Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những biểu tượng Mật Ý

09/03/201322:22(Xem: 7389)
Những biểu tượng Mật Ý
phoingautrongkimcangthua_1

NHỮNG BIỂU TƯỢNG MẬT Ý
Minh Mẫn

Gần đây, cộng đồng cư dân mạng xôn xao về hình tượng “ người nữ ôm trong lòng Phật”. Quả thật, đây là vấn đề nhạy cảm và xa lạ đối với hầu hết tín đồ Phật giáo trên thế giới ngoài một bộ phận Mật tông; Sở dĩ gọi là một bộ phận, vì không hẳn toàn bộ Mật pháp đều sử dụng biểu tượng như thế.

Có sự tương thông trong các pháp hành Du già, đạo học, Tiên thiên hợp lưu, Thủy hỏa ký tế, âm dương bảo hòa, Châu Thiên tiểu-đại…của Đông Phương, cũng như một vài mật pháp của Ấn giáo, Ba Tư và Ai Cập cổ đại.

Riêng những biểu tượng trên, xuất hiện rất sớm trong nền triết lý Ấn giáo, một triết lý chuyển hóa hành giả bằng những biểu tượng cụ thể, có trước thời kỳ Phật giáo xuất hiện; Chúng nằm vùng Bắc Ấn, vào khoản thế kỷ thứ 6 trước công nguyên; các hành giả ẩn cư trong dãy Hy Mã lạp sơn, tại Trung Hoa, Lão Trang và các Đạo gia cũng xuất hiện lý thuyết Âm-Dương ngũ hành áp dụng vào tu luyện, đạo học, y học, võ thuật, kinh dịch, bói toán, địa lý…Do Ấn giáo nặng về tín ngưỡng đa Thần nên lý thuyết Âm Dương, sáng tạo và hủy diệt, trí tuệ và vô minh chuyển hóa thành những biểu tượng cụ thể. Vì vậy, Ấn Độ có thần Shiva, Nữ thần Nataraja được coi như là hóa thân của thần Shiva, thần Vishnu, thần Thấp ti Nô, thần Na La Diên Na, thần Thấp Bà là Linga, biểu tượng dương vật, thần shesha là vua của loài rắn. Brahma còn là một sự nhân hóa của Đại ngã. nó được dùng để chỉ quyền năng được gọi là "Tuyệt đối" đằng sau mọi sự sáng tạo. Trong ý nghĩa triết học, Brahma biểu thị khuynh hướng vận động điều hòa (rajas), tạo nên thế quân bình giữa hai khuynh hướng qui tâm (sattva) và ly tâm (tamas), giữa bảo tồn và hủy diệt mà thần Vishnu và Shiva là biểu hiện… Mọi hiện tượng trong thiên nhiên được Thần hóa biểu tượng, vì thế, tại Ấn Độ có quá nhiều tôn giáo tín ngưỡng mang nhiều màu sắc. Cho dù màu sắc nào, tín ngưỡng nào, cũng không ngoài lý thuyết cơ bản Sáng tạo, hủy diệt và bảo hòa mà đạo học gọi là Âm-dương và quân bình.

Sau 6 thế kỷ đức Phật nhập diệt, một số bộ phái ra đời, Nam Ấn giữ được nguyên tính truyền thừa, Bắc Ấn, , vài bộ phái chịu ảnh hưởng Yoga trong triết thuyết và hành trì, chính vì thế Mật pháp của một bộ phận Bà La Môn thâm nhập vào hành giả ẩn cư, lập ra Mật tông, dung hóa giữa giải thoát của Phật giáo và triết thuyết hiện tượng của Bà La Môn.

Những biểu tượng Thần giao hợp đã xuất hiện rất sớm, mà theo truyền thuyết, thần Brahma cũng từng vi phạm loạn luân, trong bộ ba Brahma – Shiva – Visnhu đã kết hợp thành một học thuyết giềng mối giữ thế tồn tại cho Bà La Môn ( Tam vị nhất thể). Theo Ấn Giáo, vấn đề âm – dương giao thoa là việc tất yếu của mọi sinh vật, khác chăng là các đạo sĩ nâng chúng lên một giá trị triết học.

