Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lại thêm một trí thức ngày nay trong xã hội Việt Nam

07/10/201612:32(Xem: 4460)
Lại thêm một trí thức ngày nay trong xã hội Việt Nam

 ducphatthichca



LẠI THÊM MỘT
TRÍ THỨC NGÀY NAY TRONG XÃ HỘI
VIỆT NAM



Một giảng viên Đại học luật ở Hà nội, đứng lớp dạy cho sinh viên về các tôn giáo như: Phật giáo, Thiên chúa Giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bà La Môn, Đạo Hòa Hảo, Cao đài...không tôn giáo nào trúng hoàn toàn.

Phật giáo truyên vào Việt Nam vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên theo truyện "Nhất Dạ Trạch" trong tập Lĩnh Nam trích quái kể lại việc Chử Đồng Tử được học đạo Phật với một nhà sư tên là Phật Quang.  Như vậy  chùa Dâu Bắc Ninh không phải là điểm khởi đầu đạo Phật được truyền nhập như bà giảng viên dạy cho sinh viên, mà là trung tâm Luy Lâu, nơi mà Phật giáo đã phát triển vào đầu công nguyên, tức sau 300 năm khi đạo Phật đã sanh sôi nẩy nở. Thế mà bà cho là ba tông phái của đạo Phật du nhập vào Việt Nam vào thời Bắc thuộc.( sử sách xác định Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung hoa).

Riêng về Phật giáo, bà ta sai lầm những điều cơ bản như Bồ Đề Đạt Ma, Di Đà, Quan Âm, các tông phái như Tịnh Độ tông, Mật tông,Duy thức tông, Thiền tông...

Ba ta nói: -Bồ Đề Dạt Ma từ Ấn sang Trung quốc thành lập các tông phái như Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Duy thức tông, Pháp tướng tông...

Truyền thuyết về Bồ Đề Đạt Ma, rất ít sử liệu chính xác, theo Trung quốc, ngài là con thứ ba của vua Pallava Tamil, từ Kanchipuram đến Trung hoa vào  triều đại Lưu Tống (420-479) hoặc vào đời nhà Lương (502-557).  Nhật thì bảo ngài đến từ nước Ba Tư. Ngài sáng lập Thiền tông, tổ đời thứ 28 kể từ Tổ Ca Diếp, sau khi Phật nhập diệt.

Truyền sử là như thế, nhưng bà giảng viên cho là ngài từ Ấn sang Trung quốc vào thế kỷ thứ 6 để thành lập Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Duy thức tông, Pháp tướng tông...

Về Thiền tông, theo bà, là dành cho tầng lớp trí thức, còn Tịnh độ do một ông cai quản gọi là ông Di Đà, chỉ để giới lao động bình dân, siêng đi chùa và cầu khẩn hy vọng sẽ được sự giúp đỡ của ông ấy đón về cõi Niết Bàn.Điều đáng nói là bà cho rằng :-"ông Di Đà còn gọi là Quán thế Âm" (nói đến đây, có một sinh viên phản đối, bảo rằng hai vị nầy khác nhau).

Lịch sử, ai từng học hỏi giáo lý nhà Phật, cũng phải biết : - đức Di Đà là vị vua tên là Thế Nhiêu sau khi nghe đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai thuyết pháp thì lập tức giác ngộ và từ bỏ ngai vàng mà đi theo đức Phật để quy y pháp danh là Pháp Tạng, sau đã thành Phật hiệu là A Di Đà trong các chùa được thờ chung với A-di-đà là hai Bồ Tát, đó là Quán Thế Âm đứng bên trái và Đại Thế Chí , đứng bên phải. Cũng có thuyết:

Phật A Di Đà, kiếp trước là con của Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sinh nghe, nên thành Phật hiệu là A Di Đà, ở cõi Tây phương Cực lạc.A Di Đà là dịch âm chữ Amita. Hán dịch nghĩa là Vô lượng Thọ và Vô lượngQuang. Vô lượng Thọ nghĩa là tuổi sống lâu không có số lượng; Vô lượng Quang, là Ngài có hào quang sáng suốt không lường.

