Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những "Quyết Định không dễ dàng" chưa nói hết

01/01/201323:08(Xem: 3395)
Những "Quyết Định không dễ dàng" chưa nói hết




NHỮNG “QUYẾT ĐỊNH KHÔNG DỄ DÀNG” CHƯA NÓI HẾT

 

Thích Viên Giáo

 

 

Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác viên tịch vào ngày 05/12/2012. Ngày hôm sau, 06/12/2012, Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ (GHPGVNTNHK) gửi điện thư phân ưu đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTNHN-HK), Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam (GHTGNTVN) và môn đồ pháp quyến. Qua tuần sau, phái đoàn của GHPGVNTNHK trên dưới 10 vị cũng đã đến phúng viếng và đọc lời cảm niệm bày tỏ đạo tình trước kim quan của Giác linh tân viên tịch vào ngày 12/2/2012.

Bốn ngày sau đó, 16/12/2012, theo bản tin ngày 22/12/2012 của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (PTTPGQT), trong lễ trà tỳ và cung tiễn kim quan ĐLHT Thích Hộ Giác, TT. Thích Giác Đẳng đại diện môn đồ pháp quyến cung tuyên hành trạng của Giác linh. Hành trạng ấy được tóm lược trong 8 quyết định “không dễ dàng” trong cuộc đời của ĐLHT Thích Hộ Giác, mà quyết định cuối cùng là quyết định liên quan đến sự lựa chọn giữa “Tăng Ni Hải Ngoại” và “duy trì Văn Phòng II Viện Hóa Đạo theo tinh thần Giáo Chỉ số 9 ban hành ngày 8.9.2007” (nguyên văn lời phát biểu được PTTPGQT ghi lại).

Những tưởng đây là cơ hội tốt nhất để TT. Giác Đẳng làm sáng và sạch những gì mà Thầy của mình, ĐLHT Thích Hộ Giác, không thể nói, nhất là vào giai đoạn cuối đời, là giai đoạn u buồn lặng lẽ nhất của Ngài; bởi vì giai đoạn ấy liên quan đến sự phân ly giữa bản thân Ngài với đại đa số Tăng Ni Việt Nam tại hải ngoại, trong đó, nhiều vị là pháp lữ đồng đạo từng chung  vai sát cánh hành đạo, phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất nhiều thập niên qua.

Những điều khó xử mà TT. Giác Đẳng nêu lên, 7 điều trước tuy khó quyết định nhưng nếu quyết định cách nào thì cũng chỉ ảnh hưởng cuộc đời cá nhân của ĐLHT Thích Hộ Giác. Riêng quyết định cuối cùng, là quyết định liên quan đến số đông, mà số đông ở đây là Tăng đoàn Việt Nam tại hải ngoại, sẽ để lại những dấu ấn không được sáng sủa trong lịch sử, thì đáng tiếc thay, TT. Giác Đẳng chỉ lo “tự vệ” để giữ gìn vị thế của mình trong VPII VHĐ và GHPGVNTNHN-HK, lấy sự nằm xuống của Thầy mình để biện minh cho chính mình và vài người “đồng thuyền” đang còn cố gắng chống đỡ cho con thuyền rã rệu VPII VHĐ.

Chính vì chỉ lo “tự vệ”, phát biểu của TT. Giác Đẳng về những quyết định khó xử của ĐLHT Thích Hộ Giác thì quá thiếu; và về Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại thì quá sai!

Sau đây là những đề nghị bổ sung cho những “quyết định không dễ dàng” đồng thời mổ xẻ các sai lầm trong phát biểu về Tăng Ni Hải Ngoại:

 

1)      Quyết định về hành xử đúng pháp và hợp đạo tình giữa tăng-già:

