Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cải đạo và những động cơ

06/11/201204:22(Xem: 6323)
Cải đạo và những động cơ

Khái niệm ‘cải đạo’ được hiểu một cách phổ quát là bỏ đạo mình đang theo để chấp nhận một đạo mới. Hiện tượng ‘cải đạo’ chỉ có thể xảy ra khi có ít nhất hai đạo cùng tồn tại trên cùng một lãnh thổ nào đó.

Theo hiến pháp Việt Nam, việc theo hay không theo một tôn giáo là quyền tự do của công dân và không ai có quyền xâm phạm quyền ấy. Điều đó có nghĩa là, công dân được quyền quyết định niềm tin của mình một cách tự nguyện mà không bị áp lực từ bên ngoài. Những hành vi hay thủ đoạn mua chuộc, ép buộc, lừa đảo bằng bất cứ hình thức nào đều được xem là xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng. Vậy thì, sự ‘cải đạo’ cũng có thể xem là quyền tự do của con người và nó đã xảy ra khắp nơi trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Không ai có quyền cấm người khác cải đạo khi họ có những lý do chính đáng, nhưng chúng ta có quyền tư vấn, can thiệp và thậm chí phản đối khi những động cơ đưa đến sự cải đạo không lành mạnh xuất phát từ một trong hai phía hay cả hai.

Cũng như bác sĩ chẩn đoán bịnh nhân để tìm căn nguyên của nó, việc tìm hiểu động cơ cải đạo là ta đang chẩn đoán nguyên nhân của hiện tượng này. Nhận thức rõ tướng trạng của động cơ cải đạo thì ta mới hy vọng sẽ tìm ra giải pháp ‘cứu chữa’ hay ít nhất là ngăn chặn không cho chúng lan tràn thêm nữa. Dĩ nhiên, vi khuẩn mầm bịnh thì luôn luôn thay đổi nên công viêc ‘chẩn đoán’ cũng phải không ngừng hoạt động. Có thể nói rằng, đây là công việc không của riêng giới nào mà là công việc chung của mọi giới – những người đang quan tâm theo dõi sự thay đổi hàng ngày của hiện tượng cải đạo và những hậu quả đáng lo ngại cho đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, mọi người đều có thể đóng góp công sức nhỏ bé của mình bằng những khả năng và phương tiện có thể. Trên phương diện truyền thông, việc xuất bản và phổ biến những thông tin về động cơ của việc cải đạo và hậu quả của nó gây ra được xem là một đóng góp tích cực mà nhiều vị đã và đang thực hiện, và mọi người đều có thể làm được. Những nhân chứng cụ thể và những sự kiện lịch sử chứng thực sẽ hiển lộ những động cơ không trong sáng của việc cải đạo và do đó sẽ bị đối phương phán ứng bằng nhiều hình thức quy chụp, đã kích khác nhau. Tuy nhiên, kết của tích cực của những thông tin chính xác sẽ giúp cho những người đang bị cải đạo hiểu rõ được bản chất của nó và thoát khỏi cạm bẫy. Âu cũng là việc nên làm vậy.
Theo lịch sử Việt Nam, tất cả các tôn giáo được nhà nước công nhận đều có nguồn gốc từ ngoài lãnh thổ Việt Nam. Phật giáo được truyền vào Việt Nam rất sớm và phát triển rõ ràng nhất là vào hạ bán thế kỷ thứ II khi trung tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành. Suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển, Phật giáo Việt Nam chứng tỏ thực sự là một đạo từ bi vì không hề khởi xướng tranh giành quyền lực, tín đồ dẫn đến đến cảnh đau thương, chết chóc, chia rẽ, thù hận, v.v…như các tôn giáo khác đã và đang làm. Ngay cả dưới hai thời đại Lý và Trần khi Phật giáo là quốc giáo, Phật giáo cũng hòa đồng với các giáo phái khác và do đó mới có câu nói ‘tam giáo đồng nguyên.’

