Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”

05/08/201316:02(Xem: 7129)
Phật trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”

Sakya_Muni_17


Phật trong phim “Bụi đời Chợ Lớn

Minh Thạnh

Tôi viết bài này không phải chỉ vì lưu luyến với nghề cũ, nghề lý luận phê bình điện ảnh, nghề mà tôi được đào tạo, nhưng không có nhân duyên được làm nghề, mà trên hết là vì muốn nhấn mạnh với bạn đọc vai trò của tôn giáo, mà ở đây là Phật giáo, trong đời sống của con người, kể cả ở những mảnh đời khốn nạn nhất, như cuộc sống của những tên bụi đời, du đãng, xã hội đen, với những trường hợp cụ thể trong phim truyện “Bụi đời Chợ Lớn”.

BẠO LỰC!

Bụi đời Chợ Lớn” là một bộ phim hành động của các đạo diễn Charlie Nguyễn và Johnny Trí Nguyễn. Phim này đang thu hút sự quan tâm cao độ của khán giả điện ảnh hiện nay, có lẽ đến mức chưa từng có. Một phần vì phim đã được quảng cáo với cường độ cao. Phần khác, vì phim bị cấm chiếu sau một cuộc duyệt nhiều tranh luận, rồi bị ai đó tung lên mạng bản nháp. Bản được tung lên mạng đã thu hút số người xem kỷ lục ở nhiều trang web. Dĩa phim in lậu cũng được phát hành mạnh, càng nâng cao số lượng khán giả. Việc quan tâm của chúng tôi là vì ảnh hưởng của bộ phim “Bụi đời Chợ Lớn” đến khán giả rất lớn, dù là chỉ theo kiểu phát hành như vậy.

Dù sao thì hàng nhiều triệu khán giả đã xem phim “Bụi đời Chợ Lớn”, dù phim bị cấm chiếu. Vì vậy, dù muốn, dù không, phim cũng vẫn là một đối tượng của giới phê bình điện ảnh. Việc cấm chiếu phim, xem ra, còn làm cho khán giả và những nhà phê bình quan tâm đến bộ phim.

Việc cấm chiếu bộ phim, có thể coi là một sự tiêu hủy bộ phim, mục tiêu là cách ly hoàn toàn tác phẩm điện ảnh với khán giả, trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, rõ ràng là không hiệu quả.

Phim “Bụi đời Chợ Lớn” bị cấm chiếu vì lý do chính là bạo lực. Là người Phật tử, chúng ta phản đối bạo lực trong tác phẩm nghệ thuật. Nhưng đây đã là một thực tế phải chấp nhận, vì làm sao phim hành động mà không thể không có bạo lực? Riêng tôi, tôi nghĩ đâm chém theo kiểu phim “Bụi đời Chợ Lớn”, với số người chết trong mỗi trận hỗn chiến chỉ là con số vài ba chục người, vẫn còn dễ chấp nhận hơn rất nhiều so với những bộ phim nhấn nút kích hoạt vũ khí nguyên tử, điều động siêu pháo đài bay ném bom tấn, nã pháo bằng dàn đại bác cả trăm khẩu… Những phim như thế bạo lực hàng ngàn lần, so với bạo lực chỉ bằng dao phay, mã tấu trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, nhưng bây giờ, cứ lượt qua các kênh truyền hình cáp, thì vẫn thấy nhan nhản kiểu bạo lực giết người hàng loạt đó.

Ấy là kiểu bạo lực, mà những tên giết người không là những gã ít học, lưng nách, cục súc, dơ dáy như trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, mà kẻ giết người là những tiến sĩ, kỹ sư, mặt mày sáng láng, lịch sự, nho nhã, với phương tiện giết người là những thành tựu khoa học tiên tiến. Những kẻ giết người đó ngồi trước máy vi tính, khai hỏa hỏa tiễn bằng một cái nhấp chuột. Như thế, mới là đỉnh điểm bạo lực, chứ không phải đấm nhau, chém nhau, như thời trung cổ.

Ngoài ra, còn có vấn đề bạo lực chính nghĩa và bạo lực phi nghĩa, bạo lực hại người và bạo lực để tìm sự bình an. Không thể đánh đồng mọi thứ bạo lực như nhau.

Theo chúng tôi, bạo lực trong phim “Bụi đời Chợ Lớn” là bạo lực để tìm sự bình an chống lại bạo lực phi nghĩa. Ở đây bạo lực có cái điều, mà đạo diễn bộ phim đã nói, là thông điệp chống băng đảng, có thể hiểu là thông điệp chống bạo lực.

