Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giảng Phật pháp gì cho người Thượng?

23/10/201205:08(Xem: 8177)
Giảng Phật pháp gì cho người Thượng?

nguoithieusovietnam_1GIẢNG PHẬT PHÁP GÌ CHO NGƯỜI THƯỢNG?

Nguyên Hiệp

Sau khi Trưởng lão Mahinda, con trai của vua A Dục, truyền bá Phật pháp đến Srilanka và thực hiện một số việc liên quan đến việc truyền bá Phật pháp, vị vua trị vì đảo quốc này đã hỏi Trưởng lão rằng, có phải Tăng đoàn đã được thiết lập vững chắc ở đảo quốc này rồi không.

Trưởng lão Mahinda trả lời, Phật pháp chỉ mới được gieo trồng, còn để bám rễ vững chắc ở mảnh đất này thì cần đến một người ở chính Srilanka, có cha mẹ là người Sinhale, học tập Luật (Vinaya) ở Srilanka và giảng giải nó ở Srilanka. Tức muốn nói rằng, để Phật pháp hưng thịnh được ở Srilanka, thì cần đến chính người Srilanka xuất gia và truyền bá Phật pháp.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một trong các bản kinh được chuyển dịch sớm nhất sang Hán ngữ, và cũng được xem là bản kinh mở đầu cho việc truyền bá Phật pháp sang Trung Hoa. Kinh Tứ Thập Nhị Chương ngắn gọn, nhưng đã nói lên được những vấn đề cốt tủy của Phật giáo, và được xem là dễ dàng thích ứng với văn hóa Trung Hoa.

Những phái đoàn truyền bá Phật pháp sang nước khác dưới thời vua A Dục được cho là thành công, điều này nhờ vào những người truyền bá Phật pháp đã được huấn luyện và có sự chuẩn bị kỹ về “chuyên môn” cũng như được sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhà vua. Những người mang Phật pháp đến Trung Á và Trung Hoa sau đó, cũng được trang bị kỹ, không chỉ thành thạo về Phật pháp mà cũng giỏi về ngôn ngữ, địa lý, chiêm tinh, số học, y khoa và thậm chí cả pháp thuật…

Qua những điều được đề cập này, chúng ta thầy rằng người xưa khi truyền bá Phật pháp đến một vùng đất mới, trước tiên họ tính đến một “cẩm nang” Phật pháp phù hợp với “dân trí” của vùng đất đó, và thứ đến để Phật pháp phát triển bền vững được ở vùng đất mới, phải cần đến chính người dân ở vùng đất đó đảm trách công việc này.

Chúng ta nói một vài chuyện xa xưa để suy nghĩ về việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng ở Việt Nam hiện nay. Việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng hiện nay, cũng không thể không noi theo những gì người xưa đã làm: cần một quyển sách Phật pháp dành riêng cho người Thượng; và huấn luyện để người Thượng tiếp nối vai trò hoằng pháp, hoặc chí ít là có một người ở trong cộng đồng bản làng nắm vai trò giữ đạo cho người trong bản sau khi họ đã quy y.

Những năm gần đây, chúng ta vui mừng vì thỉnh thoảng nghe nơi này nơi kia có những buổi lễ quy y tập thể cho đồng bào người Thượng, có những ngôi chùa đã tổ chức khóa tu cho người Thượng và cũng có những quý thầy đã vào các bản làng để làm từ thiện. Nhưng có một điều chúng ta dễ nhận thấy là Phật giáo đã thiếu những bước chuẩn bị căn bản khi truyền bá Phật pháp cho cộng đồng này. Việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng trong những năm qua, nhìn vào thấy rõ tính “phong trào”, bên cạnh còn cho thấy nó phát xuất do sự tác động từ phía bên ngoài vì những lý do nào đó, hơn là phát xuất từ chính bên trong Phật giáo.

