Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo quyền và cải cách

05/01/201508:14(Xem: 5752)
Giáo quyền và cải cách

Giao Hoang Francis                                  

 

Nói đến giáo quyền, người ta chỉ nghĩ đến các tôn giáo Thần học, và đúng vậy, chỉ có tôn giáo Thần quyền mới có một khuôn phép chặt chẽ theo hệ thống Kim Tự Tháp. Nhờ  cấu hình chặt chẽ, tạo thành sức mạnh, nhờ có sức mạnh nên tồn tại khá vững. Tuy nhiên, vấn đề luôn có hai mặt tương phản, giáo quyền  đã gò ép  vào một khuôn khổ cứng nhắc, được xem là bất di bất dịch, ràng buộc bởi đức “vâng lời”. Người đứng đầu Giáo Hội, quyền Tông tòa, được xem như “vô ngộ”, khi đứng trên tòa Phero, lời tuyên bố được xem là đúng chân lý, không bao giờ sai lầm. Thật ra Giáo hội gọi là Tòa Thánh vẫn để lại vô vàn vấn đề mà khoa học không thể chấp nhận, làm cản trở một thời bước tiến của khoa học, và gây đau khổ cho nhiều thế hệ, làm lúng túng cho y học, nhưng khi y học được xác minh bởi khoa học thì quan điểm của Tòa Thánh trở thành một đối cực khăn cho tín đồ đang hòa nhập cùng tiện nghi vật chất, kiến thức thời đại.Thời đại mà quyền hành  Giáo Hội có quyền quyết định những mâu thuẩn tranh chấp giữa các nước theo Kito giáo, lấn cả thế quyền, thì nay, Giáo hội chỉ còn là biểu tượng tôn giáo, mất quyền thế tục, đôi khi  đóng góp tiếng nói với thế tục để giải quyết một số vấn đề mang tính quốc tế.

Tuy nhiên, tu sĩ Thần học Kito giáo cũng có những nhân tài lỗi lạc như: Linh mục Gregor Mendel, cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại; nhà bác học đa tài Nicolaus Copernicus; nhà bác học Blaise Pascal; nhà bác học Linh mục Matteo Ricci. Triết học và Thần học cũng giúp giải quyết các vấn đề như: bản thể luận, nhận thức luận, tôn giáo, đức tinlinh hồn; và  Kito giáo cũng từng dẫn đầu các ngành hội họa, âm nhạc như:  Beethoven, Mozart, Bach, các họa sĩ và kiến trúc sư lừng danh mọi thời đại như Michelangelo, Bernini, Raphael, Caravaggio, Antoni Gaudí, Leonardo da Vinci, v.v. (Wikipedia)

Chính vì quyền hành và uy tín một thời phủ trùm thế tục, tu sĩ cũng phạm phải không ít sai trái, đó là điều tất yếu mà Giáo hoàng đương nhiệm Francis gọi là Alzheimer tinh thần, bị hóa thạch tinh thần, vô cảm trước  những vấn đề cuộc sống chung quanh, và tự cao tự đại, xem mình là đối tượng miễn nhiễm, bất tử... Giáo hội trở thành Giáo hội vũ trụ và duy nhất đại diện Thượng đế.Thế nhưng,  một phần quần chúng ngày càng cách ly và lạnh nhạt với giáo hội.

 

Kể từ ngày có mặt, Roma đã nhiều phen cải cách với nhiêu lý do, trong đó, Giáo hội đứng trước những khó khăn như  việc truyền bá, nội bộ chia rẽ, suy giảm đức tin, tu sĩ phạm tội...Ngày nay, Rom không thể dùng bàn tay sắt như thời Trung cổ để trấn áp, khủng bố như một số Hồi giáo cực đoan hiện nay, buộc lòng, sau những lần nhận lỗi với nhân loại được gọi là “xưng thú 7 núi tội”. Tòa Thánh cố gắng tìm lối thoát cho nội tình và tạo uy tín với thế giới.  Các Giáo hoàng tiền nhiệm cố gắng hòa hợp, đoàn kết với các tôn giáo hữu Thần khác như Hồi giáo, Tin Lành, Chính Thống giáo...để ngăn chận Tôn giáo Vô thần, kết quả không mấy khả quan, vì tự thân  người đứng đầu Tòa Thánh cũng không mấy thoải mái với các giáo phái như thế, các ngài từng tuyên bố “Tin Lành là loài chó sói đói mồi”; Tuy các Ngài có bước chân vào đền thờ Hồi giáo những vẫn còn những bước chân thiếu tự tin.

