Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quý hồ tinh bất quý hồ đa

06/11/201216:23(Xem: 4456)
Quý hồ tinh bất quý hồ đa

phattu_2Gần đây, có khá nhiều thông tin miệng và mạng internet râm rang về chuyện một số Phật tử cải đạo. Vì lý do đó có một số tu sĩ và Phật tử thảo luận với nhau “làm sao để gìn giữ phật tử”, như là tìm cách ngăn bờ sông không cho nước xoáy mòn lở sụp đất!

Qua tìm hiểu thì có kế hoạch “NGÀY TÀN CỦA PHẬT GIÁO” Allen Carr được phổ biến trên LankaWeb.com (Planning the demise of Buddhism) đặc biệt là tổ chức Asia Harvest (Mùa gặt Á châu) có trụ sở tại Mỹ, đang tìm cách “cải đạo” Phật tử ở các nước Á châu và Việt Nam.

Chúng tôi rất trân trọng những ý kiến đóng góp của một số quí tăng ni và chư vị Phật tử bởi những lời chỉ trích của Allen Carr qua 4 vấn đề:

- Hoằng pháp: Không thu hút giới trẻ, chùa chiền thưa thớt xuống cấp, tu sĩ quá ít, Phật sự tẻ nhạt đìu hiu.


- Tác phong tu sĩ: Trên tay phì phèo điếu thuốc, quá thân mật với nữ Phật tử, phát ngôn linh tinh, xuyên tạc chính trị.


- Hình ảnh ngôi chùa: Nhà chùa là cơ sở kinh doanh, nơi buôn thần bán thánh mê tín dị đoan.


- Gia đình Phật tử: Quá yếu về số lượng và chất lượng. Cả miền Bắc không có nổi một đơn vị.


Qua một số ít lo toan của giới Phật giáo trên mạng và sự tự đắc của tác giả đã thấy bề nổi một số hiện tượng “tự nhiên” trong cuộc sống, rồi lấy đó như một cửa thành trì, hể vào được là phá tan đất nước. Qua ý tưởng đó tôi mượn một câu trong binh pháp của Tôn Tử: “Muốn thắng trận không phải là nhờ có nhiều quân, mà phải có tinh quân và tướng giỏi”. Có lẽ tác giả Allen Carr thích quân ô hợp?


Người Phật tử chúng ta ai mà không nằm lòng câu: “văn như tư, tư như tu”. Tức là khi nghe một vấn đề gì phải suy nghĩ xem có đúng đạo lý, có phù hợp bản thân, có lợi ích cho số đông hay không? Rồi sau đó mới làm theo lời khuyên, kể cả lời đức Phật!


Chính vì cách dạy học trò nhận thức cao siêu như vậy, nên cả thế gian này tôn xưng đức Phật: “Thầy dạy khắp trời người, cha lành chung bốn loài”. Không phải cho đến bây giờ mới có người bỏ đi mà trong thời ngài còn trụ thế, vẫn có 500 người đứng dậy bỏ đi. Ngài cho số đó là cành lá hạt lép.


Điều đó cho thấy chủ trương của Phật giáo là tinh thần tự giác, chứ không dùng bất cứ một thủ thuật nào để lôi kéo tín đồ, nên bất cứ người Phật tử nào cũng tự hào, triết lý mình đang theo suốt mấy nghìn năm chưa từng làm tổn thương hay đổ một giọt máu của chúng sinh.


Một nền đạo lý đầy tính nhân sinh như vậy, tồn tại qua chừng đó thời gian thì quá đủ để trả lời cho mọi câu hỏi, và ai đó đã lo lắng “Ngày tàn của Phật giáo” vì những lý do tác giả Allen Carr đã nêu thì suy nghĩ có phần hời hợt với chính đạo lý mình đang tu học. Bởi chính đức Phật đã từ chối lối tu đỉnh cao của các đạo sĩ Ấn giáo vì cho rằng không đưa đến giải thoát khổ đau của sinh tử, vì ngài đản sinh là từ cõi trời Đao Lợi, ngài nhận thấy cho dù thời gian có dài bao lâu đi nữa thì cũng phải có hồi kết thúc nếu trong mỗi cá thể đó chưa đoạn tận cội gốc tham sân và si.


Không phải vô cớ mà Albert Einstein đã phát biểu: “…đến với Phật giáo là để nắm bắt chứ không phải để chiêm ngưỡng” ý tưởng đó đã trùng khớp với bài kinh mà đức Phật đã dạy: “…ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây (Đại kinh thí dụ lõi cây-Trung Bộ I, H.T Minh Châu)


Một nền tảng triết lý uyên thâm như vậy làm sao có thể một sớm một chiều mà có thể lãnh hội hết được, huống hồ những người lâu lâu mới đến Tam bảo thắp vài cây nhang, xin Phật ban cho phúc lành thì làm sao mà không bị chao đảo trước những thủ thuật lôi kéo số đông bằng vật chất và những người chạy đến vì cái bao tử? Đứng góc độ của nho học đã khó chấp nhận những người như vậy qua quan điểm sống: “Bần tiện bất nan di, uy vũ bất nan khuất”


Cho nên người Phật tử chân chánh hà tất phải bận lòng trước sự đến đi của thế sự, vì đó là bản chất của phiền não. Đức Phật đã từng dạy: “Nghèo túng do thiếu cơm ăn áo mặc chưa phải là khổ, mà người đó thiếu trí tuệ mới là khổ”. Bởi không phải chỉ khổ có đời này mà còn nhiều kiếp sống ở tương lai.


Lời nhắn nhủ đó đáng để chúng ta suy gẫm về cách hành xử, qua một bài viết với cái nhìn thiển cận chưa theo nổi tư tưởng đạo Nho, và triết lý của Tôn Tử mà đã dao động! Trong khi đối tượng giải thoát của đạo Phật đâu phải chỉ có giới hạn ở 7 tỷ người trên một hành tinh nhỏ bé này? Mỗi ngày chúng ta phát nguyện độ khắp pháp giới chúng sinh.

Cho nên bất cứ nơi đâu trong chốn thiền môn cũng nêu khẩu hiểu: “lấy trí tuệ làm sự nghiệp” chứ đâu có lấy giáo hội hay tín đồ làm sự nghiệp! Không khéo chúng ta bỏ chánh đạo để tập tễnh làm chánh trị thì chết dở, bởi cái này Phật hoàng Trần Nhân Tông đã xem như một đôi dép rách!

Đừng cho rằng số đông mới là hay là giỏi. Người xưa từng chủ trương: “quý hồ tinh, bất quý hồ đa” cho nên hậu đại học bao giờ cũng ít hơn trung học là điều tất yếu trong hệ thống giáo dục!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6952)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4052)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5560)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5759)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5092)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4424)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4207)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4229)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5649)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6348)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567