Khi những biểu tượng tất yếu thâm nhập vào một bộ phận hành giả Mật pháp của Tăng sĩ Phật giáo, các ngài dung hóa lý thuyết giải thoát và biểu tượng trên căn bản đối diện sự thật.Khác với chủ trương Nam truyền, “Ly dục, ly ác pháp” các tổ Mật pháp xem “thế gian pháp tức Phật pháp”. Mọi hiện tướng, bản thân chúng không tốt xấu, do tâm dục mà chúng biến thành xấu và với tâm thanh tịnh chúng là phương tiện đạt đến diệt dục.Trong các bộ phái và pháp hành Phật giáo Bắc truyền, phải nói Mật Tông nói chung và Kim Cang Thừa nói riêng, đòi hỏi hành giả một nghị lực phi thường để vượt qua những các cảnh đời thường, đó là đi trực tiếp, giải thoát nhanh nhất để chuyển hóa tâm thức.

Hầu hết các pháp hành đều khuyên hành giả trốn chạy, tránh xa các lạc thú nhạy cảm, nhưng xét cho cùng, đó chỉ là lấy đá đè cỏ, những chủng tử bất thiện trong tiềm thức vẫn đang ấp ủ chờ cơ hội bùng phát. Hưởng thụ dục lạc nằm trong hai trạng huống, hoặc hưởng thụ với tâm ô nhiễm hoặc hưởng thụ bằng sự tỉnh giác để chuyển hóa tâm nhiễm ô. Và nhất là những hành giả giải thoát, cần đối diện thực tại để chuyển hóa tâm thức nhiễm ô. “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác…” vì thế, bất cứ những gì có mặt trong cuộc sống, từ chiếc lá rơi đến sinh hoạt tâm sinh lý, từ hiện tượng thiên nhiên đến bản năng sinh tồn của động vật, chúng đều là những công án để hành giả hóa giải những mắc mứu trong tâm thức.

Một tu sĩ từ bé được thầy cho sống ở núi, khi trưởng thành, xuống phố nhìn cái gì cũng lạ, cái lạ nhất là các cô gái mà mình chưa gặp bao giờ, về lại núi, tu sĩ trẻ thẩn thờ giao động mãi, thầy biết được chủng tử vô mình trong tâm thức người để tử trổi dậy, thầy đem một bức tranh phụ nữ kiều diễm dán trên tường, hướng dẫn đệ tử quán chiếu tất cả mọi ngõ ngách mà người đệ tử bị thu hút; một thời gian sau, người đệ tử hiểu rằng, cái mà thu hút chàng không phải là sắc đẹp của phụ nữ mà là sắc dục ẩn tàng trong tâm thức có dịp bộc phát.

Cũng thế, tất cả pháp tướng thế gian dù đẹp hay xấu, không phải là nguyên nhân làm cho ta sa đọa mà chính ta đã làm cho những pháp thế gian sa đọa xấu xa hơn. Vì thế, tu tập là sự chuyển hóa tâm thức chứ không phải ức chế tâm thức trước thực tại.

Trong một số kinh điển ngoại giáo có trước thời đức Phật, ngoài hình ảnh, còn hướng dẫn rất kỷ về thao tác làm tình để nâng cao sự khoái lạc thể xác, biến cảm xúc lên tầng số giao cảm thánh thiện thoát tục, đó là những mật pháp dành riêng cho những hành giả yogi có một năng lực tinh thần tuyệt hảo. Bởi vì, theo lý thuyết, trong mỗi sinh động vật đều hàm tàng hai nguồn năng lượng âm dương, do thiếu quân bình đem đến bệnh hoạn, sa đọa…luôn cảm thấy thiếu nên chạy tìm để hưởng thụ và đánh mất sự sáng suốt. Trên bình diện cảm xúc trần tục, chúng ta xấu hổ trước những hình ảnh giao hoan như thế, thực ra “chư Thần giao hợp” là một vũ điệu hợp nhất năng lượng âm-dương trong mỗi con ngườ cũng như vũ trụi. Các hành giả Yogi, đó là một pháp hành tối thượng phát sanh đại lạc vi tế nhất của mật pháp, hoàn toàn không tùy thuộc vào đam mê cảm xúc của giác quan mà “nam thần “ biểu thị cho đại lạc và “nữ thần” là biểu tượng của đại trí; Trí lạc viên dung là sự toàn vẹn tột đỉnh của một thành tựu giả.