Lão giáo và Nho giáo cũng được cho rằng truyền vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ I – II nhưng vai trò ảnh hưởng của hai đạo này không lớn đối với xã hội Việt Nam mãi cho đến thế kỷ XI khi mà Nho giáo có vai trò chính yếu trên vũ đài chính trị kéo dài tới thế kỷ XIX. Lão giáo và Nho giáo nên xem là hệ thống triết lý hơn là tôn giáo và do đó từ ‘đạo’ có vẻ thích hợp với hai giáo phái này. Lão giáo thì không có hệ thống tổ chức giáo hội và tồn tại chỉ là các ‘hội quán’ hay nhóm nhỏ thực hành đạo lý hướng về cõi thần tiên. Nho giáo thì chủ trương thực hành thuyết ‘tề gia, trị quốc, bình thiên hạ’ nên chú trọng vào đời sống hiện thực thay vì đề cập đến thế giới bên kia. Đặc biệt, Nho giáo đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống chính trị phong kiến ở nước ta từ thế kỷ XI cho đến đầu thế kỷ XX. Cả hai giáo phái này đều không có đề cập về việc cải đạo.

Thiên chúa giáo lấy năm 1533 làm mốc lịch sử truyền giáo vào Việt Nam. Suốt 361 năm kể từ khi truyền vào Việt Nam đến năm 1884, Thiên chúa giáo có nhiều nỗ lực trong việc truyền giáo nhưng kết quả thật khiêm tốn. Thậm chí, tôn giáo này còn bị nhà nước cấm hay hạn chế sự truyền đạo. Tuy nhiên, sau khi triều đình Huế phải ký hòa ước công nhận Pháp đô hộ Việt Nam vào năm 1884, Thiên chúa giáo tại Việt Nam được tự do và công khai truyền đạo. Dưới sự ủng hộ của thực dân Pháp, Thiên chúa giáo phát triển rất mạnh về cơ sở vật chất lẫn tín đồ. Đặc biệt, dưới thời Ngô Đình Diệm, được sự bảo trợ của chính quyền, Thiên chúa giáo đã gây nhiều tổn thương cho Phật giáo nhằm mục đích phát triển tín đồ. Sau khi đất nước độc lập, đế quốc Pháp và Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, vậy mà Thiên chúa giáo Việt Nam vẫn còn là một bộ phận của Giáo hội Công giáo Roma (Roman Catholic Church), vẫn còn thần phục ngoại bang trong khi Thiên chúa giáo ở nhiều nước như Nga, Anh, v.v.. đã tách ra khỏi sự lãnh đạo của Vatican. Điều này rất đáng để chúng ta suy ngẫm và tìm câu trả lời thích đáng.

Một tôn giáo khác cũng có nguồn gốc từ Cơ Đốc giáo là Tin lành. Tin lành là phong trào kháng cách (Protestantism) tách ra từ Giáo hội Công giáo Roma xảy ra vào thế kỷ XVI ở châu Âu. Sau đó, tôn giáo này được truyền đi các châu lục khác và hiện nay rất thịnh hành ở Hoa Kỳ. Tin lành là tôn giáo sau cùng được truyền vào Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX trong thời kỳ Pháp đô hộ. Đầu tiên là các mục sư Tin lành thuộc Giáo hội Tin lành Pháp và sau đó là các mục sư đến từ tổ chức CMA thuộc Bắc Mỹ. Hiện nay, hệ thống tổ chức của các Giáo hôi Tin lành ở Việt Nam không phụ thuộc vào tổ chức Tin lành ở nước ngoài nhưng được hậu thuẩn rất mạnh về tài chính nhất là từ Hoa Kỳ. Cả Thiên chúa giáo và Tin lành đều có chủ trương và áp dùng nhiều chiêu thức để cải đạo nhằm mục đích phát triển tín đồ và nhiều ý đồ khác.

Một tôn giáo nhất thần khác cũng có chủ trương cải đạo rất ráo riết trên khắp thế giới là Hồi giáo. Tuy nhiên, Hồi giáo ở Việt Nam chiếm tỷ lệ tín đồ rất ít nên chiến lược cải đạo chưa thấy biểu hiện rõ ràng cho đến hiện tại.

Hai đạo còn lại là Cao Đài và Phật giáo Hòa hảo được thành lâp tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Nhìn chung, giáo lý của hai đạo này gần gũi với truyền thống Á đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Họ cũng có những quy định để bảo vệ và phát triển tín đồ. Tuy nhiên, phần lớn tín đồ theo hai đạo này là tự nguyện hơn là vì vật chất hay mua chuộc.

