Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Trước Thách Thức Thời Đại

07/03/201322:31(Xem: 8822)
Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam Trước Thách Thức Thời Đại
VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Trước Thách Thức Thời Đại
Thích Thanh Thắng

k1_283681150Không ít ngôi chùa hiện nay đang có chiều hướng “tư nhân hoá” dưới danh nghĩa trùng tu lại, xoá sạch dấu vết gắn bó một thời của người dân địa phương, trở thành sở hữu riêng của vị trụ trì và một số đại gia có tiền bạc và quyền thế.

Văn hoá Phật giáo Việt Nam sẽ hội nhập như thế nào với thế giới? Phật giáo Việt Nam sẽ đưa hình ảnh gì của mình ra bên ngoài? Những câu hỏi này được đặt ra từ lâu trước thực tế các quốc gia, dân tộc, tôn giáo trên thế giới đang ngày càng có nhiều hoạt động thúc đẩy quảng bá cho sức mạnh mềm văn hoá.

Văn hoá Phật giáo là một thành tố cơ bản, không thể tách rời của văn hoá dân tộc. Nhưng sự thịnh đạt nào cũng ẩn chứa những lụi tàn, nếu văn hoá không được ý thức giữ gìn một cách đầy đủ trong đời sống thường nhật, như lễ hội, kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ, nghệ thuật và ứng xử.

Rõ ràng chúng ta không thể quảng bá văn hoá một khi thiếu hụt nhận thức văn hoá. Biểu tượng văn hoá đến từ ứng xử văn hoá, bởi bản thân văn hoá luôn mang trong mình dòng chảy của sự vận động và phát triển.

Hiện nay không gian thờ phụng của người Việt có nhiều thay đổi, hình thức đi lễ có nhiều biến tướng. Ở những ngôi nhà hiện đại, bàn thờ Phật thánh, tổ tiên thường được chuyển lên cao, tách biệt hẳn với không gian sinh hoạt thường ngày.

Ở các lễ hội đền chùa tràn ngập vàng mã, vung vãi tiền lẻ trên người thần Phật. Ít nhiều suy nghĩ và thói quen này sẽ tác động không nhỏ vào lối sống ứng xử, dần dần làm phai nhạt các giá trị văn hoá truyền thống, ngay trong cấu trúc gia đình và làng xã.

Các thế hệ đi sau sẽ cảm thấy gần gũi với những nét văn hoá mang đậm tính chất trang hoàng, giải trí, bằng hình khối và các sự kiện văn hoá, lễ hội cộng đồng, hơn là việc quan tâm cụ thể đến một dấu chỉ văn hoá từ trong chính gia đình của mình.

Cấu trúc gia đình không chỉ bị phá vỡ bởi lối sống tự do, tự lập của người trẻ, mà còn cả ở thái độ thờ ơ, ít quan tâm đến những phong tục văn hoá truyền thống.

Cấu trúc văn hoá xã hội thì lỏng lẻo khi người dân mất dần vai trò chủ thể văn hoá, trở thành những người bỏ tiền ra “mua” nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh, và họ nghĩ đồng tiền có thể tác động ít nhiều đến lời khấn cầu của họ.

Văn hoá đang có dấu hiệu hướng ra bên ngoài môi trường cộng đồng. Vì thế những hoạt động đường phố, lễ hội màu sắc, nghệ thuật trình diễn mang phong cách hiện đại sẽ có sức cuốn hút rất lớn đối với mọi người, đáng tiếc là nó còn có quá ít những điều chỉnh.

Phật giáo có rất nhiều các lễ hội lớn trong năm như Phật đản, Vu lan…, tuy nhiên những lễ hội này ngày càng giới hạn trong phạm vi ngôi chùa, chưa vươn tới được tầm mức của một lễ hội có sự tham dự chung của cả cộng đồng như đã từng diễn ra trong lịch sử.

Trong khi những lễ hội dân gian gắn với ngôi chùa thì ngày càng xuất hiện những hình ảnh phản cảm, thiếu thẩm mỹ, kém văn minh.

Tựu chung, nó cho ra một hình ảnh “cha chung không ai khóc”, và người ta chỉ quan tâm phát triển ngôi chùa riêng của mình, đạo tràng của mình, quan hệ thân sơ của mình, với cấp trên, với chính quyền sao cho danh lợi được lâu dài...

“Mái chùa che chở hồn dân tộc” là mái chùa nào trong tình cảm, tâm hồn, nếp sống, nếp nghĩ của người Việt? Chắc chắn mái chùa ấy là sự tổng hợp của tất cả những giá trị văn hoá, ứng xử chứ không chỉ là mái chùa vật thể gắn với một không gian thờ cúng cụ thể nào đó.