Bởi vì không có sự chuẩn bị kỹ, làm theo cảm hứng và thụ động, cho nên dù đôi khi ta nghe có ban này ngành nọ được thành lập để truyền bá Phật pháp cho cộng đồng người Thượng, thì những hoạt động mà chúng ta thấy được chỉ mang tính nhất thời, đối phó, và rồi chúng ta không hề biết cộng đồng người Thượng sau khi quy y đã sinh hoạt Phật pháp như thế nào, và việc quy y có đem lại những lợi ích gì cho họ trong đời sống tâm linh cũng như trong đời sống xã hội. Và chúng ta cũng không biết có bao nhiêu người Thượng tiếp tục là Phật tử sau khi quy y, và ai là người tiếp tục “chăm lo” đời sống tâm linh cho cộng đồng này.

Theo thiển ý của tôi, việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng trong những năm gần đây, trước hết, đã thiếu đi điều căn bản quan trọng nhất, đó là việc tìm hiểu “căn cơ” của cộng đồng này để soạn thảo một cuốn sách Phật pháp thích hợp cho họ. Chúng ta nói về việc truyền bá Phật pháp cho người Thượng, vậy chúng ta đã giảng những Phật pháp gì cho họ? Liệu người Thượng có hiểu được các giáo pháp như Vô thường, Khổ, Vô ngã, Tánh không, Niết-bàn, Phật tính…? Căn bản hơn, họ có thể lãnh hội được những điều như tam quy, ngũ giới, thập thiện, nhân quả…?

Đối với cộng đồng người Thượng, cho dù họ có một vốn liếng khá về tiếng Việt, hoặc người truyền bá Phật pháp có thể nói được tiếng của họ, thì việc giảng giải Phật pháp dong dài là một việc làm vô bổ. Bởi vì, đối với cộng đồng người Thượng hiện nay, “nhận thức” của họ về tôn giáo còn rất giản đơn. Và nhiều vấn đề “triết học” có thể quen thuộc với người Kinh, nhưng đối với người Thượng lại không dễ dàng để tiếp nhận. Và có những điều nếu chúng ta nói cho họ nghe, chỉ có mất thời gian mà chắc chắc họ sẽ không hiểu được gì.

Tôi xin kể lại một câu chuyện thế này. Mẹ của tôi tu tập Bát quan trai tại một ngôi chùa ở thị trấn huyện. Và tôi nghe bà kể lại rằng ở đạo tràng này có khoảng 30 người là dân tộc thiểu số, và hầu hết họ là người trẻ. Cơ duyên để họ tham dự đạo tràng này là do một cô Phật tử người Kinh hướng dẫn. Cô Phật tử này có chồng là người Thượng. Sau khi lấy chồng và “xuất giá tòng phu”, cô đã vào trong bản (của chồng) sống, và chính cô là người đã “
hóa độ” chồng và khuyến hoá những người Thượng trẻ tuổi kia trở thành Phật tử và mỗi nửa tháng ra ngôi chùa ở thị trấn tham dự khoá tu Bát quan trai một lần.

Tôi không rõ cô Phật tử đã nói những Phật pháp gì cho những người Thượng này. Nhưng tôi nghe mẹ tôi kể rằng, khi tham dự khóa tu, nhưng người Thượng này rất thành tâm, nhưng có điều mỗi khi đạo tràng tụng kinh thì họ chỉ ngồi chắp tay… im lặng vì không tụng đọc được, và khi nghe thầy thuyết giảng họ cũng không hiểu gì cả. Vậy thì tại sao họ theo Phật giáo? Họ theo vì điều gì? Và việc theo như vậy có được lâu dài không?

Lại một chuyện khác liên quan đến bản thân tôi. Năm rồi tôi về quê làm lại giấy chứng minh nhân dân. Tại nơi làm giấy chứng minh nhân dân, trong khi chờ đến lượt mình, tôi đã điền hộ giấy tờ cho những anh chị người Thượng cũng đến làm giấy chứng minh nhân dân, bởi vì họ không biết chữ, mặc dù họ nói được tiếng Việt.