Phái đoàn đại diện GHPGVNTNHK đã đến phúng viếng tang lễ ĐLHT Thích Hộ Giác không vì lẽ đúng-sai của người nằm xuống, mà đến vì đạo tình, chỉ vì đạo tình mà thôi. Chuyện đúng-sai, chân-giả, hãy để lịch sử mai sau ghi chép. Nghĩa cử của chư vị đại diện GHPGVNTNHK là nghĩa cử đẹp, đúng theo đạo nghĩa thông thường của thế gian, và tất nhiên là thuận hợp với tinh thần hòa hợp, thanh tịnh của Tăng-già. Trong thực tế, việc thể hiện đạo nghĩa làm người, đạo tình Linh Sơn cốt nhục, ai cũng có thể làm được, vì là lẽ tự nhiên. Nhưng quý vị trong Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) trong nước, quý vị trong GHPGVNTNHN-HK, và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo (VPII VHĐ) đã không làm được khi chư vị Hòa thượng nguyên thành viên của Hội Đồng Lưỡng Viện viên tịch (tuần tự theo thời gian: HT. Thích Minh Tuệ, HT. Thích Thuyền Ấn, HT. Thích Thiện Hương, HT. Thích Trí Chơn, HT. Thích Hành Đạo). Chư vị Hòa thượng vừa kể đều là những đồng viện, đồng sự của quý vị trong nhiều thập niên qua. Phải chăng tự mình vạch ra một ranh giới, một vùng trời riêng, để rồi xoay lưng với đạo nghĩa, đạo tình?

Có thể cố ĐLHT Thích Hộ Giác, với tâm lượng nhu hòa, tình cảm, khi hay tin những đồng đạo, đồng viện của mình nằm xuống, đã không khỏi đau xót, muốn bày tỏ một đôi lời, hay nghĩa cử nào đó, mà vì lằn ranh do những người cọng sự và cận sự vẽ ra, đã không thể quyết định, và đã “phải lựa chọn không dễ dàng”, để rồi cuối cùng là im lặng, không phân ưu, không phúng viếng, dù là trên danh nghĩa của VPII VHĐ, hay Chủ tịch HĐĐH GHPGVNTNHN-HK, hoặc GHTGNTVN. Điều này khó hay dễ? Nếu dễ, hóa ra không đạo nghĩa, đạo tình. Nếu khó, sao TT. Giác Đẳng lại thiếu sót nêu lên?

 

2)      Ứng xử khi cộng sự của mình vu khoát, phỉ báng Tăng đoàn hải ngoại:

Từ khi Giáo chỉ số 2 ban hành (29/11/2005), loại trừ quá bán thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong nước, và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo chỉ số 9 ban hành (08/9/2007), giải tán toàn bộ các GHPGVNTN tại hải ngoại (chỉ giữ lại VPII VHĐ); các cộng sự và cận sự của ĐLHT Thích Hộ Giác đã mở một chiến dịch trường kỳ (qua những bài viết hoặc video clips hội thảo, họp báo, đăng trên các diễn đàn tôn giáo, chính trị, trong đó nhiều bài vẫn còn lưu trữ trên trang queme.net và PTTPGQT) bôi nhọ, phỉ báng và chụp mũ thân Cộng / Cộng sản lên hầu hết Tăng Ni Việt Nam hành đạo tại hải ngoại không hệ thuộc VPII VHĐ. Những người này đã sử dụng những ngôn ngữ vô lễ, kém văn hóa, nhắm vào Tăng Ni, mở đường cho ngoại đạo và ác đảng công kích và mạt sát hàng ngũ xuất gia Phật giáo. Đối với những hành động phá hòa hợp tăng, phỉ báng Tăng bảo ấy, vị lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN tại hải ngoại là ĐLHT Thích Hộ Giác, vốn là người nhu hòa, vô tránh, hẳn là sẽ khó xử. Nếu TT. Thích Giác Đẳng cho rằng Ngài không khó xử, mà hoan hỷ với các hành vi và ngôn ngữ của phát ngôn nhân VHĐ và PTTPGQT, hóa ra ĐLHT cũng đồng thuận sự phỉ báng Tăng Ni hay sao? Còn nếu Ngài khó xử, không bằng lòng với các thuộc cấp, sao TT. Thích Giác Đẳng không nêu lên?

 

3)      Quyết định về việc ký ban hành “Thông Bạch về Tuyên Bố Chung” của 104 thành viên các GHPGVNTN tại hải ngoại:

Vào ngày 26.9.2008, HT. Thích Hộ Giác ký ban hành “Thông bạch về bản Tuyên Bố Chung cùng sự tiếm danh GHPGVNTN của một số Tăng Ni hải ngoại”, trong đó có nhận định như sau:

“Nói về số lượng chữ ký dưới bản “Tuyên Bố Chung” ký ngày 9.9.2008 được phổ biến, thì tổng cộng gồm có 124 chữ ký Tăng, Ni, Cư sĩ tại Canada, Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan, Âu châu và Hoa Kỳ. Ngoại trừ một số ít là cựu thành viên của GHPGVNTN, còn đa số các vị khác không thuộc GHPGVNTN và Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Do đó, Văn phòng II Viện Hoá Đạo, là cơ quan tối cao và đại diện duy nhất ở hải ngoại của Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, dưới sự lãnh đạo nghiêm minh của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số chư Tăng, Ni, Cư sĩ ký tên dưới Tuyên Bố Chung ngày 9.9.2008.”

