Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có ông già Nô-En hay không ?

14/12/201306:38(Xem: 5779)
Có ông già Nô-En hay không ?

CÓ ÔNG GIÀ NÔ-EN HAY KHÔNG?”

noel

Ông già Nô-en là nhân vật đóng vai trò gắn liền với mùa Lễ Giáng Sinh, giống như cây thông trong ngày lễ này. Hình ảnh tiêu biểu của ông là một ông già mặc bộ đồ màu đỏ viền trắng, thắt lưng da đen, đội chiếc nón đỏ với chòm râu dài trắng, bộ mặt hóm hỉnh, tiếng cười "hô hô hô", tồn tại trong nhiều nền văn hoá khác nhau, đặc biệt ở các nước phương Tây.

Truyền thuyết cho rằng ông già Noel sinh sống tại Bắc Cựcvới những người lùn. Ông dành đa số thời gian để chuẩn bị quà, đồ chơi cho trẻ em với sự giúp đỡ của những chú lùn. Vào dịp Giáng Sinh, ông nhận được rất nhiều lá thư từ trẻ em khắp thế giới. Vào mỗi đêm Giáng Sinh, ông lại bắt đầu cuộc hành trình của mình với cỗ xe kéo bởi tám con nai to có sừng nhiều nhánh (thường gọi là tuần lộc) để mang quà và đồ chơi cho các trẻ em ngoan ngoãn, hiền lành, nghe lời cha mẹ … (good children). Ông ngừng xe trên nóc nhà và mang quà xuống bằng đường ống lò sưởi. Ông có một danh sách các trẻ em “hư” hay “ngoan” trên khắp thế giới.

Một bài hát trong năm 1934 có tiêu đề là “Santa Claus Is Coming to Town”đã nổi tiếng và được truyền tụng mãi tới nay. Đại ý bài hát nói rằng: “Ông già Nô-en sắp tới đấy. Con phải coi chừng. Đừng khóc lóc. Đừng bĩu môi hờn dỗi. Ông già Nô-en có một danh sách trong đó ghi đứa trẻ nào hư đốn đứa trẻ nào dễ thương. Cho nên con phải ngoan nhé!” Trích đoạn đầu bài hát:
You better watch out
You better not cry
Better not pout
I’m telling you why
Santa Claus is coming to town
He’s making a list
And checking it twice;
Gonna find out Who’s naughty and nice
Santa Claus is coming to town
He sees you when you’re sleeping
He knows when you’re awake
He knows if you’ve been bad or good
So be good for goodness sake!

*

Năm 1897, trên tờ The Sun của New York, xuất hiện một bài viết với nhan đề: “CÓÔNG GIÀ NÔ-EN HAY KHÔNG?”Năm ấy, có một cô gái nhỏ tên là Virginia. Cô bé tin tưởng là có ông già Nô-en. Nhưng một số bạn cô không được may mắn nên nói với cô rằng không có ông già này đâu khiến Cô hoài nghi. Cô hỏi bố rằng “Có ông già Noel hay không?” Ông bố gợi ý là con hãy viết thư hỏi tờ báo The Sun khá nổi tiếng vào thời kỳ đó. “Nếu tờ The Sun nói thế nào thì đúng như vậy đó”.

Bức thư của cô được gửi đi ngay trước Noel 1897 và được trả lời bằng một bài báo viết vội ngay vào lúc tờ báo chuẩn bị lên khuôn cho số Giáng Sinh. Bài báo có tựa đề là: “CÓCHỨ, VIRGINIA, CÓ ÔNG GIÀ NÔ-EN(Yes, Virginia, there is a Santa Claus).

Thư của bé Virginia như sau:

Thưa ông chủ bút: “Con lên 8 tuổi. Một vài người bạn nhỏ của con nói rằng không có Ông già Nô-en. Bố nói là “Nếu thấy được chuyện đó trên tờ báo Sun thì đúng đấy.” Ông làm ơn cho con biết sự thật ra sao; có ông già Nô-en hay không?

“Virginia O’Hanlon, 115 West Ninety-Fifth Street.”