Tôi kể một vài chuyện lan man trước khi nói đến việc thuyết giảng những Phật pháp gì cho người Thượng. Theo tôi, như vừa mới nói ở trên, để truyền bá Phật pháp cho người Thượng, trước hết cần phải biên soạn một quyển sách Phật pháp ngắn gọn. Và quyển sách Phật pháp này trước hết là dành cho người truyền bá, và sau đó là cho đối tượng được truyền bá. Cuốn sách này được viết dưới dạng sám kệ, rõ ràng, dễ đọc và dễ thuộc. Cuốn sách sẽ là những gì người truyền đạo sẽ nói với người Thượng, nhưng cũng là một dạng sám nguyện dành cho người Thượng ngay ở tại buôn làng của họ. Nội dung của cuốn sách này có thể bao gồm hai điểm chính sau:

- Xây dựng hình ảnh đức Phật.

Những Phật tử “hiểu đạo” thường hiểu rằng đức Phật là một bậc Đạo sư, một người thầy dẫn đạo chứ Ngài không phải thần linh có khả năng ban phước hay giáng họa cho ai. Những đệ tử của Ngài, nếu muốn đạt được giác ngộ giải thoát thì nên tu học theo giáo pháp của Ngài và tự mình thắp đuốc lên mà đi…

Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, một bậc giáo chủ như vậy sẽ không làm họ thỏa mãn. Khi chúng ta tặng cho họ một bức ảnh/ tượng Phật, chúng ta sẽ nói gì với họ về việc treo hoặc thờ bức ảnh/ tượng ấy? Nói dong dài về tiểu sử của Ngài từ đản sanh đến niết-bàn, rồi sau đó kết luận rằng Ngài là bậc Đạo sư chỉ đường và các vị nên tu theo lời dạy của Ngài nếu các vị muốn giải thoát, chứ Ngài không có khả năng giáng họa hay ban phước cho ai? Hay là chúng ta nói với họ rằng, các vị hãy thờ đức Phật này. Ngài sẽ giúp cho các vị an ổn, nếu các vị chịu khó làm ăn và không làm điều xấu ác?

Theo tôi, nói ngắn gọn, với đồng bào người Thượng, đức Phật phải là một đấng thiêng liêng, không phải như thần linh thì cũng phải gần với ông Bụt trong dân gian Việt Nam. Ngài sẽ không giáng họa và trừng phạt ai, nhưng Ngài sẽ giúp đỡ người tốt. Theo và thờ Ngài trong nhà thì những điều tốt lành sẽ đến.

Tóm lại, hình ảnh đức Phật trong cuốn sách này vừa là một đấng bi trí vẹn toàn, nhưng cũng phải là người có khả năng cứu độ chúng sanh. Và đức Phật phải vượt qua Giàng (trời) của họ.

Tôi cũng xin mở ngoặc để nói thêm rằng, đọc những dòng này chắc có người sẽ cho tôi muốn xây dựng một hình ảnh đức Phật “thần quyền” cho cộng đồng người Thượng. Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng, Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam đầu tiên cũng dưới dạng một tôn giáo “thần quyền”. Và cũng thử làm một cuộc “điều tra xã hội” xem, có bao nhiêu Phật tử đến chùa mà không cầu Phật “gia hộ”. Thực ra, hình ảnh một đức Phật siêu nhiên đã hiện diện trong kinh sách Phật giáo, không chỉ trong kinh điển Đại thừa mà cũng ở trong Phật giáo Theravada.

- Phật Pháp căn bản

Phật pháp căn bản ở đây không phải là những giáo pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Ngũ uẩn.v.v.. Bởi vì những giáo pháp mà ta xem là căn bản này, người Thượng sẽ không hiểu được. Những giáo pháp căn bản mà tôi muốn nói ở đây là những nguyên tắc sống và đạo đức cụ thể mà chúng ta rút ra từ kinh sách.

Thứ nhất chúng ta cần phải nói về ba quy y và năm giới. Những giới như không uống rượu và không trộm cắp là cần thiết cho người Thượng hiện nay. Người Thượng trước đây họ rất thật thà, nay do sống gần người Kinh, cũng sinh tật trộm cắp. Còn uống rượu dẫn đến gây tai nạn xe máy do người Thượng gây ra, cũng rất phổ biến hiện nay. Về giới không sát sinh, cần nên nhấn mạnh vào việc không được giết người. Nói không sát sanh chung chung thì người Thượng sẽ không theo được. Ở vùng tôi đã có hiện tượng người Thượng giết người cướp của, điều mà trước đây không bao giờ xảy ra.

