nhu cầu bức thiết của một quốc gia “đất rộng người thưa” cách đây 200 năm.

Đài truyền hình lớn nhất Hoa Kỳ Fox News ngày 19/2/2018 cho biết, Thủ Tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban đã dùng thông điệp quốc dân hằng năm để mạnh mẽ chống lại di dân, cảnh cáo những chính quyền Âu Châu đã mở đường cho sự suy thoái của nền văn hóa Thiên Chúa Giáo và gia tăng ảnh hưởng/văn hóa Hồi Giáo. Ô. Orban- người tin rằng sẽ đắc cử nhiệm kỳ thủ tướng thứ ba trong cuộc bầu cử vào Tháng Tư này, đã gợi lên hình ảnh của Tây Âu bị chiếm lĩnh bởi người Hồi Giáo khi nói rằng người Đức đang bị đẩy khỏi những thành phố lớn khi di dân Hồi Giáo trước hết là chiếm ngụ các thành phố lớn. Chúng tôi (Ô. Orban) là những người tin rằng hy vọng cuối cùng chính là Thiên Chúa Giáo. Nếu nhiều triệu người trẻ được phép di chuyển về phía bắc, áp lực lớn sẽ đè nặng lên Âu Châu. Nếu cứ như vậy tiếp tục, tại những thành phố lớn người Hồi Giáo sẽ chiếm đa số và Hung Gia Lợi sẽ là mặt trận là nước cuối cùng để chống lại việc “Hồi Giáo Hóa”Âu Châu.

 Ông Orban lo ngại là phải. Lịch sử chứng tỏ rằng một nước bị nô lệ hay có ngoại bang đóng quân và ngày nay là di dân ồ ạt - sẽ làm thay đổi bản sắc dân tộc. Mà muốn thay đổi bản sắc dân tộc thì không gì nhanh chóng cho bằng cải đạo. Khác tôn giáo là khác tất cả. Vì Âu Châu là các quốc gia tôn trọng dân chủ. Họ lên án, cấm vận, lật đổ các quốc gia không dân chủ. Cho nên, dù  thế nào đi nữa, dù mất cả tôn giáo hay bản sắc dân tộc…họ vẫn phải tôn trọng dân chủ. Khi mà tại các thành phố ở Âu Châu người Hồi Giáo chiếm đa số, qua tiến trình dân chủ bầu cử, lãnh đạo chính quyền sẽ về tay người Hồi Giáo. Khi người Hồi Giáo nắm được chính quyền thì chúng ta có thể tưởng tượng ra những luật lệ gì được ban hành, những gì phải tuân theo, những gì bị cấm đoán. Người Hồi Giáo không cần đổ một giọt máu mà có thể “chiếm lĩnh” Âu Châu…để trả thù cho sự tủi nhục đã bị Âu Châu đô hộ, chia cắt, đem Tin Lành hay Thiên Chúa Giáo vào nước họ từ những thế kỷ trước.

Nghĩ cho cùng âu cũng là “Nhân-Quả”. Anh tôn thờ dân chủ, sẽ có ngày chết vì dân chủ, như một vị thiền sư đã nói, “Thuốc nào cũng là thuốc độc”. Cứ thử chiêm nghiệm mà xem. Cho nên có thể chỉ là “lý sự cùn” khi nói rằng sách lược tối hảo vẫn là : Khi nào dân chủ thì dân chủ. Khi nào độc tài thì cần độc tài và độc tài tới nơi tới chốn. Đông Phương có thể làm điều này nhưng Tây Phương thì không thể làm được vì họ theo chính sách “đường một chiều” tức thấy đúng thì “cứ thế mà làm”. Nhưng đạo Trời rất huyền vi. Lý thuyết đúng ở thế kỷ này nhưng có thể sai ở thế kỷ sau cho nên cần phải uyển chuyển cho hợp với thời thế vì Đạo Trời không đứng yên một chỗ mà chuyển dịch không ngừng. Chỉ có Thời Gian là vĩnh viễn, ngoài ra tất cả đều biến chuyển rồi diệt mất. Đó luật Thành-Trụ-Hoại- Diệt.