Nội dung và lời lẽ trên không thể là của ĐLHT. Thích Hộ Giác mà do phát ngôn nhân VHĐ soạn thảo. Con số 124 là đếm sai, không quan trọng; mà quan trọng nhất là một vị cao tăng lãnh đạo giáo hội lại có thể ngoảnh mặt làm ngơ với những đồng đạo mà hầu hết không xa lạ với mình, đã từng cộng sự với mình từ trong nước mấy thập niên trước, hoặc ngoài nước ít nhất trên 16 năm kể từ khi thành lập GHPGVNTNHN-HK (năm 1992, tính đến năm 2008). Nói “đa số các vị khác không thuộc GHPGVNTN và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo” và “không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số chư Tăng, Ni, Cư sĩ ký tên” là nói trái sự thực, không lẽ vị cao tăng ấn ký vào thông bạch với cương vị là Phó Tăng Thống có thể làm được? Xin hỏi TT. Giác Đẳng, quyết định ký vào thông bạch (do ai soạn sẵn) này, chấp nhận cho ban hành, im lặng không cãi chính khi đã ban hành, là dễ hay khó? Nếu là dễ, hóa ra dối; nếu là khó, sao TT. Giác Đẳng thiếu sót không nêu?

 

4)      Quyết định đệ trình tấn phong phẩm vị Hòa thượng cho TT. Thích Viên Lý:

ĐLHT Thích Hộ Giác đã viết văn thư ngày 29/6/2011, đệ trình Viện Tăng Thống tấn phong TT. Thích Viên Lý lên phẩm vị Hòa thượng. Văn thư này đã được ĐLHT Thích Quảng Độ duyệt xét và chuẩn y tức thì trong cùng ngày 30/6/2011 (chỉ trong vài giờ đồng hồ, vì khi California ngày 29 thì tại Việt Nam đang là ngày 30).

Nếu miễn cưỡng phủ nhận 104 Tăng Ni và Cư sĩ ký trên trong Tuyên Bố Chung với lý do “không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học” để làm vừa lòng những người soạn thảo thông bạch nói ở trước, thì chí ít ĐLHT Thích Hộ Giác cũng nắm vững “tên tuổi hay quá trình tu học” của TT. Viên Lý (tuổi Thân, sinh năm 1956), từ khi đến Mỹ trên hai mươi năm chưa hề an cư kiết hạ (ngay cả khi Tổng vụ Tăng Sự của GHPGVNTNHN-HK tổ chức an cư hàng năm cũng không tham dự), thì vì lý do gì mà vội vàng viết văn thư đệ trình tấn phong phẩm vị Hòa thượng (cho TT. Viên Lý vào năm 2011, khi tuổi đời chỉ mới 55 và hạ lạp không chưa đủ 40)? Một là không nắm vững, tức là tự mâu thuẫn với thông bạch phủ nhận 104 thành viên ký tên trong Tuyên Bố Chung ở trước; hai là, nắm vững “quá trình tu học” của TT. Viên Lý là chưa đủ tiêu chuẩn và phẩm hạnh làm Hòa thượng, nhưng vẫn phải ký văn thư đệ trình. (Lý do nào thì không phải chỉ có ông Võ Văn Ái, TT. Viên Lý và TT. Giác Đẳng biết, mà người ngoài nếu chịu khó theo dõi tin tức thì biết ngay việc tấn phong tháng 6/2011 là để chuẩn bị cho Đại Hội Khoáng Đại IX vào ngày 18-20/11/2011: TT. Viên Lý lên nắm chức vụ Chủ tịch HĐĐH GHPGVNTNHN-HK thay thế ĐLHT Thích Hộ Giác, và TT. Giác Đẳng lên nắm chức vụ Tổng Thư Ký 20 năm của TT. Viên Lý). Một văn thư đệ trình thiếu thẩm xét như thế không những tự dối mà còn dối cả Viện Tăng Thống và Hội Đồng Lưỡng Viện. Vậy xin hỏi TT. Giác Đẳng trong trường hợp này, trước yêu cầu của ông Võ Văn Ái và TT. Viên Lý, và thậm chí của TT. Giác Đẳng, thì ĐLHT Thích Hộ Giác có khó xử hay không? Nếu quyết định dễ dàng thì hóa ra hành xử thiếu công minh, đệ trình không đúng người; còn nếu khó, sao TT. Giác Đẳng không nêu lên?