Tiếp theo chúng ta sẽ bổ sung thêm những nguyên tắc sống khác mà chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều kinh sách, chẳng hạn như: phải siêng năng làm việc; phải thương yêu giúp đỡ vợ con (cần nhấn mạnh điều này); phải nuôi nấng cha mẹ già, không bài bạc…

Cũng cần nói về giáo lý nhân quả, nghiệp báo cho họ. Nói ngắn gọn rằng nếu làm điều tốt, cần cù siêng năng thì họ sẽ gặp điều tốt, sẽ được chư Phật gia hộ. Nếu biếng nhác và làm điều ác thì họ sẽ gặp quả xấu. Và như tôi đã nói, những nguyên tắc này nên được viết dưới dạng sám nguyện, dù là thơ hay văn xuôi, để sau một thời gian nghe hoặc đọc theo, họ có thể thuộc lòng.


Về đối tượng mà người truyền đạo trước hết cần nhắm đến là các vị trưởng bản, và những người trẻ có thể đọc được chữ quốc ngữ, hoặc những người nghe sành tiếng Việt. Việc truyền đạo đến một cộng đồng văn
hóa mới, nếu người truyền bá biết được chữ và tiếng nói của họ là điều rất ưu thế. Nhưng trong điều kiện không có người thành thạo ngôn ngữ của họ để đảm trách công việc này, thì việc tranh thủ những người biết chữ quốc ngữ và sành tiếng Việt là điều cần ưu tiên. Và tôi cũng xin nói thêm, có một số cộng đồng dân tộc thiểu số có ngôn ngữ riêng, nhưng họ không có chữ viết. Ví dụ như cộng đồng Vân Kiều ở xứ của tôi.

Tôi không rõ ở các nơi khác như thế nào, riêng những gì tôi biết được ở xứ tôi, những người Tin Lành khi truyền đạo, trước hết họ đều nhằm vào các vị trưởng bản và những người “sáng giá” ở trong cộng đồng. Việc “
hóa độ” được người đứng đầu và những người có ảnh hưởng ở trong bản làng, sẽ tạo điều kiện tốt cho việc giáo hóa những người khác. Và những buổi lễ quy y cho đồng bào người Thượng, sẽ là tốt hơn nếu được tổ chức tại một gia đình của buôn làng, và gia đình này nên trở thành điểm sinh hoạt Phật pháp về sau của bản. Điều này cũng giống như các làng kinh tế mới trước đây (ở vùng tôi), thường “mượn” nhà của một Phật tử nào đó làm địa điểm sinh hoạt Phật pháp khi họ chưa xây được chùa hay niệm Phật đường. Việc vận động cả một cộng đồng người Thượng đông đảo kéo về thị xã hay thành phố để quy y tập thể, điều có thể tạo được “tiếng vang”, và có thể tốt ở một góc độ nào đó. Nhưng cũng sẽ trở thành bi hài là sau khi quy y ở một hội trường to đùng nào đó ở thành phố, các tân Phật tử nhận tiền, gạo, xe đạp… rồi trở về buôn làng và trở thành tín đồ của tôn giáo khác.

Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số, khi đem đến cho họ một niềm tin tôn giáo mới, cũng cần phải nghĩ đến việc thay đổi một số điều kiện sống nào đó của họ. Điều kiện sống của người Thượng hiện nay nói chung là rất tệ và thua kém rất nhiều so với người Kinh. Nhưng rõ ràng là không dễ để thay đổi triệt để những điều kiện sống tồi tệ của một bản làng người Thượng. Tuy nhiên, nếu việc hoằng pháp có sự hỗ trợ của nhiều người và có những chương trình hoạt động hiệu quả, có thể cải đổi được một số vấn đề nào đó.