Vì vậy, bộ phim là tiếng nói của những người trong vòng bạo lực muốn trốn chạy ra khỏi bạo lực. Trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, những kẻ trốn chạy khỏi bạo lực đã tìm đến Phật. Đó là điều bài phê bình này muốn nói đến.

Trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, có 2 trường đoạn miêu tả việc tìm đến tín ngưỡng của những người muốn trốn chạy khỏi bạo lực. Trong một trường đoạn, nhân vật Lâm tìm đến một đền thờ người Hoa để cầu khấn, nhưng đối tượng cầu khấn không phải là Phật. Ở một trường đoạn khác, nhân vật Hùng Bi da thắp hương trên bàn thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát trước cuộc tử chiến với Phong Bụi. Bài viết này muốn nói đến Phật ở đây.

TRƯỚC ĐÂY CHỈ CÓ TÌNH YÊU TRONG CUỘC CHẠY TRỐN BẠO LỰC

Mô típ những người trong vòng xoáy bạo lực chay trốn khỏi bạo lực đã có trong văn học nghệ thuật miền Nam từ trước năm 1975. Tiêu biểu cho xu hướng này là nhà văn Duyên Anh, với các tác phẩm như “Luật hè phố”, sau chỉnh sửa thành “Con suối ở Miền Đông”, “Điệu ru nước mắt”… Ý tưởng từ dòng tác phẩm này được dựng thành một số phim truyện đã từng gây xôn xao trong giới kịch trường điện ảnh Sài Gòn một thời, như “Vết thù trên lưng ngựa hoang” (còn lưu hành nhạc phim), “Điệu ru nước mắt”, “Xa lộ không đèn” (còn lưu hành nhạc phim). Lúc đó, tôi còn nhỏ, chỉ đọc một số tác phẩm. Truyện cũng như phim cùng đều xem cách đây đã 40 năm, việc nhắc lại tất nhiên sẽ có điểm không chính xác.

Truyện của Duyên Anh miêu tả những pha đâm chém rất ác liệt của băng đảng, những cái chết đầy hãi hùng, thương tâm, bi tráng. Còn poster phim “Vết thù trên lưng ngựa hoang” do diễn viên Trần Quang đóng vai chính thì na ná poster phim “Bụi đời Chợ Lớn”. Cho nên xem phim “Bụi đời Chợ Lớn”, tôi nhớ ngay đến tác phẩm Duyên Anh, nghệ sĩ Trần Quang, phim và bài nhạc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”…

Người ta chỉ chạy trốn khi hoàn cảnh sống quá nghiệt ngã khủng khiếp. Vì vậy, các nhà văn, đạo diễn theo ý tưởng sáng tác này đương nhiên phải miêu tả, phải trình bày bạo lực ở đỉnh điểm của sự ác nghiệt, tàn bạo, nhẫn tâm. Từ đó, mới phát sinh bi kịch và bi kịch mới thuyết phục đối với người đọc, với khán giả. Và khi đó số phận của những con người muốn chạy trốn khỏi bi kịch mới là những số phận bi kịch.

Nếu bạo lực, đâm chém trong phim, trong truyện chỉ là cuộc xô xát vui đùa, thì người ta cứ việc đùa vui với nó, việc gì phải vùng vẫy chạy trốn như trong “Vết thù trên lưng ngựa hoang” hay trong “Bụi đời Chợ Lớn”. Ở đây, chúng ta cần chú ý đến tính triết lý của vấn đề. Nó giống như muốn người ta tìm cách thoát khổ, thì phải miêu tả cái khổ ở mức có tác động cùng cực của nó. Chúng tôi mong khán giả xem phim “Bụi đời Chợ Lớn” hay đọc truyện Duyên Anh với tinh thần này, và cũng là điều muốn gửi đến những người có trách nhiệm duyệt những phim loại như phim “Bụi đời Chợ Lớn” hôm nay. Cái mô típ nghệ thuật này có triết lý của nó. Và từ cái nhìn của một Phật tử, tôi thấy nó không khác gì với cách trình bày cái khổ của đạo Phật. Bạo lực trong những tác phẩm nghệ thuật như vậy không gì khác hơn phải là một cái chảo lửa khủng khiếp của địa ngục, làm người đọc, người xem và cả những người có trách nhiệm duyệt phim, phải kinh hoàng, phải sốc!

Trên cái nền đó, nhà văn hay đạo diễn tạo dựng hành động chạy trốn. Và tiểu thuyết, bộ phim… chính là câu chuyện cuộc chạy trốn, cuộc vùng thoát khỏi chảo lửa đó. Tính nhân văn của loại tác phẩm mà chúng ta đang bàn luận nằm ở chỗ này.