Sau khi sơ lược về các tôn giáo được công nhận tồn tại ở Việt Nam, chúng ta có thể xác định được tôn giáo nào có chủ trương cải đạo và từ đó tìm hiểu những mô thức mà họ đã và đang áp dụng và mục đích cuối cùng của họ là gì? Trước hết, chúng ta cần phân biệt rõ rằng tìm hiểu thêm về triết lý hay đạo đức của một truyền thống khác, ngoài truyền thống của mình không phải là cải đạo vì chúng ta không hề bỏ đạo gốc của mình; rằng hợp tác với các tôn giáo khác vì mục đích lợi ích chung (nếu có thể) cũng không phải cải đạo; và rằng ngay cả trường hợp nam nữ tiến đến hôn nhân nhưng vẫn tôn trọng truyền thống riêng của mỗi người cũng không gọi là cải đạo. Như vậy, việc cải đạo chỉ có thể xảy ra khi chúng ta chấp nhận từ bỏ đạo gốc của mình, từ bỏ truyền thống tâm linh, tổ tiên của mình để theo một cái hoàn toàn mới. Cũng cần lưu ý rằng, tiếp thu học hỏi những điều mới để làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần, và tâm linh của mình không phải là cải đạo.

Vào thời Nho giáo thịnh hành ở nước ta, nhiều người chạy theo Nho giáo để có cơ hội thăng quan tiến chức, rồi quay sang công kích Phật giáo. Tuy nhiên, họ cũng không hoàn toàn bỏ truyền thống của họ và do đó không ai cho rằng họ cải đạo. Ngược lại, thời Pháp đô hộ Việt Nam và thời Mỹ - Diệm, nhiều người cũng muốn tiến thân trên con đường tương tự nhưng họ không có quyền lựa chọn như trước. Nghĩa là họ phải chấp nhận cải đạo để theo Thiên chúa nếu họ muốn mau đạt mục đích. Và từ đây vấn đề cải đạo trở nên phổ biến với nhiều động cơ khác nhau từ hai phía. Động cơ chủ yếu của các con chiên là danh lợi và một phần niềm tin cứu rỗi, còn động cơ của các nhà truyền giáo là lợi dụng sự ủng hộ của con chiên để củng cố sức mạnh chính trị của họ. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, người ta buộc phải lựa chọn lối sống cho mình, và nhiều người đã đi theo con đường mới.
Sau khi đất nước độc lập và thống nhất, con đường quan quyền của người dân không còn phụ thuộc vào bất cứ tôn giáo nào mà nằm ở những người cộng sản. Vậy thì động cơ của việc cải đạo là gì? Đối với các con chiên, động cơ cải đạo trước hết là con đường tiến thân vì họ được giúp đỡ vật chất lẫn tinh thần, điều kiện học tập, và vì đạo lý ơn nghĩa của người Việt. Kế đến là sự yên tâm, chắc chắn sẽ được cứu rỗi bởi đã được các nhà truyền giáo viện dẫn kinh thánh hứa hẹn như thế. Ngoài ra, cũng không loại trừ trường hợp mua chuộc bằng vật chất, hù dọa về tinh thần và đặc biệt là chiến thuật ‘mạnh hiếp yếu’. Nghĩa là, nếu một vài người người Phật tử sống trong xóm đạo thì sớm hay muộn gì cũng phải cải đạo hay chuyển đi nơi khác. Làm sao có thể sống trong một môi trường mà sự tính toán cải đạo luôn là ý niệm thường trực của phần lớn các cha và con chiên. Vấn đề có lẽ còn phức tạp hơn nhiều.

Trường hợp của những người thuộc dân tộc thiểu số ở tây nguyên thì sao? Động cơ của họ là cần sự cứu rỗi của Chúa hay sự cứu rỗi của những nhà truyền giáo. Có lẽ ai cũng biết là họ cần sự cứu rỗi của những nhà truyền giáo hơn là sự cứu rỗi của Chúa trời vì chính những người này mới đem của cải vất chất đến để thay đổi cuộc sống nghèo khổ của họ hiện tại. Họ cũng có ‘ông Giời hay ông Giàn’ để cầu nguyện thì cớ gì phải thay bằng ông Chúa trời của Tin lành. Khổ nỗi là ‘ông Giời’ của họ còn nghèo nên đành chấp nhận nhượng bộ cho Chúa trời giàu có hơn vậy thôi. Marx nói ‘vật chất quyết định ý thức’ là đây. Đến khi mà ‘ông Giời’ của họ không còn đất sống (mất đi văn hóa dân tộc) thì họ trở thành nô lệ cho Chúa trời mới là điều hiển nhiên. Cũng lại khổ nỗi là nhiều người không nhận ra mưu đồ sâu xa của các nhà truyền giáo mà chỉ thấy cái lợi vật chất trước mắt với những lời hứa hẹn hấp dẫn thôi.