Ví dụ, nếu việc hoằng pháp được kết hợp với việc làm từ thiện, và một vài “công tác xã hội” khác chẳng hạn như “tư vấn” về việc vệ sinh nguồn nước, giữ sạch đẹp buôn làng, chăm sóc sức khỏe, hướng dẫn các loại cây trồng và cách trồng trọt… và hơn hết là truyền bá những nguyên tắc đạo đức Phật giáo, thì ngoài việc chúng ta đem lại cho họ một đời sống tâm linh mới, cũng đang phát triển một phần nào đó “đời sống xã hội” của họ. Việc làm từ thiện đối với người Thượng, cũng như đối với người Kinh, hẳn không nên nhắm mắt đem tiền của ban phát để họ thay đổi chế độ ăn uống trong một vài ngày, điều mà đôi khi ta tưởng là đang “ban vui cứu khổ” hay xóa bớt bất công, nhưng lại đang tạo nên sự bất công mới.

Ở trước chỉ là một vài suy nghĩ cá nhân, và những ý kiến này không phải là những đề xuất. Mà đề xuất cho ai? (và nghĩ mình cũng chẳng đủ khả năng để đề xuất cho ai). Những dòng này, nếu có ai đọc được thì chỉ nên coi như những “chia sẻ”, và nếu thấy nó có chút nào đó hợp lý thì cùng nhau nghiên cứu thêm để tìm ra một mô hình truyền bá Phật pháp bền vững hơn cho cộng đồng người Thượng.

Việc truyền bá Phật pháp cho cộng động người Thượng bằng cách thâm nhập sâu vào trong các bản làng hẳn sẽ gặp trở ngại, bởi các bản làng người Thượng thường được coi là những địa điểm “nhạy cảm”. Việc các nhóm tự vào các bản làng hoằng pháp cộng với các hoạt động từ thiện và xã hội là không dễ được chấp nhận, nhất là khi các nhóm làm việc độc lập và không thông qua một ban ngành hay tổ chức chính thức nào.

Nhưng với tình hình hiện nay, thì các chùa gần các buôn làng hoặc các Phật tử nên tự tập hợp lại thành nhóm và tự làm lấy công việc này, dù có thể là khó khăn. Chờ đợi các ban ngành hay tổ chức chính thức của Phật giáo thực hiện công việc này một cách bài bản, thì có khi dân chúng của các bản làng đã trở thành tín đồ của các tôn giáo khác hết rồi. Sự thực, ở tỉnh tôi (và rất nhiều tỉnh khác), đã không có bất kỳ hoạt động hoằng pháp nào của các ban ngành giáo hội địa phương cho các buôn làng trong địa bàn, ngoại trừ thỉnh thoảng có một vài chùa hay các nhóm Phật tử ở đâu đó đến “bố thí” và rồi rời ngay sau đó. Và thường các đoàn từ thiện cũng không vào tận trong các bản làng để cứu tế, mà họ chỉ tập trung tại uỷ ban xã hay một ngôi chùa nào đó và mời đồng bào người Thượng đến nhận tài vật.

Mọi việc đã quá muộn. Nhưng nếu cố gắng thì có thể vớt vát được phần nào!