Đây là bài báo trả lời đăng trên báo The Sun:

“Virginia, các bạn nhỏ của con đều sai lầm. Chúng bị ảnh hưởng bởi thái độ hoài nghi của một thời đại hoài nghi. Chúng không chịu tin trừ khi chính mắt thấy. Chúng nghĩ rằng nếu cái trí óc nhỏ bé của chúng mà không hiểu được tức là việc đó không có thật. Virginia, tất cả đầu óc dù là của người lớn hay của trẻ con đều nhỏ hẹp hết. Trong cái vũ trụ rộng lớn của chúng ta, con người chỉ như một con sâu cái kiến; với cái trí tuệ của họ khi so sánh với vũ trụ bao la bên ngoài, làm sao họ có khả năng trí óc để nắm bắt được trọn vẹn tất cả những chân lý và kiến thức.

Đúng vậy đó, Virginia, có ông già Nô-en đấy. Ông ta chắc chắn có thật cũng như là tình thương yêu, lòng rộng lượng và sự tận tâm cũng có thật vậy, và con nên biết rằng những cái đó còn có rất nhiều nữa đấy đồng thời dâng hiến cho cuộc sống của con cái tốt đẹp hạnh phúc nhất. Than ôi! Không biết thế gian này sẽ thê lương ra sao nếu không có ông già Nô-en. Cũng ảm đạm biết bao nếu như không có những cô bé mang tên Virginia.

Khi đó sẽ không có niềm tin thơ ngây của con trẻ, không có thơ văn lãng mạn tô điểm cõi nhân gian này. Chúng ta sẽ không có niềm an vui nào trừ khi có thể nhận thức được và nhìn thấy được. Cái ánh sáng bất diệt mà tuổi thơ ấu toả ra đầy thế gian sẽ bị dập tắt hết luôn.

Nếu không tin có Ông già Nô-en! Vậy con cũng không tin có thần tiên! Con có thể xin bố con mướn người canh gác trong tất cả các ống khói lò sưởi vào đêm Giáng Sinh để bắt được ông già Nô-en, nhưng nếu họ không bao giờ thấy ông già Nô-en nào chui xuống, điều này sẽ chứng minh được chuyện gì? Chưa ai từng thấy ông già Nô-en, nhưng như thế đâu có nghĩa là không có ông già Nô-en. Những gì mà có thật nhất trên thế gian là những cái mà cả trẻ con lẫn người lớn không thể nhìn thấy được. Con có bao giờ thấy những nàng tiên nhảy múa trên bãi cỏ không? Tất nhiên là không, nhưng cái đó không phải là bằng chứng tỏ ra rằng các nàng tiên không có mặt ở đó. Không ai có thể nhận thức hay tưởng tượng ra được tất cả mọi điều kỳ diệu vô hình và không nhìn thấy được ở trên thế gian.

Con có thể tháo tung cái đồ chơi lúc lắc của em bé để xem cái gì tạo ra tiếng động ở trong đó, nhưng có một cái màn che phủ cái thế giới vô hình, cho dù người khoẻ nhất hay ngay cả một tập thể sức mạnh của tất cả những người khoẻ nhất trên đời này cũng không thể nào phá vỡ được. Chỉ có niềm tin, óc tưởng tượng, thơ phú, tình yêu, văn chương lãng mạng mới gỡ bỏ được cái tấm màn này để quan sát và hình dung ra cái vẻ đẹp siêu phàm và quang vinh sau đó. Tất cả đều có thật không? Ồ Virginia ơi, mọi thứ trên cõi đời này không có gì khác thật sự và lâu dài cả.

Không có ông già Nô-en! Tạ ơn Trời! Ông già Nô-en có đấy và ông ấy tồn tại mãi mãi. Một ngàn năm sau, Virginia à, ồ không cả mười lần chục ngàn năm về sau này, ông ấy sẽ tiếp tục đem niềm vui tới tâm hồn của tuổi ấu thơ.”

*
noel 3

Tác giả của bài báo trả lời bé Virginia chỉ được công bố tên thật sau khi ông mất. Đó là Francis Pharcellus Church, một cây bút bình luận của tờ The Sun, lúc ấy 57 tuổi. Ông là một phóng viên chiến trường thời Nội chiến Mỹ, một thời kỳ chứng kiến rất nhiều người trong xã hội mất đi niềm tin và hy vọng. Francis Pharcellus Church qua đời năm 1906.

Theo Viện Bảo tàng Báo chí ở Arlington (Virginia) bài viết trả lời này đã được in lại nhiều nhất trong lịch sử báo chí Hoa Kỳ. In liên tục mỗi năm vào dịp lễ Giáng Sinh trên tờ The Sun cho đến năm 1949 khi tờ báo bị đóng cửa. Được dịch ra nhiều thứ tiếng và được trích đăng trong nhiều sách báo trên toàn thế giới.