Công bằng mà nói, động cơ cải đạo của con chiên không hẳn hoàn toàn như trên đã nói mà cũng có những trường hợp tích cực đáng suy ngẫm. Đó là khi họ không tìm thấy trong truyền thống của họ những điều họ mong muốn, những điều có thể giúp họ giải quyết nỗi khổ niềm đau của họ, nhưng họ lại tìm thấy ở truyền thống khác. Nguyên nhân là họ không gặp được thầy lành, bạn tốt cùng đạo với họ, có thể giúp đỡ họ; trong khi đó họ lại được giúp đỡ tận tình bởi những người từ tôn giáo khác. Tính thiết thực của tôn giáo đã thuyết phục họ chứ không phải những giáo lý cao siêu huyền diệu đọc thì không hiểu mà hành thì không ai hướng dẫn. Đó chính là điểm yếu của Phật giáo hiện nay. Trong khi đó, các tôn giáo khác khai thác triệt để điều này bằng những tổ chức chặt chẽ, nhân sự có đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Đức Phật là một người ‘nói và làm’ thiết thực nhất trên thế gian này nhưng tiếc rằng đệ tử học và hành theo đức Thế Tôn thì quá ít. Đó là nguyên nhân sâu xa khiến cho kho tàng Phật pháp vô giá khó có thể đến với quần chúng bình dân ở những nước đang phát triển và do đó không giữ chân họ lại được khi có biến cố xảy ra với họ.

Nếu động cơ của con chiên có thể sơ lược như trên thì động cơ của các nhà truyền giáo là gì? Một câu hỏi lớn đặt ra là liệu các con chiên có thể ‘vừa kính Chúa vừa yêu nước’ không khi mà Giáo hội Thiên chúa Việt Nam là một phần của Vatican và phải chịu thần phục họ. Kính chúa thì dễ hiểu nhưng yêu nước là yêu nước nào: Việt Nam hay Roma. Tại sao Giáo hội Thiên chúa Việt Nam sinh hoạt trên đất nước Việt Nam nhưng không dám sinh hoạt độc lập mà lại thần phục ngoại bang?! Vậy thì Thiên chúa giáo kêu gọi tự do tôn giáo là tự do kiểu nào?! Nếu như Thiên chúa giáo tách khỏi Vatican thì họ có quyền sinh hoạt tôn giáo ‘kính Chúa yêu nước’ ở Việt Nam không. Chắc chắn là nhà nước Việt Nam không cấm họ mà còn tạo điều kiện cho họ sinh hoạt như trước giờ. Vậy thì động cơ nào mà họ không chịu tách khỏi Vatican mà vẫn tự nguyện tiếp tục thần phục như thế? Câu hỏi này xin nhường lại cho các bậc cao minh trả lời giúp.

Tục ngữ có câu ‘bánh ít đi, bánh quy lại’. Nghĩa là không có mối quan hệ bền vững nào lại diễn ra một chiều cả. Các nước phát triển viện trợ nhân đạo cho các nước nghèo đâu phải chỉ vì họ thương mình mà vì họ có được cái mà họ cần thông qua hành động ấy. Không lẽ Vatican vượt qua nguyên lý này chăng? Nếu không thì động cơ của họ là gì khi họ phải bỏ nhiều tiền chi tiêu cho các nước xa xôi khác. Nếu mục đích là ‘cứu rỗi’ những người có tội thì họ phải làm việc này ở phương tây mới đúng. Ngày nay, tín đồ phương tây phần lớn quay lưng với các nhà thờ vì họ không tìm thấy giá trị đích thực mà họ cần. Thế thì, lá bùa ‘cứu rỗi’ không còn hiệu nghiệm ở phương tây nên họ đem đi đến các nước nghèo để chiêu dụ. Nhưng tại sao họ phải làm điều đó và họ sẽ được những gì? Một lần nữa xin nhường câu hỏi này cho độc giả.
Từ ý trên, chúng ta ắt hẳn cũng thấy được động cơ của Thiên chúa giáo Việt Nam khi họ không tách rời Vatican. Họ phải được cái gì đó từ Vatican nên mới không chấp nhận độc lập. Cái mà họ cần là sức mạnh cả vật chất lẫn chính trị. Chính vì phụ thuộc nên họ mới thực thi mệnh lệnh cải đạo các tín đồ tôn giáo khác thay vì chỉ truyền dạy đạo đức và tâm linh. Chỉ truyền dạy đạo đức và tâm linh tôn giáo thì làm sao phát triển tín đồ trung thành và củng cố sức mạnh quần chúng được. Do đó, cải đạo không phải chỉ nhằm mục đích cứu rỗi mà nhằm vào mục đích chính trị của những tổ chức chủ trương nó. Nó hoàn toàn không phù hợp với ý Chúa Jesus.