Nguyên Hiệp
(Pháp Luân)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/05/2016(Xem: 5728)
Hiện nay, vấn đề tín ngưỡng trở thành một trong những nhu cầu không thể thiếu trong bất cứ quốc gia nào; cho dù một quốc gia duy vật khắc khe, việc tín ngưỡng không được bộc lộ công khai, nhưng một cá nhân đối diện trước những khổ đau, vấn nạn bức bách, họ sẽ hướng về đâu để hy vọng thoát những khổ đau, tai ương hay mong cầu một lý tưởng nào đó sẽ trở thành hiện thực khi mà xã hội và luật pháp không giúp họ toại nguyện? Lịch sử nhân loại đã chứng minh, Liên sô, Đông Bá Linh, Cu Ba, Trung Cộng..
10/05/2016(Xem: 16602)
Hằng triệu dân Miền Nam nói chung trong các tôn giáo, nói riêng Quân, Cán Chính VNCH, (KiTô Giáo, Tam Giáo), tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, đều thấy biết chốp bu (VIP) của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đều là Tướng, Tá các cấp trong Tam giáo, do Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch có lời hiệu triệu kêu gọi toàn quân binh chủng tham gia Cách Mạng nhưng, những Tướng, Tá các cấp Cần Lao KiTô Giáo ngồi im và có hành động chống lại. Tức thì liền bị bắn chết ngay. Như Đại Tá Quyền (Cần Lao – Bộ Tư Lệnh Hải Quân) bị bắn chết trên xa lộ, do không tham gia, chống lại HĐQNCM. Nói rõ hơn, Tướng, Tá gốc Cần Lao Thiên Chúa không ai lên tiếng xin tham gia, đánh điện ủng hộ. Đến khi nghe ĐT Quyền bị bắn chết, liền gọi điện thoại, đánh công điện về Bộ Chỉ Huy Cách Mạng xin tham gia, nói lời ủng hộ. Nhưng, tất cả đều giả vờ, không thật lòng, là ý tưởng chung của các ông Cần Lao, họ đã hội kiến với nhau, với các giới KiTô trong nhà thờ, ngoài xóm đạo, là cứ giả theo, để rồi sau đó
04/05/2016(Xem: 5119)
Từ khi phương thức bán hàng trực tuyến (online) ra đời đã giúp ích và hỗ trợ rất nhiều thời gian cho những ai muốn mua sắm mà không có điều kiện đến tận siêu thị hay cửa hàng chuyên dụng. Đây là cách bán hàng hiệu quả nhất trong thời đại công nghệ tiên tiến, do đó đã có rất nhiều trang mạng kinh doanh theo phương thức này thi nhau ra đời, đáp ứng như cầu mua sắm của nhiều tầng lớp người tiêu dùng.
28/04/2016(Xem: 10686)
Chúng ta cần 100.000 chữ ký cho đến hết ngày 26/5/2016, để gửi thỉnh cầu lên Tổng Thống Obama lên tiếng yêu cầu chính phủ VN quan tâm và giải quyết vấn đề phá hoại môi trường sống của các vùng biển miền Trung VN, trong đó có Hà Tỉnh, Quảng Trị, Quảng Bình, và Huế. Đặc biệt, Hà Tĩnh là tỉnh nơi có khu kinh tế to lớn đang phát triển, trong đó bao gồm nhiều nhà máy công nghiệp do Trung Quốc và Đài Loan đầu tư nhiều tỷ đô la, một trong số đó là nhà máy thép do tập đoàn Formosa (China-Taiwan) làm chủ. Vừa qua nhà máy này đã nhập gần 300 tấn hóa chất cực độc để tẩy rửa nhà máy, rồi thải ra biển, làm cho cá chết hàng loạt và những loài động vật quý hiếm sống trong các vùng biển này, xin vào ký tên ngay ở đây: https://petitions.whitehouse.gov/petition/help-vietnamese-people-prevent-environmental-disaster-ha-tinh-province-central-vietnam Xin lưu ý sau khi ký tên xong, phải xác nhận một nữa địa chỉ email trong mail box của mình. Trân trọng kính thông báo, Chủ biên Trang Nhà Quảng Đức
27/04/2016(Xem: 10779)