Kinh Quán Phật Tam - Muội - Hải chép:"Đời quá khứ Ngài làm Tỳ kheo, chăm

lòng kính lễ quán tưởng tướng lông mày trắng của Đức Phật Không Vương, nên được thọ ký là Phật hiệu là A Di Đà".

 Kinh Bi Hoa chép:Đời quá khứ hằng hà sa kiếp trước, Ngài là vua Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm. Ngài có một quan Đại thần tên là Bảo Hải, rất giàu lòng tín ngưỡng. Một hôm vua nghe Đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm Phù ở gần bên thành, Ngài với quan Đại thần Bảo Hải liền đến nghe và rất hài lòng. Vua phát tâm thỉnh Phật và đại chúng vào vương cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phúc báu.Đức Phật khuyên vua nên phát Bồ đề tâm cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Khi đó Đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của như Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy. Bảo Hải đại thần liền tâu với vua Vô Tránh Niêm: "Nay Bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các thế giới, vậy Bệ hạ muốn cầu lấy thế giới nào?".

Vua đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay phát lời đại nguyện, cầu xin sau khi tu hành thành Phật, quốc độ và nhân dân của Ngài, đều được trang nghiêm thanh tịnh. Do nhân duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc.

Phật Thích Ca nói:

"Đời quá khứ lâu xa, cách hơn 10 kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thượng Luân Vương, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan. Vương hậu sanh ra ba người con: người con trưởng là Nhật Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca, người con thứ ba là Nhật Đế Chúng. Khi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia, thọ Kỳ kheo giới, Phật cho hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Ngài Pháp Tạng đối trước Phật, pháp 48 lời nguyện rộng lớn, độ khắp tất cả mười phương chúng sanh; nếu có một nguyện nào chẳng viên mãn, thì Ngài thề chẳng thành Phật. Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rúng động, giữa không trung có tiếng khen rằng:

"Pháp Tạng quyết định sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà".

Như thế, chúng ta biết rằng, Đức Phật A Di Đà tiền thân là Thái tử Kiều Thi Ca, bỏ ngôi sang, xuất gia tu chứng thành quả Phật là A Di Đà.

 

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở phẩm thí dụ, hóa thành có chép:"Đức Phật A Di Đà,kiếp trước là con của Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công

đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sinh nghe, nên thành Phật hiệu là A Di

Đà, nơi cõi Tây phương Cực lạc".

Như thế, trãi qua vô số kiếp gieo duyên Phật pháp, ngài đã đạt thành ý nguyện lập cỏi Tịnh độ có đức Quan Âm và Đại Thế chí hầu cận hộ pháp, làm sao mà ngài vừa là Di Đà, vùa là Quán thế Âm như bà giảng viên Luật xác quyết như thế.

Riêng các tông phái, bà bảo Bồ Đề Đạt Ma thành lập nhiều tông như Thiền, Tịnh, Mật, Pháp tướng, Duy thức tông...

Thiền tông đã đành, Tịnh độ tông như đã nói ở trên, còn Mật tông bà cho là  kèm theo bùa chú, người chết gặp giờ chết xấu được  nhà chùa giải hạn, chùa ấy gọi là chùa Mật tông. Bà nói tiếp: - Thiền , Mật hay Tịnh đều có yếu tố mê tín dị đoan, vì người dân vốn ưa chuộng mê tín dị đoan. có yếu tố nầy thì sẽ được đông đảo thí chủ. và bây giờ đi chùa cũng là nghề kinh doanh. Giảng viên trí thức phán một câu chắc nịch như đinh đóng cột thế, có nghĩa toàn bộ Phật giáo là nghề kinh doanh???

Về Duy thức tông: Đây là một trong hai trường phái chính của Phật giáo Đại thừa do Đại sư Vô Trước và Thế Thân  sáng lập. Tương truyền rằng, chính Ứng thân của Bồ Tát Di-lặc khởi xướng trường phái này ở thế kỉ thứ 4 sau Công nguyên.Không có chứng liệu nào cho thấy Bồ Đề Đạt Ma sáng lập hay truyền bá Duy Thức - Pháp tướng tông như bà giảng viên đại học Luật truyền đạt cho sinh viên.