Theo Thiên chúa giáo và Tin lành, hai con đường mà con người phải đi là thiên đường hay địa ngục. Nếu muốn lên thiên đường thì phải tin Chúa còn ngược lại thì xuống địa ngục. Nếu vậy thì tín đồ của các tôn giáo khác đi xuống địa ngục hết rồi vì họ đâu có tin Chúa bao giờ. Đây phải chăng là chân lý của thế kỷ 21?! Lại nữa, những người tin Chúa, trung thành với Chúa thì Chúa sẽ cứu tội hay chuộc tội cho. Vậy thì ai là người sẽ được cứu tội hay chuộc tội? Chắc chắn đó là những người gây nhiều tội ác như chiến tranh, tàn sát nhân loại, ăn chơi trụy lạc, tiêu xài hoang phí gây ô nhiễm môi trường toàn cầu…. Vậy thì hà cớ gì Chúa không chuộc tội cho họ mà phải mất công lặn lội đến những nơi dân tộc thiểu số vốn hiền lương và thật thà kia. Nếu so sánh tội ác thì chắc chắn những người dân tộc thiểu số thua các vị ở những nước văn minh nhiều đấy. Là Đức Chúa trời sáng suốt, Ngài chắc hiểu rõ cần phải cứu rỗi ai chứ. E rằng, người ta vì mục đích nào đó mà mượn danh đức Chúa để đi lừa bịp những người hiền lương rồi.
Nếu không phải vì động cơ cứu rỗi thì chắc chắn phải có động cơ khác. Vậy động cơ ấy là gì? Rõ ràng, không ai tin rằng những người gởi tiền từ Mỹ về cho các nhà truyền giáo Tin lành đi cải đạo tín đồ với chỉ mục đích giúp đỡ dân lành. Nếu họ vì nhân đạo thì tại sao không chỉ cứu giúp đơn thuần và có thể giảng dạy đạo đức mà lại bắt buộc người nhận phải cải đạo. Tại sao phải dụ dỗ người ta bỏ đi bao truyền thống văn hóa của họ để đi theo cái ‘tối thượng’ không bao giờ chứng minh được? Vậy thì, động cơ của họ là tranh thủ tập hợp quần chúng để củng cố sức mạnh quyền lực, đợi thời cơ thích hợp thực hiện mưu đồ riêng của họ. May thay, người Việt không đến nỗi bị mắc lừa quá nhiều.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng trước khi Thiên chúa giáo và Tin lành truyền vào Việt Nam thì không có chuyện cải đạo hay nói đúng hơn là tranh giành tín đồ. Ngoại trừ hai tôn giáo này cộng với Hồi giáo có chủ trương và đường lối cải đạo, Phật giáo và các tôn giáo còn lại không hề có quan niệm này. Sự truyền giáo là đem đến cho tín đồ những giá trị đạo đức và tâm linh để giúp họ vượt qua nỗi khổ niềm đau, lý giải những bế tắc trong cuộc sống. Do vậy, cùng lúc họ có thể thực hành nhiều truyền thống mà không có mâu thuẩn gì. Tuy nhiên, khi các tôn giáo nhất thần truyền vào thì vấn đề trở nên phức tạp và đôi khi căng thăng. Từ đó, chúng ta có thể lý giải phần nào bản chất của các tôn giáo này.