Trọng tâm của bài viết nầy nhằm tìm nguyên nhân tại sao người Phật tử bị cải đạo và đề nghị phương pháp ngăn ngừa, chứ không phải là so sánh giữa hai tôn giáo. Tuy vậy, để có thể biết được nguyên nhân, nên một số tín điều và cách sống đạo, của tôn giáo, không thể không đề cập đến. Mong độc giả xem đó như là vài dẫn khởi cho việc truy tìm nguyên nhân Phật tử bị cải đạo và đề nghị giải pháp. Dẫu theo lối tiếp cận nào, chúng tôi vẫn dựa trên những chứng tích lịch sử để luận bàn, chứ không bao giờ đề cập những điều vô căn cứ. Một tôn giáo (hay một học thuyết) muốn đứng vững với thời và không gian thì tôn giáo ấy phải có ba tiêu chí cốt yếu: Nhân bản, Khoa học và Thực dụng.
29/03/2016(Xem: 4599)
Trong cuộc sống nhộn nhịp của xã hội hiện nay cũng như cảnh nông nhàn xa xưa của dân tộc Việt Nam, cảnh du canh du cư của những sắc tộc vùng cao, ngành ngư nghiệp trên vùng sông nước...Đất nước nào, dân tộc nào cũng phải đối diện với nhiều vấn nạn mà trí óc hạn hẹp, chơn chất khó giải trình, nhất là những vấn nạn mang tính trừu tượng, vô hình do tưởng thức đặt ra. Từ căn bản đó, tự mình vẻ bóng hư ảo để rồi sùng bái, ngưỡng vọng, lo sợ, hiến tế...theo bẩm chất nông cạn của chính mình, biến thành sự hối lộ, mua chuộc Thần thánh trừu tượng.kèm theo nghiệp sát đối với bao sinh động vật, thậm chí có cả sinh mạng con người.Trong đó, có cả tín ngưỡng trừu tượng gây bao khổ đau cho nhân loại hiện nay.
10/03/2016(Xem: 10717)
Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngôn ngữ rất thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lạ i- nhất là trong khẩu ngữ. Điều này không làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao cho trôi chảy (nói) và thuận tai (nghe).
05/03/2016(Xem: 9907)
Các bài phát biểu trong Bàn tròn về :« Đạo Phật dấn thân » đã được tổ chức tại Trúc Lâm Thiền viện ngày 10/01/2016
20/01/2016(Xem: 7366)
Nay chúng lại lợi dụng sự “hợp tác toàn diện Việt Trung” đã hành động một cách ngang tàn, hống hách, xua quân lấn chiếm Hoàng sa, Trường sa, tung hoành, ngang ngược lãnh hải Việt nam. Ngư dân ta đã phải ngậm đắng nuốt cay, trước hành động bắn giết, cướp giựt tài sản đánh bắt của đồng bào ta khắp ven biển các tỉnh miền Trung như: Quảng Nam, Quảng ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang v.v… Đúng là bọn hải tặc, khủng bố Trung quốc đang hoành hành trên đất nước ta. Chẳng những thế, mà vùng cao nguyên Việt nam, nơi vị trí tối quan trong như nóc nhà của đất nước, mà chúng đã xua quân, ký kết với đảng Cộng sản Việt nam, khai thác Bauxit, phá hoại môi sinh, cướp đất, đuổi nhà dân chúng ở Lâm Đồng, sẽ tiến tới chiếm trọn cao nguyên Trung phần Việt nam, sau khi thôn tính vùng cao nguyên Bắc Việt, Chúng sẽ khai thác nhiều quặn khác như vàng, chì, kẽm, đồng, v.v…tài nguyên quốc gia không khỏi qua tay bọn thổ phỉ Trung quốc.
13/01/2016(Xem: 5547)
Tuổi trái đất 4.54 tỷ năm Tuổi vũ trụ 13.75 (+ -) 0.11 tỷ năm Tuổi của sinh vật có vỏ 8 triệu năm, sinh vật sẽ được phát triển thành con người 2.5 triệu năm và loài người chính thức chừng 50 ngàn năm... Theo tạp chí khoa học. Vậy trước đó con người chưa hề có và sau cũng có thể không còn là một điều tự nhiên. Tuy thế, có người vin vào lẽ tự nhiên đó và lấy những con số do con người trong thời đại nầy chế ra rồi cộng trừ nhân chia để phun ra lời tiên tri như ông mục sư Harold Camping và hệ thống Radio Family là một việc làm thiếu vắng tính khoa học, là phó sản của bất thiện. Tại sao? Thiên tai, động đất, bão tố, mưa nắng, tuyết giá vốn là những động thái tự nhiên của vũ trụ. Lẽ dĩ nhiên con người đã góp một phần không nhỏ vào việc vận hành ấy bởi khai thác bất tận khoáng sản trong lòng đất, phá rừng, hàng triệu nhà máy bom thán khí triền miên vào không gian vô tội vạ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]