Trước hình tượng xuất hiện khắp các tu viện tại Bắc Ấn tu mật pháp nầy, giúp hành giả cảm nhận được sự quân bình âm dương trong nguồn sinh lực cơ thể, vì các hành giả đã vượt khỏi tâm phân biệt nhị nguyên. Một hành giả bước vào mật pháp hoan lạc nầy phải chọn một trong 4 giai đoạn của mật điển:

Mật điển thiên về hành động, mật điển thiên về tư duy, mật điển du già và tối thượng du già. [1] Mỗi hạng dành cho một loại hành giả đặc biệt, trước khi chọn một trong bốn mật pháp để thực hành theo từng căn cơ, hành giả cần trải qua 4 giai đoạn tối cần của mật pháp: Thứ nhất là pháp Du già tịnh hóa triệt để môi trường chung quanh; thứ hai là pháp Du già tịnh hóa triệt để thân xác; thứ ba là tịnh hóa triệt để mọi cảm thọ; thứ tư là pháp Du già tịnh hóa triệt để mọi hành vi.[2]

Như thế một hành giả Yogi không thể là kẻ lạm dụng của sự lạc dục. Ham muốn là bản năng tìm ẩn của động vật, chuyển hóa năng lượng ham muốn như thế nào để năng lượng ham muốn biến thành năng lượng tuệ giác là một vấn đề mà hành giả cân nhắc rất kỷ. Thế tục do không thỏa mãn những ham muốn sanh ra tha hóa, khổ đau, điên loạn, thực tế ham muốn là một năng lượng thiếu quân bình, nếu không có pháp hành thì con người không bao giờ bù đắp được sự thiếu hụt đó, luôn quay cuồng tìm kiếm trong đau khổ. Các mật pháp cung cấp cho hành giả một pháp hành với một ý thức rõ ràng, tự bù đắp và chuyển hóa những thưc tại trong chính ta chứ không phải từ ngoại cảnh. Thực hành Mật pháp là hợp nhất kinh nghiệm lạc thú với ánh sáng tâm linh; cũng như khi nam nữ giao hoan, ánh sáng chợt lóe trong lúc cực khoái , từ đó, thần thức cỏi trung giới có duyên theo đó nhập thai. Cái lạc thú và ánh sáng của hành giả trong lúc luyện đạo là một thăng tiến nội lực lúc bảo hòa năng lượng âm dương nội tại, từ đây, đưa hành giả đến sự thành tựu giải thoát hoàn toàn.

Trước khi có hình tượng cô gái ngồi trong lòng Phật thì cũng đã có nhiều tranh tượng của Ấn Độ miêu tả giao hoan nam nữ trước nhiều thế kỷ. Chỉ vào thế kỷ thứ 6 khi Kim Cang thừa chịu ảnh hưởng giữa Phật và Ấn Giáo thì pháp hành pha trộn giữa hai giáo lý, thiên nặng về mật giáo được truyền bởi một chân sư nghiêm mật, nên ít phổ biến , vì thế vẫn giữ được mạng mạch không gián đoạn. Đặc trưng Mật pháp chú trọng đến cực quang và hoan lạc pháp để thăng hoa tâm thức mà Duy thức gọi là “Bạch tịnh thức” lúc ấy thức biến thành Trí, Trí tuệ siêu việt khai mở.

Những hình tượng xuất hiện trên mạng gần đây, do chưa hiểu giá trị tuyệt đỉnh của pháp hành, nên quần chúng phẩn nộ, xem như một điều bất kính với Đức Phật, nhưng thực tế, nhìn sâu hơn, điều đó đã tăng giá trị điềm nhiên giải thoát và hoan lạc của bậc giác ngộ trước một đối tượng mà Ấn giáo gọi là mẹ Vũ trụ giao hòa, Mật thừa xem là sự quan bình năng lượng chân và tục, trí tuệ và giải thoát một cách bản nhiên .