Không gian của những ngôi chùa cổ xưa rõ ràng là nhỏ bé, chật hẹp hơn nhiều những ngôi chùa mới xây dựng đồ sộ, hoành tráng như hiện nay, nhưng không gian văn hoá, lễ hội, ứng xử thì bao trùm hết không gian làng xã, cộng đồng, đi vào trong đời sống ứng xử để trở thành văn chương, nghệ thuật, thẩm mỹ, đạo lý… Câu nói: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, “Tiếng chuông kêu ba cõi, bóng tháp ngả trùm đồng”, đã nói lên sự nối dài của không gian ấy.

Như vậy, có phải cứ xây chùa to lớn thì sẽ có được không gian tâm linh thuần hậu, gắn bó như trên?

Không phải lúc nào cũng như thế. Bởi ngôi chùa nhỏ bé ngày xưa là kết quả của biết bao nhiêu sự vận động ý thức, gần gũi chia ngọt sẻ bùi với dân, nên ý nghĩa “che chở” của nó tương quan mật thiết với đạo lý ứng xử và niềm tin nhân quả. Chính điều đó dẫn đến một giá trị “sở hữu” rất cộng đồng: “Sư mới vãi như vải với nâu”, “Chùa không sư thì hư mất chùa”, “Sư chùa là bùa làng”, hay “Chùa của dân, sư của dân”…

Hai chữ “của dân” ấy hình thành nên giá trị chung mang tính nền tảng của văn hoá Phật giáo. Và ngôi chùa làng là ngôi chùa của cả một cộng đồng tín ngưỡng.

Có nghĩa rằng dân không chỉ là người tham dự mà còn là chủ thể trực tiếp kiến tạo nên giá trị ấy bằng chính mồ hôi, nước mắt, tình cảm, niềm tin và lòng sùng kính của mình. Nếu một ngôi chùa có không gian rộng lớn, chứa được cả hàng chục nghìn người, nhưng lại không chứa nổi tình cảm, niềm tin và lòng sùng kính, gắn bó của nhân dân, làng xã thì sớm muộn nó cũng sẽ bị thay thế bởi các giá trị khác.

Có một thực tế đáng báo động là không ít ngôi chùa hiện nay đang có chiều hướng “tư nhân hoá” dưới danh nghĩa trùng tu lại, xoá sạch dấu vết gắn bó một thời của người dân địa phương. Ngôi chùa mới trùng tu nghiễm nhiên trở thành sở hữu riêng của vị trụ trì và một số đại gia có tiền bạc và quyền thế. Người dân nghèo có cảm giác trống vắng, hụt hẫng khi những ngôi chùa mới được xây dựng ngày càng tạo ra khoảng cách phân hoá giàu nghèo và trở nên xa lạ với họ. Chính quá trình trùng tu quá nhanh, quá vội vã đã đánh mất một không gian ảnh hưởng trong tâm thức người dân, mà không gian ấy lớn hơn rất nhiều cái không gian mang sức chứa vật chất.

Việc đánh mất ý niệm về “mái chùa che chở hồn dân tộc” trong không gian tín ngưỡng cộng đồng, khiến cho những mái chùa hoành tráng kia dần biến thành cái xác không hồn. Do đó, không phải cứ tung tiền tỉ ra xây chùa to lớn là sẽ có được sức mạnh mềm và sự lan tỏa của văn hoá.

Như vậy, những giá trị văn hoá Phật giáo cần phải được thể hiện qua những hành động tương quan, gắn bó mật thiệt với tâm hồn, tình cảm của người Việt, khuyến khích một lối sống gần gũi với thiên nhiên, hài hòa với văn hóa, tín ngưỡng, phong tục bản địa.

Sự ủng hộ của chính quyền và các doanh nhân phải thích nghi với văn hoá ứng xử thời đại, làm sao các tầng lớp nhân dân, đặc biệt tầng lớp nông dân, dân nghèo, thấy được khoảng cách tình người đang được rút ngắn. Bởi tất cả những biến động xã hội gây ra những thất vọng đối với người dân, thì không ai khác, chính tôn giáo phải trở thành điểm tựa để cân bằng đạo đức ứng xử xã hội.

Một du khách đến Việt Nam, điều mà họ quan tâm tìm hiểu là những giá trị văn hoá mang góc cạnh và hình khối Việt Nam, phản ánh lối sống tâm hồn của người Việt, chứ không phải đến để tham quan những công trình kiến trúc vĩ đại nhưng na ná kiến trúc của Nhật, hay của Trung Quốc.

Vua Trần Nghệ Tông (1321 – 1394) từng nói: "Triều trước dựng nước, tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần bắt chước theo nhau. Vào khoảng năm Đại Trị, kẻ học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của sự lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục của phương Bắc cả, như về y phục, nhạc chương không kể hết" (Đại Việt sử kỳ toàn thư).