Ngày nay, làm thế nào để duy trì “tự do tôn giáo” nhưng vẫn có một tôn giáo dòng chính (khoảng 75%) để ổn định chính trị, duy trì bản sắc dân tộc - đang là một bài toán nhức đầu của nhân loại. Nước Mỹ và Âu Châu dường như đang lúng túng và mâu thuẫn vì vừa muốn bảo vệ “tự do tôn giáo” cho cả loài người nhưng lại muốn giữ sao cho tôn giáo của mình không trở thành thiểu số chỉ vì lý tưởng “tự do tôn giáo” mà họ tôn thờ.

Tôn giáo gắn liền với lịch sử, chính trị, văn hóa, phong tục tập quán của một dân tộc. Nay tôn giáo đổi thì tất cả những thứ đó phải đổi theo. Thí dụ: Một tôn giáo không chấp nhận thờ cúng ông bà tổ tiên thì một người cải đạo theo tôn giáo ấy, chắc chắn sẽ quăng bàn thờ, hình ảnh của tổ tiên mình ra ngoài đường. Rồi các lăng mộ, đền đài, miếu mạo thờ phượng các vị anh hùng hay Thánh của dân tộc đó cũng có thể trở thành hoang phế hay đập bỏ. Rồi lịch sử của dân tộc cũng có thể phải viết lại. Nói tóm lại, toàn là những thứ linh thiêng, thần thánh nhất của một dân tộc sẽ bị hủy diệt. Khác biệt tôn giáo đang từ từ trở thành thảm họa cho nhân loại. Do đó đã có người nghĩ rằng, nếu như nhân loại này không có tôn giáo và sống bằng các nguyên tắc của luân lý và đạo đức, có lẽ con người hiểu nhau hơn và không giết nhau. Bởi vì các nguyên tắc về luân lý và đạo đức đặt trên nền tảng trí tuệ và từ cuộc sống này đi lên. Còn tôn giáo phần lớn phát xuất từ thần linh và đặt trên nền tảng niềm tin.Trí tuệ thì có thể hiểu được còn niềm tin thì có thể đúng có thể sai và đôi khi phải chấp nhận chứ không thể chứng minh. Làm sao chúng ta có thể chứng minh được là sau khi chết sẽ có một thế giới khác mà chúng ta sẽ sống đời đời, vô cùng hạnh phúc? Vì không thể chứng minh cho nên buộc lòng phải “tin”. Và niềm tin cực mạnh gọi là “đức tin”.

Khác biệt tôn giáo chứ không phải bom nguyên tử có thể sẽ hủy diệt loài người. Song, nếu như loài người may mắn còn tồn tại… là nhờ:
-Một tôn giáo nào đó do một siêu cường áp đặt lên toàn thể loài người, các “dị giáo” đều bị tiêu diệt cho nên không còn sự khác biệt tôn giáo nữa. Và loài người sẽ sống dưới mái nhà hạnh phúc hay địa ngục của một “tôn giáo toàn cầu”.

-Do sự giác ngộ, con người nhận ra rằng chỉ có luân lý và đạo đức là cần thiết, tôn giáo là một thảm họa cho nên mọi tôn giáo đều từ từ suy tàn. Từ đó con người vẫn giết nhau vì gốc Tham-Sân-Si vẫn còn nguyên, nhưng sẽ không giết nhau vì khác biệt tôn giáo.
-Một nhận định có thể không hề sai lầm. Bất cứ tôn giáo nào nếu mê tín, dị đoan sẽ nhận chìm xã hội. Nếu tôn giáo đó lại có tham vọng nắm lấy chính quyền thống trị loài người sẽ là thảm họa cho nhân loại.

-Một tôn giáo tốt lành là tôn giáo không kích động tín đồ tranh đoạt chính quyền, không tìm cách khống chế chính quyền để đoạt danh lợi cho giáo sĩ và cho tôn giáo của mình và không chủ trương tiêu diệt các tôn giáo khác để độc quyền khống chế tư tưởng loài người. Chính vì thế mà Âu Châu, Hoa Kỳ và các nước tiến bộ đều tách biệt tôn giáo và nhà nước (Separation of State and Church) để không cho tôn giáo khuynh loát, khống chế chính quyền.
 
Đào Văn Bình
(California ngày 4/3//2018)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6950)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4051)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5556)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5758)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5092)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4424)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4207)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4229)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5648)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6343)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567