Bà bảo rằng ông Di Đà cai quản cỏi Tịnh Độ. Thật ra, Tịnh độ có nhiều cảnh giới chứ không riêng cỏi Cực lạc của đức Di Đà. Tịnh độ phía Đông là cõi Phật Dược Sư, có Tịnh độ  được gọi là Điều hỉ quốc  của Phật Bất Động . Phía Nam là Tịnh độ của Phật Bảo Sinh, phía Bắc là Tịnh độ của Phật Cổ Âm. Vị Phật tương lai  là vị đang giáo hoá ở cõi Đâu-suất sẽ tạo một Tịnh độ mới.Tự tánh của Tịnh độ là:- "Tịnh kỳ tâm, độ  kỳ thân".

Lão giáo, theo bà, có hai nhánh, một là phù thủy, hai là Tiên đạo. Phù thủy chuyên đồng bóng. Tiên đạo chuyên luyện linh đan cầu trường sanh bất tử, bà dẫn chứng An Kỳ Sinh đã đến núi Yên tử tu luyện tại đó.

Việc truyền nhập Thiên chúa giáo đã hơn 5 thế kỷ, nhưng bà giảng viên  xác định chỉ 4 thế kỷ; có nhiều thuyết khác nhau về sự có mặt của các Linh mục giòng Tên, Phan xi cô, đầu thế kỷ thứ 16, tại Ninh Cường đã có bàn chân các L.M dòng Đa Minh đến.Từ thế kỷ 17 trở lại, việc truyền giáo của của Kito khá ồ ạt.

 Tin Lành thường được dùng để chỉ một cộng đồng các giáo hội khởi phát từ cuộc cải cách tôn giáo bắt đầu vào thế kỷ 16 bởi Martin Luther. Là tu sĩ Dòng Augustine, mục tiêu ban đầu của Luther là kêu gọi cải cách từ bên trong Giáo hội Công giáo Rôma, không riêng Martin Luther, tại Âu châu cũng có nhiều người đồng quan điểm với Luther, tách ra khỏi  tổ chức Roma nên được gọi là Kháng cách giáo hay Tân giáo, Phản thệ giáo. Cơ Đốc giáo là từ gọi chung cho Tin lành, Công giáo Roma, Chính thống giáo Đông , Như thế Cơ đốc không phải là một nhánh trong ba nhánh thuộc Thần giáo như bà giảng viên nói. Bà còn nói Thiên chúa giáo là tôn giáo của giai cấp phong kiến và Tin lành thuộc giai cấp Tư sản.

Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Cơ đốc giáo, Bà La Môn giáo ..đều được bà gọi chung là ngoại lai, riêng Phật giáo Hòa Hảo do đức Thầy khai đạo vào ngày 18/5/1939 chứ không phải 1930 , bà nói: nó kết hợp bởi Phật giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Những tôn giáo được bà liệt kê, ít nhiều đều không tránh khỏi sai sót. Phật giáo mà ngày nay giới trẻ ít nhiều được biết, thế mà bà còn dám nói  "ông Di Đà cũng là Quan thế Âm", bị một học sinh phản bác, bà vẫn tiếp tục truyền đạt kiên thức "ăn xổi ở thì" như thế, thế hệ trí thức tương lai sẽ hiểu Tôn giáo như thế nào?
Chưa hết, để kết thúc phần giảng về Phật giáo cô đã nói "và bây giờ đi chùa đã thành một nghề kinh doanh", câu nói này là một sự quy chụp theo ý nghĩ chủ quan của cô giáo, một điều tối kỵ trong nguyên tắc đứng lớp.

Những trí thức hiện nay được phát hiện cái hiểu về Tôn giáo quá hời hợt như thế, được đào tạo từ đâu? Mong rằng, ngành sư phạm cũng như viện nghiên cứu tôn giáo giúp cho các nhà trí thức hiểu đúng về các Tôn giao về lịch sử cũng như giáo lý trước khi đứng trên bục giảng và đứng trước đài truyền hình khi được phỏng vấn.

MINH MẪN

06/10/2016

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6968)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4066)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5629)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5774)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5102)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4436)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4223)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4240)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5668)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6397)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567