Những điều vừa nêu chỉ là sự hiểu biết hạn hẹp của người viết nên không thể bao quát đầy đủ những động cơ khác. Tuy nhiên, ít ra những động cơ ấy cũng phản ánh cơ bản tình trạng cải đạo không lành mạnh xảy ra ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hy vọng mọi người đủ tỉnh táo cảnh giác với những chiêu thức cải đạo mới lạ để không bị rơi vào cạm bẫy của những kẻ có mưu đồ đen tối.

Thích Hạnh Chơn

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2015(Xem: 5335)
Noel năm nay có vẻ rầm rộ đồng bộ từ trong nước đến ngoài nước; riêng Việt Nam, T.V báo đài đồng loạt đưa tin và phổ biến âm nhạc, trình bày cảnh vật mua sắm, hình ảnh hang đá, cây thông và những biểu tượng Giáng Sinh. Các tỉnh, thành có giáo xứ đều trưng bày cờ xí, băng rôn rợp bóng; Đêm 24, dù không phải tín đồ Kitô giáo, thanh niên nam nữ cũng tràn ngập đường phố, ăn chơi thoải mái như chưa từng được tự do như thế. Phật giáo cũng cử đoàn đến thăm viếng các giáo phận, giáo xứ thể hiện tinh thần đại đoàn kết tôn giáo. Thời bình có khác!
05/01/2015(Xem: 6352)
Trước vấn đề nầy, liên tưởng đến Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, thiết nghĩ, hai tổ chức khác nhau từ giáo lý đến tổ chức hành chánh, Phật giáo không có một cơ cấu thống nhất mang tính quốc tế, Phật giáo mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng tập quán, thổ nhưỡng khác nhau, vấn đề nội kết cũng khác nhau, sự sai phạm cũng khác nhau; do mang tính cá thể mà phạm luật cũng có tính cách tự phát của cá nhân. Vấn đề ở đây, dù cá nhân sai phạm, nhưng ít nhiều ảnh hưởng thanh danh tập thể và làm mất ít nhiều niềm tin của tín đồ, Giáo hội Phật giáo cũng phải có trách nhiệm, ngoài việc xử lý thông tin đối ngoại, Giáo hội cũng cần có tiếng nói trung thực “Con dại cái mang”; đó là cách xì hơi để quần chúng nhẹ nhõm, cảm thấy dẫu sao giới lãnh đạo Phật giáo biết nhìn nhận sự thật khi truyền thông xã hội loan tải. Hẳn nhiên không hoàn toàn đúng khi truyền thông loan tải, nhưng ít ra 50% cũng phải có vấn đề; sau khi xác minh sự thật, sự xin lỗi quần chúng hay nhận lỗi với các bậc chân tu,
03/01/2015(Xem: 4904)
Bản báo cáo có độ dầy 8 trang A 4, không quá dài nhưng vừa đủ nêu lên những thành tựu lẫn khiếm khuyết trong năm vừa qua. Đặc biệt, bàn báo cáo đã nhận định rất sát những vấn đề nổi cộm dư luận trong và ngoải Phật giáo rất quan tâm. Từ trong một góc khuất của khán phòng ở đầu cầu phía Nam, người viết rất chăm chú vào từng chi tiêt bản báo cáo đặt ra mà trong đó, từng khía cạnh đã được bóc trần, nhất là mảng đấu tranh với tiêu cực trong nội bộ Phật giáo được trình bày cụ thể trong phần 2 mục “Xử lý Thông Tin”. Qua đó cho thấy lãnh vực này rất còn thiếu những ngòi bút thiện chí, mạnh dạng đứng ra đóng gòp phần sở kiến của mình trước công luận nhằm tư vấn cho Giáo Hội các cấp có phương hướng xử lý vụ việc. Ban TTTT Trung Ương GHPGVN, trong đó có trang nhà Phatgiao.org, đã làm đúng chức năng lãnh đạo và hướng dẫn của mình trong vấn đề nhạy cảm này, còn là thề hiện một chổ dựa vững chắc cho các Ủy viên của mình đang dấn thân vào cuộc từng ngày, từng giờ.
02/01/2015(Xem: 6199)