Lời của tác phẩm âm nhạc “Vết thù trên lưng ngựa hoang” (nhạc Phạm Duy, và theo tôi, lấy ý từ Duyên Anh) miêu tả tình trạng bạo lực ấy như sau:

Ngựa phi như điên cuồng

Giữa cánh đồng, dưới cơn giông

Vì trên lưng cong oằn

Những vết roi vẫn in hằn

Trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, ngựa hoang chính là Hùng Bi da, là Lâm, là Phong Bụi, là Bi trong quan hệ với Phong Bụi… Còn bạo lực được miêu tả với hệ quả “… trên lưng cong oằn/Những vết roi vẫn in hằn”.

Với cái nhìn từ đạo Phật, đó là địa ngục. Cuộc đời chính là cuộc tra tấn, với những vết roi. Cây roi bạo lực chỉ là công cụ, là phương tiện. Mọi cái đều bắt nguồn từ tam độc (tham, sân, si).

Lời bài hát trong phim “Xa lộ không đèn” (của nhạc sĩ Y Vân), một phim cũng nói về xã hội đen băng đảng (đạo diễn Hoàng Anh Tuấn), cuộc đời là “xa lộ tối ám không đèn”, “xa lộ giết chết tâm hồn”, “xa lộ sống chết vô tình”, “cuộc đời sao tăm tối như xa lộ không đèn”, “cuộc đời sao tối ám như xa lộ tối đen”… Cũng là một suy nghĩ triết lý về cuộc đời như “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “Bụi đời Chợ Lớn”…

Hầu như, trong tất cả những tác phẩm tiểu thuyết, điện ảnh theo mô típ nói trên, những cuộc chạy trốn, vùng vẫy đào thoát khỏi chảo lửa địa ngục đều là những bi kịch. Kết thúc tác phẩm những nhân vật chính đều chết với đủ kiểu và đều mang tính chất cái chết băng đảng xã hội đen. Bị đâm như trong “Bụi đời Chợ Lớn”, “Xa lộ không đèn”, bị cột trong bao bỏ xuống sông như trong “Luật hè phố”, “Con suối ở miền Đông” (1). Đó là:

Những đời làm ngựa hoang chết gục

Và trên lưng nó Ôi!

Còn nguyên những vết thù”

(Vết thù trên lưng ngựa hoang)

PHẬT TRONG PHIM “BỤI ĐỜI CHỢ LỚN”

Trước phim “Bụi đời Chợ Lớn”, điểm tựa của cuộc chạy trốn khỏi chảo lửa bạo lực đều là tình yêu, chưa có tính chất tôn giáo, mặc dù trong một số tác phẩm, những lời lẽ từ giáo lý nhà Phật đã được thể hiện.

Trong ca khúc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “nhẫn nhục”, một khái niệm mà nhà Phật coi là Ba la mật, đã được nói đến.

Ngựa hoang muốn về tắm sông nhẫn nhục

Dòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt

Tính chất mát, trong của nhẫn nhục là ý trong kinh Phật. Hình tượng so sánh “dòng sông” là sáng tạo của Phạm Duy.

Còn trong lời ca khúc nhạc phim “Xa lộ không đèn” (Y Vân), thì sống chết chỉ là “giọt nắng sớm, cánh sương đêm”, cũng là ý trong kinh Phật.

Vì vậy, triết lý cuộc trốn chạy khỏi cuộc đời đau khổ vì bạo lực, cơ bản là triết lý Phật giáo.

Tuy nhiên, đến phim “Bụi đời Chợ Lớn”, điểm tựa tôn giáo, cụ thể là Phật giáo, mới xuất hiện, với việc nhân vật Hùng Bi Da thắp hương trước bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát trước giờ quyết đấu với Phong Bụi, để trả món nợ giết Bi, em của Phong Bụi.

Đây là một bước tiến của những tác phẩm thuộc xu hướng mà chúng ta đang bàn luận. Cuộc chạy trốn không chỉ vì tình yêu (2), mà còn là vì yếu tố đạo đức. Đạo diễn, trong trường đoạn này, đã đặt camera từ phía tượng Bồ tát, qua cái nhìn của Bồ tát, từ đó, để cho nhân vật Hùng Bi Da thể hiện tâm trạng.