Hiện nay, không chỉ đồ thờ cúng, tranh tượng, mà ngay cả y phục, mão trượng của nhiều nhà sư Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc, Đài Loan. Phật giáo Việt Nam có mạnh dạn thay đổi cái “truyền thống” này, trong nỗ lực thoát ra khỏi cái ảnh hưởng văn hoá kia, để từ bộ y trên người, đến sâu thẳm lòng tự trọng của mình, tìm ra được một giá trị mang tên văn hoá Phật giáo Việt Nam.

Một khi cái nền tảng văn hoá được cho là “văn hoá Phật giáo cũng là văn hoá dân tộc” chưa thể thoát ra khỏi những ảnh hưởng ngoại lai ấy, thì trước thách thức của thời đại, chúng ta vẫn là một đứa trẻ già tuổi nhưng chưa thể tự đứng vững trên đôi chân (văn hoá) của chính mình. Và giá trị tinh thần, tư tưởng của những ngôi chùa mang tên “Khai Quốc”, “Hộ Quốc”, “An Quốc”, “Trấn Quốc”, “Báo Quốc” chỉ đúng nghĩa “Hộ quốc an dân”, “gắn bó đồng hành cùng dân tộc”, khi nó tiên phong trên con đường thúc đẩy sự độc lập văn hoá.