Trong bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về 7 bước phải trải qua trước khi thông tin của website được hiển thị trên trình duyệt của người dùng. Chúng ta cũng biết rằng, khi bị gián đoạn ở bước 1 đến bước 3, giải pháp khắc phục thuộc về người xem website (visitor). Khi bị gián đoạn từ bước 4 đến bước 6, giải pháp khắc phục thuộc về người quản trị website (webmaster). Trong bài này, chúng ta tìm hiểu các giải pháp khắc phục cho 3 bước đầu tiên, tức là dành cho người xem website (visitor). Các hướng dẫn dành cho người quản trị website (webmaster) sẽ được trình bày trong một bài sau.
22/12/2014(Xem: 7087)
Bên Czech, tại một cửa hiệu trưng bày hàng nội thất, trong đó bồn cầu in hình đức Phật Bổn sư trên nắp, dĩ nhiên đó không phải là một sản phẩm duy nhất, những bồn cầu khác trang trí hoa lá, ngôi sao, cá cảnh...nghĩa là nhà sản xuất xem đây chỉ là một trong những kiểu trang trí cho sản phẩm?
22/11/2014(Xem: 29350)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
19/11/2014(Xem: 8599)
Nền tảng của đạo Phật là những lời Phật dạy được ghi chép trong Kinh điển. Người Phật tử tự nguyện đặt niềm tin vào Kinh điển với sự suy xét sáng suốt và trải nghiệm của chính bản thân mình, hoàn toàn không do bất kỳ áp lực nào từ người khác. Thế nhưng, tiến trình xác lập niềm tin vào Kinh điển thật không đơn giản và dễ dàng. Thứ nhất, làm sao để chúng ta có thể tự mình xác định được những bản văn thực sự là Kinh điển mà không sợ mắc phải sai lầm? Thứ hai, khi học hỏi và nghiên cứu Kinh điển để áp dụng vào sự tu tập, chắc chắn sẽ có những điểm mà chúng ta không đủ sức nhận hiểu tức thời hoặc thậm chí qua nhiều năm tu tập. Những điều không hiểu được đó tất yếu sẽ là nguyên nhân làm khởi sinh những mối nghi trong lòng ta. Vậy phải giải quyết những mối nghi này theo cách như thế nào?
14/11/2014(Xem: 6160)
Gần đây, người viết nhận được rất nhiều thư từ, email và đặc biệt được tiếp rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng trực tiếp đến trao đổi về cách phối nhạc (trong đó có cổ nhạc) các bài kinh chú trong kinh Phật. Tuy được trả lời là không thuộc thẩm quyền cũng như không phải là một cán bộ hoạt động văn hóa Phật giáo có chứng nhận hợp pháp, nhưng các bạn vẫn tin tưởng và chỉ xin một vài ý kiến nhỏ để làm tinh thần ban đầu thực hiện các tâm nguyện nghệ thuật tiếp theo. Nghĩ đó là chuỵện lợi ích cho Phật pháp và trước tấm lòng ấy của các bạn chúng tôi đã chia sẻ một số vấn đề liên nhưng có giới hạn, bởi lẽ những gì chưa nói là phần tôn trọng một đấng “vô sư trí” trong các bạn. Vả lại, trong nghệ thuật không có biên giới cảm tác và cách thể hiện cũng chính là cách để công chúng biết đến giá trị thật của nhân tố thực hiện.
11/11/2014(Xem: 11969)
Có nên dịch lại Tâm kinh hay không Gần đây, thầy Nhất Hạnh đã dịch lại Tâm kinh Bát-nhã. Trang Làng Mai có đăng tải bản dịch mới, kèm theo những giải thích của thầy về việc phải dịch lại Tâm kinh. Rất nhiều trang mạng đã đăng tải bản dịch mới này, trong đó có cả Thư viện Hoa Sen. Bên dưới bài đăng ở Thư viện Hoa Sen có nhiều nhận xét của người đọc để lại, cho thấy khá nhiều ý kiến trái chiều nhau quan tâm đến việc này.
08/11/2014(Xem: 5049)
Mẹ dắt con trai 10 tuổi về chùa xin Sư quy y. Buổi lễ quy y Sư để ý cậu con trai có gương mặt phúc hậu yên lặng tham dự buổi lễ từ đầu đến cuối. Người mẹ 35 tuổi tín tâm hướng về Phật dâng trọn tấm lòng thành. Mẹ Vũ thị H Sư cho Pháp danh: Thường Giới
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]