 

Bây giờ hãy phân tích về những phát biểu của TT. Thích Giác Đẳng về Tăng Ni Hải Ngoại và Ngày Về Nguồn:

Theo bản tin phổ biến của PTTPGQT, trong lời cung tuyên hành trạng của ĐLHT Thích Hộ Giác, trưa ngày 16/12/2012, TT. Giác Đẳng đã nói như sau:

“Năm 2006, Hòa thượng Thích Minh Tâm tại Pháp ra một thư mời để thành lập tổ chức ‘Tăng Ni Hải ngoại’. Hòa thượng Hộ Giác Ngài hiểu là việc đó không nằm trong ý chí của Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo) trong nước. Nhất là Hội đồng Lưỡng Viện không được thông báo điều này, mà bản thân của Hòa thượng Minh Tâm còn là một thành viên của Văn phòng II Viện Hóa Đạo. Ngài đã cử chúng tôi sang Paris ba lần để thuyết phục, cốt làm sao sự việc ấy đừng diễn ra. Nhưng việc bất thành.”

Có mấy điều sai trong đoạn trên:

-          Nói năm 2006 là quá sai! Ngày 06 và 07/01/2007 chư tôn đức Tăng Ni nhân dịp giỗ Tổ Liễu Quán tại Phật Học Viện Quốc Tế mới có buổi họp về tăng sự, đưa đến quyết định tổ chức Hiệp Kỵ (thay vì chỉ giỗ Tổ Liễu Quán) hàng năm. Đến ngày 18/01/2007 mới có thư trình chính thức của HT. Thích Minh Tâm, được đề cử làm Trưởng ban Điều Hợp Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, và thông báo Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ I sẽ được tổ chức từ ngày 21 đến 23 tháng 9 năm 2007 tại Chùa Pháp Vân, Canada, do TT. Thích Tâm Hòa làm Trưởng ban Tổ chức.

-          Ngoài thư trình ngày 18/01/2007, không hề có bất cứ “thư mời để thành lập tổ chức Tăng Ni Hải Ngoại” nào như TT. Giác Đẳng nói. Nếu có, xin TT. Giác Đẳng hãy trưng dẫn, đừng đặt điều sau lưng ĐLHT Thích Minh Tâm khi Ngài không có mặt trong tang lễ hôm ấy.

-          Nói rằng “thành lập tổ chức” là sai, mà gọi Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại là một tổ chức cũng sai nốt! Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại là cách gọi khiêm tốn thay vì gọi là Tăng đoàn Việt Nam Hải Ngoại. Đây không phải là tổ chức mà là một tên gọi tạm thời để minh danh một tập thể Tăng Ni sinh hoạt tại hải ngoại, cần có sự kết hợp, gặp gỡ hàng năm qua Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư để trao đổi tăng sự, phật sự. Tăng Ni sinh hoạt tại hải ngoại với tăng sự và phật sự thì có cần phải xin phép hay báo cáo với Giáo hội không? Tăng đoàn bao trùm tất cả Tăng Ni thuộc các giáo hội, hệ phái, tông môn, không lẽ đi xin phép Giáo hội. Dù nhiều Tăng Ni là thành viên Giáo hội, nhưng các Tăng Ni khác không thuộc Giáo hội thì sao, chẳng lẽ họ tập hợp để giỗ Tổ và họp tăng, bàn phật sự mà cũng phải xin phép Giáo hội?

-          Chuyện cử TT. Giác Đẳng “sang Paris ba lần để thuyết phục” cũng không thể tin được, nếu không muốn nói thẳng là chỉ là sự bịa đặt. Có hai lý do để không tin: a) Nếu cần “thuyết phục”ĐLHT Thích Minh Tâm, thì đích thân ĐLHT Thích Hộ Giác làm việc ấy, TT. Giác Đẳng trong vị thế hậu học có đủ tư cách để thưa chuyện với bậc trưởng thượng như ĐLHT Thích Minh Tâm hay không? b) Ba lần ấy nếu thực sự có xảy ra thì chỉ trong vòng năm 2007, từ tháng 01 đến tháng 9. TT. Giác Đẳng đã đi Paris ba lần hay sao, và đã gặp ĐLHT Thích Minh Tâm tại đâu, ngày tháng nào, có ai chứng kiến hay không? Tăng Ni tham dự 6 lần Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư chưa hề nghe ĐLHT Thích Minh Tâm đề cập đến sự kiện “ba lần để thuyết phục” này.