Suốt nhiều thế kỷ truyền bá Phúc âm sang châu Á, rào cản lớn nhất làm cho kết quả hạn chế là bảo thủ, tự xem mình là số một, là chân chánh và duy nhất; chưa hòa hợp được với tập quán của châu Á, vì thế Công đồng Vano II ra đời, cải sửa một số khắc khe để tín đồ dễ hòa nhập và giữ được truyền thống gia tộc. Đó là tập quán địa phương, chủng tộc; hiện nay, cái khó của Giáo hội đối với những quốc gia mang ý thức hệ như Trung Cộng, tìm một kẽ hở để đặt bàn chân vào xứ Cộng sản hầu điều hành, duy trì và phát triển khối tín đồ tại chỗ, không phải dễ; Giáo hội đã từng có ban tham mưu tìm hiểu, hội thảo, ngoại giao nhưng hầu như chưa có mấy kết quả. Cái  mà làm cho đối tác ngần ngại là quan điểm dị biệt của tòa Thánh không thể tồn tại song hành với đối tác, hoặc là bị giáo hội dung hóa, hoặc là tập thể tín đồ đó sinh hoạt không chính thức, không như Phật giáo tôn trọng sự dị biệt của nhau để cùng tồn tại song hành. Giáo hòang đương nhiệm Francis đang cố gắng giao hảo với Bắc Kinh, để tạo cảm tình mở đầu cho chiến dịch hợp thức hóa sự tồn tại của con cái hội Thánh tại vùng đất trên một tỷ sáu con người, đó là vùng đất hứa một khi được hợp thức hóa, sẽ thay chỗ cho vùng màu mỡ như Philippines, Việt Nam, Nam Triều Tiên...xoay trục và hòa nhập châu Á đang là điểm hẹn của Tòa Thánh, Giáo hoàng đã thành công khuyến khích Tổng Thống Obama và Fidel Castro bắt tay nhau, bỏ cấm vận Cuba, tạo niềm tin về thiện ý của hội Thánh để Trung Cộng bớt ngờ vực việc làm của Roma. Tuy vậy, La Mã vẫn không dấu được ý đồ chính trị , lấy lòng Bắc Kinh nên không chịu tiếp Đức Đạt Lai Lạt Ma nhân Hội nghị các nhân vật từng đoạt giải Nobel. Tuy làm vừa lòng Bắc Kinh nhưng không vì thế mà Tập Cận Bình đánh giá cao  sự tính toán của Tông tòa.

  Giáo hội thay đổi rất nhiều, có thể nói xoay 180 độ mà  xa xưa, giáo hội đã sai lầm. Ví dụ:

- Chúng ta cũng đã biết, Giáo hội đã kết tội oan một nữ anh hùng cứu quốc của Pháp, Jeanne d’Arc, là phù thủy và đưa bà lên giàn hỏa thiêu sống năm 1431, rồi gần 500 năm sau (1920), mới thống hối bằng cách truy phong chức Thánh cho bà.  - Giáo hội Kito giáo khởi xướng phong trào đề cao phụ nữ và nữ quyền. Trái với định kiến trọng nam khinh nữ vào thời xưa, Giáo hội đánh giá cao người phụ nữ và đã tôn vinh nhiều vị Thánh nữ, nâng một số Thánh nữ lên hàng Tiến sĩ Giáo Hội, một tước hiệu cao quý chỉ được trao cho một vài vị Thánh lỗi lạc của Giáo hội Kito giáo, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu. Sở dĩ nữ tu không được làm linh mục trong Giáo hội là vì truyền thống do Chúa Giêsu đặt để chỉ chọn người nam làm linh mục, Giáo hội không có thẩm quyền sửa đổi truyền thống này. Nhiều phụ nữ đã để lại vết son trong sử sách Giáo hội như Thánh nữ Hilda là người đã thành lập Đại Học Oxford, Hoàng hậu Matilda và Nữ hoàng đầu tiên của nước Anh Mary Tudor, là những người nữ tiên phong trong lĩnh vực chính trị.