Còn Virginia O’Hanlon sau đó lấy lại niềm tin là có ông già Nô-en. Virginia lớn lên và tốt nghiệp Hunter College với bằng Bachelor of Arts năm 1910. Bà đậu thêm bằng Master tại Columbia năm 1911. Năm 1912, bà khởi sự làm giáo viên trong 47 năm ở New York City và sau này trở nên hiệu trưởng. Bà mất năm 1971 ở tuổi 81. Hành trang cho sự nghiệp giáo dục của bà Virginia là lá thư phúc đáp của ông Church mà Bà cho biết đã mang theo mình suốt cả cuộc đời.

Hơn 100 năm đã trôi qua kể từ khi có lá thư thắc mắc của cô bé Virginia, nhưng lý lẽ của ông Church vẫn tiếp tục tồn tại. Bởi nó không chỉ là bài báo trả lời về việc có hay không có ông già Nô-en. Thật ra phải nói nó là thông điệp của lòng tin vào những giá trị cao quý nhất của nhân loại.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(sưu tầm và chuyển ngữ, 12-2013)

Virginia_Santa_Claus-300x269
francis_virginia
francis


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2010(Xem: 4622)
Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.
13/10/2010(Xem: 5134)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
02/10/2010(Xem: 4690)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS Éditions Brepols, Paris. 1996 Người dịch : VĨNH AN nhà XUẤT BẢN: THIỆN TRI THỨC, 2003 Một Viễn Cảnh Phật Giáo Về Những Lời Dạy của Đức Giêsu
02/10/2010(Xem: 5113)
Trong bài tham luận ngắn này, người viết giới thiệu khái quát về truyền thống khất thực như một pháp tu trong Phật giáo, thông qua đó phân tích hiện tượng khất thực phi pháp của những kẻ ăn xin giả dạng người tu, làm hoen ố truyền thống tâm linh của Phật giáo. Bên cạnh đó, người viết xin đề xuất phương án ngăn chận tệ nạn này. Đồng thời, đề nghị giải pháp ngăn chận tình trạng “khách không mời mà đến” làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của các ngày kỷ niệm tổ sư khai sáng các chùa và các lễ cúng dường trai tăng nói chung.
30/09/2010(Xem: 5990)
Hân hạnh gửi đến quý vị một vài ý nghĩa phiến diện về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với sự cộng tác của quốc tế, đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử hình dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền xét xử tôi và phán xét những người đã hành động theo lương tâm.
08/09/2010(Xem: 4388)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc...
06/09/2010(Xem: 3907)
Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan. 1) Xã hội phát triển theo xu hướng nam nữ bình quyền. Đài Loan đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng phát triển từ phương tây, do đó trong xã hội ngày nay quyền bình đẳng luôn được phụ nữ Đài Loan vận động và tranh đấu. Phong trào nữ quyền ở Đài Loan đã đạt được những thành tựu nhất định. Nữ giới dần có địa vị cao trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan điểm "nam nữ bình quyền" đã được tuyệt đại đa số quần chúng ủng hộ và nó cũng tác động vào sau cánh cổng chùa đến tầng lớp ni giới của Đài Loan.
04/09/2010(Xem: 9831)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 3812)
Vì họ nghĩ rằng, Bát kỉnh pháp là điều khoản bất công với Ni giới, nếu chấp nhận sự có mặt của Bát kỉnh pháp trong hệ thống kinh luật, tức là chấp nhận đức Phật không có từ bi, thiếu tuệ giác và chúng ta tự đào thải mình. Rồi qua một số lý luận không có cơ sở khoa học vững chắc, họ suy đoán rằng các điều khoản trong Bát kỉnh pháp được hình thành là do sự mâu thuẫn giữa Tăng Ni trong một giai đoạn lịch sử nào đó, nên các bậc tiền nhân đã áp đặt ra để đè đầu cỡi cổ mấy cô Ni, chứ điều đó không phải do Phật nói. Cho nên, để thích hợp với xã hội toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta phải mạnh dạng xóa bỏ điều này.
30/08/2010(Xem: 3333)
Đất nước hiện nay cần phải phát triển kinh tế để dân giàu nước mạnh. Muốn vậy, người dân Việt phải tăng gia sản xuất tất cả các ngành nghề, cần phải cạnh tranh trong tất cả các lãnh vực kinh tế. Chăn nuôi gia súc, nuôi cá, nuôi tôm là các ngành không thể thiếu để cung ứng thị trường nội địa và xuất khẩu để thu ngoại tệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567