Thích Thanh Thắng
(Phật Tử Việt Nam)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/11/2014(Xem: 7355)
Tuần trước, Tòa Thượng Thẩm New South Wales ban hành phán quyết ra lệnh phạt bị đơn bồi thường $80,000 cùng với phí tôn pháp lý vì đã viết và phổ biến bài trên trang mạng và qua email có tính mạ lỵ và phỉ báng.hông còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
01/11/2014(Xem: 5739)
Mấy hôm nay thấy các bạn trẻ đưa tin liên tục về lễ hội trá hình mà tiếng anh gọi là Hallowen. Thời gian gần đây lễ hội Hallowen du nhập vào Việt Nam và được các bạn trẻ rất thích. Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi về nguyên nhân và ý nghĩa sâu xa của Hallowen. Như chúng ta đã biết, Halloween viết đầy đủ là All Hallows' Eve", nghĩa là 'Buổi tối vọng lễ chư Thánh”. Lễ hội truyền thống được này được tổ chức vào ngày 31 tháng 10 hàng năm, vào buổi tối trước lễ các Thánh trong Ki Tô Giáo. Bản chất lễ hội là để tưởng nhớ những người đã chết, gồm các thánh, các vị tử đạo và tất cả các tín hữu trung kiên đã qua đời.
29/10/2014(Xem: 6944)
Tuần qua (16.10.204) tờ The Herald Sun tại Melbourne đăng bài “Burglars reveal the common mistakes homeowners make that tempt them” (Giới ăn trộm tiết lộ những sơ suất thông thường của chủ nhà vốn mời mọc họ”, chỉ ra những sơ suất mà chủ nhà vô tình gây ra để “mời” trộm vào nhà. Đây là dự án khảo cứu mang tên “Drug Use Monitoring in Australia” do Phân khoa Luật và Công lý (School of Law and Justice) thuộc Đại học Edith Cowan tại Tây Úc thực hiện. Như có thể thấy ở cái tên, khảo sát này nhắm vào giới nghiện ngập, tìm hiểu những mánh khóe mà giới này áp dụng để kiếm tiền hút chích. Trong chương trình này các nhà nghiên cứu đã phỏng vấn 228 can phạm bị tù, hỏi 168 tên trộm về mánh khóe làm ăn. Qua lời khai của những tên trộm này, các nhà khảo cứu đã rút ra những điểm đáng chú ý mà chúng ta nên tuyệt đối tránh:
22/10/2014(Xem: 11774)
Các “nhà sư ăn mày” nầy trắng trợn đòi người đi đường quyên tặng 50 đô Úc và cáu gắt bỏ đi khi chỉ nhận được vài đô. Giới chức Úc vừa phát hiện một số người khoác áo tu Phật giáo gồm đàn ông và phụ nữ, nhóm "sư giả" để lừa tiền khách du lịch tại 2 thành phố Perth (Tây Úc) và Sydney (bang New South Wales). Những người này cạo trọc đầu, ăn mặc như nhà sư và dùng chiêu phát “bùa hộ mệnh” - một tấm thẻ màu vàng - cho du khách để đổi lấy tiền quyên góp từ thiện. Theo báo Sydney Morning Herald, các sư giả còn trắng trợn đòi người đi đường quyên tặng 50 đô và cáu gắt bỏ đi khi chỉ nhận được vài đô. Một người ngụ tại TP Perth kể lại: “Các “nhà sư” rút ra một cuốn sổ tay và nói những người khác đã đóng góp từ 20-50 dô theo lệ của một ngôi chùa”. Một người đi đường chỉ đưa 5 đô sau khi bị yêu cầu góp ít nhất 20 đô.
26/09/2014(Xem: 7382)
Đạo Phật có trên hai mươi lăm bộ phái và 2500 năm lịch sử. Con đường tồn tại và phát triển của đạo Phật cho đến ngày hôm nay về mặt lý thuyết cũng như thực hành là con đường Trung Đạo. Cho nên, trung đạo là chánh đạo. Nghiêng lệch một ly là đi một dặm
01/09/2014(Xem: 6775)
.. “Trường hợp những vong linh được ký tự tại chùa mà trong vòng 03 tháng không thấy người thân đến thăm viếng thì đạo tràng sẽ gửi trả các vong linh trở về lại cho gia đình phụng thờ. Nếu để vong linh buồn tủi vì bị bỏ rơi không còn chốn đi về, vượt qua khỏi sự quản lý của thế giới U Minh,vong linh sẽ trở thành những vong hồn vô thừa nhận, làm cô hồn dã quỷ thì rất là tội nghiệp. Vì thế, đề nghị các thiện nam tín nữ muốn ký tự cho vong linh phải lưu ý các quy định nầy”...
21/08/2014(Xem: 4976)
Sau phát hiện chấn động về việc dân Tây Bắc qua suối bằng túi nilon, giờ đến lượt dân Tây Nguyên trổ tài qua suối bằng sợi cáp mỏng manh như làm xiếc. Làm xiếc cho ai xem, ai dám đem tính mạng mình ra làm xiếc? Nhưng không làm xiếc thì dân biết làm gì? Nếu tính hai vụ “làm xiếc” ấn tượng gần đây nhất của dân Việt Nam, tôi xin kể ra hai vụ này. Một vụ may mà chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng, còn một vụ đã khiến 26 người bị thương, đọc tin tức mà thấy vừa buồn, vừa đau, vừa chua chát.
21/08/2014(Xem: 9709)
20 QUỐC GIA GIÀU NHẤT HÀNH TINH Dựa trên thông kê của Ngân hàng Thế giới, danh sách 20 quốc gia giàu nhất thế giới được đưa ra. Trong đó, châu Âu có tới 13 đại diện.
18/08/2014(Xem: 5927)
Tôi là một người có đến 1001 lý do để không thể và không nên trở thành một tay du lịch chuyên nghiệp, nhưng thiệt tình trong bụng vẫn tự nhủ sẽ tìm dịp thăm viếng một vài nơi trước khi giũ sạch những giấc mơ xê dịch, để yên lòng lên non tìm động hoa vàng nào đó mà đánh giấc thiên thu. Một trong những nơi chốn mộng mơ đó chính là Machu Picchu ở tận xứ Peru. Chỉ là một di tích rêu phong, cũ kỹ thôi, nhưng nó có thể được coi là một Angkor hay Binh Mã Dũng ở Nam Mỹ.
14/08/2014(Xem: 6078)
Đọc bài “Chất vấn TT. Nhật Từ về tự ý đổi tên nhân vật trong kinh Phật” của anh Minh Thạnh (MT) đăng trên Phật tử Việt Nam, [1] tôi lấy làm tiếc khi anh MT nghiên cứu không đến nơi đến chốn, lại thích “múa rìu qua mắt thợ”, khi phê phán Thầy Thích Nhật Từ (TNT) một cách nặng lời như “tự ý đổi tên nhân vật trong kinh Phật”, “việc làm ngẫu hứng, tự phát, tùy tiện, tùy hứng”. Trong tâm trạng đắc thắng, MT chất vấn thầy TNT: “Rồi tại sao là vứt đi danh từ riêng Angulimala ghi rõ trong kinh Phật? Lý do để loại bỏ từ này và thay bằng một cụm từ hình tượng nhưng tùy tiện, ngẫu hứng, tự tạo, tự chế.” Hay gay gắt hơn, cho rằng việc làm đó là làm “biến dạng” Kinh Phật: “người soạn dịch [thầy TNT] có phải không chỉ đổi tên nhân vật, mà muốn đưa ra một phương pháp, một cách thức tạo hình tên mới: Nếu như vậy thì kinh Phật sẽ rơi vào tình trạng biến dạng vô cùng vô tận, không còn sự chính xác.” Mấu chốt của bài viết của anh MT là do anh MT ngộ nhận rằng “tên nhân vật Angulimala được [thầy TNT] tự ý
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]