MINH MẪN

09/02/13

[1]Kim cương thừa

[2] Geshe Kelsang Gyatso.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2015(Xem: 8028)
Giáo dục là gì? Hiện nay khó mà định nghĩa dứt khoát; có rất nhiều định nghĩa khác nhau, ví dụ: Như trong cuốn "The Educator’s encyclopedia" của ba học giả Mỹ E.W. Smith, S.W. Krouse và M.M. Atkinson, 1969, USA, cho rằng khái niệm giáo dục chuyển tiếp từ Phương Đông đến thái độ Phương Tây và trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: "Giáo dục là toàn thể những cố gắng có ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh thần và đạo đức của con người, hướng về sự toàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người". (Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ năm 1971).
12/09/2015(Xem: 5086)
Một bức ảnh gây xúc động thế giới. Xúc động vì mái tóc đen mướt của em. Vì chiếc áo đỏ, quần xanh em mặc. Vì đôi giày em mang. Cứ như em vừa ăn mừng sinh nhật thứ ba cùng bố mẹ. Và nhất là cái dáng em nằm nghiêng nghiêng trên bờ cát. Nếu không có những ngọn sóng lừng lững đang tiến vào bờ, cứ tưởng như em đang nằm ngủ.
08/07/2015(Xem: 7244)
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã chính thức phán quyết rằng hôn nhân đồng giới tính là quyền hợp pháp trên toàn nước Mỹ. Như vậy tính cho đến nay đã có 21 nước trên thế giới có hôn nhân đồng giới tính được luật pháp quốc gia sở tại công nhận (Netherlands, Belgium, Spain, Canada, South Africa, Norway, Sweden, Portugal, Iceland, Argentina, Denmark, France, Brazil, Uruguay, New Zealand, Britain, Luxembourg, Finland, Ireland) và Hoa Kỳ là nước thứ 21 đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ngày 26 tháng 6 năm 2015 vừa qua. [1] Đồng tính luyến ái (homosexual) được các nhà triết học định nghĩa là những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng giới tính đồng thời giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác giới và hôn nhân đồng giới tính (same-sex marriage) là sự kết hợp giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ.
06/07/2015(Xem: 12841)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
21/06/2015(Xem: 11670)
Trân trọng kính thưa vài lời thương cảm với quê hương nước Việt ! Với chàng Tàu Cọng khồng lồ mà gian ác ! Xin kính dâng vài ý kiến nho nhỏ với các Quốc chủ, và các chủ bài “Yêu Nước” trên mạng, thật bao quát có chiều sâu và chiều rộng về chiến lược, mang tính tồn vong cho thế giới. Ngày nay ai cũng biết hiểm họa chung cho thế giới là TÀ GIÁO VÀ CỌNG SẢN vậy tất cả các quốc gia đều sẽ lâm nguy với hai con bạch tuộc trong Đại Dương nầy, ngày nay.
21/06/2015(Xem: 5542)
Nhiều năm qua, nhân kỷ niệm ngày báo chí VN, cũng như nhiều người khác, cá nhân tôi cũng nhận được không ít lần lời chúc mừng nổng thắm, qua đó mới chợt nhận ra mình đã và đang hoạt động trong lãnh vực báo chí. Nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là báo chí Phật giáo Việt Nam (PGVN). Trong dòng chảy chung của lịch sử báo chí dân tộc, việc nhận được những lời chúc đó âu cũng là điều bình thường, có khác chăng là mình đang ở lãnh vực báo chí PG .
21/06/2015(Xem: 9893)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
19/06/2015(Xem: 6733)
Hòa kết vô thần và tâm linh, thể xác và tinh thần, đạo Phật đã chinh phục trái tim của hàng vạn người Pháp. Nhưng cũng không tránh khỏi một vài cách hiểu sai lệch. Thế giới sẽ bước vào thiên niên kỷ thứ ba không rầm rộ trong tiếng kèn đồng, mà chắc chắn trong âm thanh của các loại kinh cầu nguyện mà thế kỷ 20 tưởng như đã có thể dập tắt được. Đúng vậy, đây là một sự lật ngược thế cờ của tâm linh đối với vật chất, của linh thiêng đối với duy lý, của nhập định đối với thụ hưởng. Một điều kỳ diệu bất ngờ: chúng ta sẽ chứng kiến một sự hỗn độn khủng khiếp mà trong đó, không mảy may nghi ngờ, cái hay song hành cùng cái dở.
14/06/2015(Xem: 9488)
Fake Buddhist monks are the new squeegee men of New York , They’re holy terrors. Bands of beggars dressed like Buddhist monks have invaded the High Line and other city parks, demanding upwards of $40 from tourists — and officials are fed...
14/05/2015(Xem: 7616)
Ngày chủ nhật vừa rồi vào bịnh viện thăm người bạn đạo đang nằm điều trị căn bịnh suy nhược thần kinh (!), người con trai cả của anh, cháu Nguyên Hà Nguyễn Hoài Dũng, hiện cũng là huynh trưởng cấp Tín của GĐPT, chìa ra cho tôi xem một tờ báo bị xé làm đôi. Khi chưa hết ngạc nhiên thì cháu Dũng nói “Hồi sáng này mấy đứa em mua hai gói xôi bắp đem vô cho con và ba con ăn, vô tình con thấy tờ giấy gói xôi có in bản tin này nên ba biều con xếp giữ lại, chờ đưa cho bác”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]