- Kito giáo cũng mang đến cho nền văn minh con người nhiều nhà khoa học và giáo sư là phụ nữ đầu tiên trên thế giới như nữ giáo sư vật lý Italia TrotulaSalermo trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý Dorotea Bucca, người đã giữ ghế giáo sư y khoa trưởng tại Đại Học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới nhận bằng tiến sĩ triết học (1678) và Maria Agnesi (1799), một triết gia, nhà giả kim học, nhà ngôn ngữ học và nhà toán học là người phụ nữ được Giáo hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại Italia vào năm 1750. Vào tháng 3 năm 2004, Mary Ann Glendon, giáo sư luật học tại Đại học Harvard, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa Thánh, chủ tịch Hội đồng Đạo đức Sinh học của tổng thống Mỹ được Giáo hoàng Gioan Phaolô II chỉ định làm Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa Học Giáo Hoàng và là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đảm trách chức vụ này; trước đó vào năm 1995, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã chọn bà là người đại diện Vatican tham dự Hội nghị Quốc tế về các Quyền của Phụ nữ tại Bắc Kinh (Trung Quốc) do Liên Hiệp Quốc tổ chức.(Wikipedia).

Tuy vậy, Kito giáo cũng đóng góp khá nhiều trong nhiều lãnh vực kể cả lãnh vực giáo dục;  Roma cũng đã xây dựng đại học đầu tiên trên thế giới, như: Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224); Đại Học Vercelli (1228); Đại Học La Sapienza (1303). Ngành pháp luật và luật học vào đầu thế kỷ 12, cũng do Kito sáng lập. (wikipedia); Các ngành nghề khoa học do các Linh mục khai sáng là điều tất yếu, vì xã hội lúc bấy giờ giới Tăng lữ Kito phủ trùm mọi lãnh vực.

Rồi đây, công đồng Vatican III sẽ ra đời, Giáo hoàng đương nhiệm và các hồng y Bộ trưởng, thượng Hội đồng Giám mục đang cứu xét nhiều vấn đề mà Giáo hội đang đối mặt, trong đó, tính tất yếu của xã hội là: ly hôn, tránh thai, tu sĩ có thể kết hôn..đây là những yêu cầu thực tế của xã hội, muốn quần chúng  không rời xa Giáo hội, buộc lòng phải chấp nhận và thay đổi quan điểm cố chấp xưa nay. Vì vậy, Ngoài thành phần chính là các giám mục, hồng y, trong số 253 người tham dự hội nghị này còn có 16 chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực, 38 khách mời dự thính (trong đó có 13 cặp vợ chồng)... Nội dung của 2 tuần họp sẽ được tập hợp thành tài liệu để giáo hoàng tham khảo nếu cần thực hiện những cải cách trong thời gian sắp tới.(wikipedia). Đây là một thách thức đầy khó khăn cho Tông tòa khi những yêu cầu thực tế luôn đi ngược lại với giáo điều, ví dụ vấn đề ly dị, giáo hội từng nói – những gì Chúa kết hợp thì không thể chia rẽ; hoặc con người là sản phẩm và là hình ảnh của Thượng đế, phá thai, ngừa thai là xâm phạm quyền năng của Chúa. Một xã hội văn minh, tiện nghi vật chất đưa cuộc sống đi quá tầm tay của Kito giáo. Vì vậy, Những tôn giáo Thần học xem thế giới văn minh là thế giới tội lỗi. Hồi giáo cực đoan xem tư bản là ma quỷ cần tiêu diệt.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            