Có thể thấy rằng, Hùng Bi Da không cầu nguyện Bồ tát phù hộ để anh đánh thắng Phong Bụi, mà chỉ mong tìm ở Bồ tát chiếc phao bình yên cuối cùng cho cuộc đào thoát khỏi cuộc đời bạo lực đã không còn hy vọng. Đây là chi tiết rất có ý nghĩa. Các tác giả bộ phim thể hiện điều này bằng ngôn ngữ điện ảnh, tức là trông cậy vào diễn xuất của diễn viên, không qua lời thoại. Nhân vật im lặng cầu nguyện và chúng ta thấy lời muốn nói qua ánh mắt diễn viên.

Nếu nhân vật Hùng Bi Da cầu nguyện Bồ tát phù hộ đánh thắng Phong Bụi thì bản chất của bộ phim đã hoàn toàn khác. Khi đó, “Bụi đời Chợ Lớn” chỉ còn là một bộ phim bạo lực trả thù, thanh toán, đâm qua chém lại thấp kém. Đàng này, sự im lặng, sự thành kính, tha thiết xen lẫn hối hận, nuối tiếc trong ánh mắt Hùng Bi Da là điều làm nên giá trị của bộ phim tập trung ở trường đoạn Hùng Bi Da cầu nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát.

Đó là một trường đoạn không thoại và chỉ có một nhân vật, Hùng Bi Da đối diện tượng Bồ tát Quan Thế Âm. Trường đoạn rất ngắn, chỉ có 2 shot, trước hết là camera từ phía Hùng Bi Da nhìn lên Quan Thế Âm Bồ Tát, và sau đó là từ Bồ Tát Quan Thế Âm nhìn xuống Hùng Bi Da, để nhân vật thể hiện tâm trạng. Ở giữa là không gian mờ mờ hương khói hư ảo…

Kết phim, hầu như tất cả các bên đều chết trong vòng xoáy ác nghiệt của bạo lực kể cả Tài Nhớt, dù là đâu đó vẫn hy vọng ở cuộc chạy trốn đến một nơi nào đó. Nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy đó đều từ tham sân si. Tài Nhớt tham, Hùng Bi Da sân (vì giết Bi em Phong Bụi), Phong Bụi và Bi si (bị Tài Nhớt gài bẫy). Và ở mỗi người cùng đều có đủ tham sân si cao độ (nhất là nhân vật Lâm), động lực của bạo lực.

Xem phim “Bụi đời Chợ Lớn” với con mắt đạo Phật, chúng ta còn nhìn thấy sự vận động của trục ái dục song song với trục bạo lực. Bên cạnh mỗi nhân vật chính đều có một người đàn bà. Riêng Phong Bụi, người đàn bà đó là ẩn hình, chỉ được Tài Nhớt nhắc đến như một miếng mồi, ở một nơi xa xăm vô định, chỉ với lời hứa hão huyền được gặp, mà Phong Bụi lao vào cuộc đâm chém đến mức điên cuồng. Vì ái dục, người ta chạy trốn khỏi bạo lực, và cũng vì ái dục, người ta mắc lại trong vòng bạo lực. Cũng có một thông điệp mang tính triết lý ở đây. Khi người ta tìm đến Bồ Tát Quan Thế Âm thì đã quá muộn màng…

Có lẽ hàng triệu người đã xem bộ phim “Bụi đời Chợ Lớn”, mong rằng bài phê bình này đến được với khán giả của phim, để người đọc người xem, người nghe “Bụi đời Chợ Lớn”, cũng như “Xa lạ không đèn”, “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “Điệu ru trước mắt”, “Luật hè phố”, “Con suối ở miền Đông”… không xem đó chỉ là những tác phẩm kích thích bạo lực, mà thấy ở đó triết lý nhân văn của tác phẩm, một thứ triết lý bắt nguồn từ tư tưởng Phật giáo “Đời là bể khổ

MT

(1) Riêng trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, cuộc chạy trốn của nhân vật Lâm thành công, nhân vật thoát khỏi cuộc sống băng đảng hoàn lương sau khi thi hành án. Theo tôi, chi tiết này rất tích cực, thể hiện yếu tố phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa của bộ phim. Rất tiếc là dấu ấn phương pháp sáng tác xã hội chủ nghĩa có tính lạc quan này không được ghi nhận khi duyệt phim.

(2) Đúng ra mô típ tình yêu là điểm tựa của cuộc chạy trốn khỏi cuộc đời bạo lực có từ Nam Cao với tác phẩm “Chí Phèo”, Duyên Anh chỉ là tác giả đi sau. Có điều, “Chí Phèo” chỉ du đãng bạo lực ở mức cá nhân. Từ Duyên Anh đến Charlie Nguyễn, bạo lực mới phát triển đến mức băng đảng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 7465)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4740)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 6325)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 6387)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5643)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4930)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 5128)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4712)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 6279)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 8021)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]