 

Francis là một Giáo hoàng đặc biệt, giản dị, bình dân, cởi mở, việc canh cải Giáo hội là tính chất luôn canh tân vốn có tự thân, cộng thêm nhận định của Ngài về sự tha hóa trong giáo triều, đưa đến một số chức sắc lạm quyền. Các chức vụ trước đây do chức sắc Tăng lữ đảm trách,  nay có thể trọng dụng một số chuyên gia thế tục đảm nhận; một vài ban ngành có thể giải tán hoặc sát nhập; Việc canh tân toàn diện đã nói lên tính chất đặc biệt của một giáo hoàng như sự đặc biệt mà hai năm nhậm chức, ngài từ chối cư ngụ ở điện Tông tòa như các vị tiền nhiệm. Tự thân như thế đã làm gương cho nhiều chức sắc Giáo hội phải giản dị hóa ngay cả phương tiện đi lại bằng Taxi công cộng. Tuy nhiên, Francis rất quyết đoán trước những tệ nạn trong cộng đồng tu sĩ, bằng chứng Ngài triệu hồi Tổng Giám mục người Ba Lan- Jozef Wesolowski (66 tuổi)  về tội lạm dụng ấu dâm cho dù vị nầy “ăn bánh trả tiền”, buộc phải hoàn tục và quản thúc tại gia, đây là vụ xử đầu tiên đối với cựu sứ Thần tòa Thánh. Vì thế  không lạ, nhân mùa đón mừng Giáng sinh, Người đã vạch trần 15 điều tệ nạn trong Giáo triều mà chưa vị tiền nhiệm nào làm. John Paul II xưng thú 7 núi tội là điều dễ hiểu, vì tội lỗi suốt 2000 năm qua không thể dấu diếm, lịch sử đã đậm nét, nhưng 15 tệ nan trong nội triều, xã hội ít ai biết, Giáo hoàng đương nhiệm can đảm vạch trần và phô bày cho thế giới biết, đó là một thái độ minh bạch cần làm trong sạch hóa nội tình; Bất cứ tổ chức nào, chinh phủ nào, tôn giáo nào cũng cần  minh bạch hóa những sai phạm để tự thân được tiến bộ.

Trước vấn đề nầy, liên tưởng đến Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng, thiết nghĩ, hai tổ chức khác nhau từ giáo lý đến tổ chức hành chánh, Phật giáo không có một cơ cấu  thống nhất mang tính quốc tế, Phật giáo mỗi quốc gia  chịu ảnh hưởng tập quán, thổ nhưỡng khác nhau, vấn đề nội kết cũng khác nhau, sự sai phạm cũng khác nhau; do mang tính cá thể mà phạm luật cũng có tính cách tự phát của cá nhân. Vấn đề ở đây, dù cá nhân sai phạm, nhưng ít nhiều ảnh hưởng thanh danh tập thể và làm mất ít nhiều niềm tin của tín đồ, Giáo hội Phật giáo cũng phải có trách nhiệm, ngoài việc xử lý thông tin đối ngoại, Giáo hội  cũng cần có tiếng nói trung thực “Con dại cái mang”; đó là cách xì hơi để quần chúng nhẹ nhõm, cảm thấy dẫu sao giới lãnh đạo Phật giáo biết nhìn nhận sự thật khi truyền thông xã hội loan tải. Hẳn nhiên không hoàn toàn đúng khi truyền thông loan tải, nhưng ít ra 50% cũng phải có vấn đề; sau khi xác minh sự thật, sự xin lỗi quần chúng hay nhận lỗi với các bậc chân tu,chư tiền hiền liệt tổ, và với tín đồ, nói lên tính văn hóa và nhân cách của giới lãnh đạo. Cả nể, bao che không thể tồn tại trong xã hội văn minh hiện nay.

Nhân cách  của Francis là bài học cần có đối với PGVN hiện nay.

 

MINH MẪN

05/01/2015

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6984)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4082)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5645)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5798)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5114)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4448)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4231)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4260)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5678)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6445)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567