 

Kế tiếp, TT. Giác Đẳng nói:

“Từ Đại hội Tăng Ni Hải ngoại của Hòa thượng Thích Minh Tâm tổ chức hai ngày 6 và 7.1.2007 tại thành phố Toronto ở Canada, cho đến Đại hội Về Nguồn ngày 21.9.2007, chúng tôi nhớ hai cú điện thọai cuối cùng, một Ngài gọi Hòa thượng Thắng Hoan, một Ngài gọi Hòa thượng Trí Chơn để nói về điều này hầu ngăn cản sự phân ly không mấy tốt đẹp vào lúc nhà cầm quyền Cộng sản còn đàn áp khốc liệt Giáo hội trong nước. Nhưng việc cũng không thành.”

Phát biểu trên cũng sai, quá sai:

-          Không hề có “Đại Hội Tăng Ni Hải Ngoại” tổ chức hai ngày 6 và 7.1.2007 tại thành phố Toronto ở Canada! Chỉ có 2 ngày giỗ Tổ Liễu Quán tại Phật Học Viện Quốc Tế như đã nói ở trước.

-          Cũng không hề có “Đại Hội Về Nguồn” nào cả. Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ nhất, qua “Thông bạch Cung Thỉnh Tham Dự Ngày Về Nguồn” của ĐLHT. Thích Minh Tâm (ký ngày 01/5/2007), cũng như qua “Thư Cung Thỉnh Tham Dự Ngày Về Nguồn – Ngày Tương Ngộ của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại” do TT. Thích Tâm Hòa, Trưởng ban Tổ chức (ký ngày 15/3/2007), đều không hề nói gì về một “đại hội” mà chỉ là 3 ngày họp tăng và cúng Tổ.

-          “Hai cú điện thoại cuối cùng” mà TT. Giác Đẳng nói, liên quan 3 vị mà 2 vị đã viên tịch, thật khó kiểm chứng! Tuy nhiên, điều đó không quan trọng, mà điểm đáng nói ở đây là TT. Giác Đẳng đã cố tình gán cho Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại cái lỗi làm cho “phân ly” Giáo hội tại hải ngoại. Cái lỗi, đúng hơn là cái “tội” làm phân ly Giáo hội và phá sự hòa hợp của Tăng đoàn hải ngoại, nằm trong chính Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 mà lãnh đạo tối cao của Viện Hóa Đạo trong nước (VHĐ) là ĐLHT Thích Quảng Độ và ngoài nước (VPII VHĐ) là ĐLHT Thích Hộ Giác phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. TT. Giác Đẳng cũng như các nhân sự VPII VHĐ cho đến nay vẫn tiếp tục biện minh, bào chữa cho cái “tội” này. Bởi vì ai cũng biết soạn giả của Thông Bạch kia không phải là ĐLHT Thích Quảng Độ và ĐLHT Thích Hộ Giác.

 

“Và cuối cùng Ngài làm một quyết định lớn, đó là tuân thủ sự chỉ định của Đức Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trong việc duy trì Văn phòng II Viện Hóa Đạo theo tinh thần Giáo chỉ số 9 ban hành ngày 8.9.2007.”

Quyết định cuối cùng mà TT. Giác Đẳng nêu ở đây rất mơ hồ và không hợp lý về thời gian: Thư trình của ĐLHT Thích Minh Tâm về việc tổ chức Ngày Về Nguồn của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại chính thức phổ biến ngày 18/01/2007, trong khi Giáo Chỉ số 9 ký sau đó 8 tháng (ngày 08/9/2007). Vậy theo TT. Giác Đẳng thì ĐLHT Thích Hộ Giác đã chọn lựa và quyết định vào lúc nào? Vả lại, đường hướng sinh hoạt và mục đích của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại đã nêu rõ trong Thư trình ngày 18/01/2007, chỉ là sự tương ngộ và trao đổi tăng sự của Tăng Ni tại hải ngoại nhân dịp cúng kỵ chư Tổ; khi nhận được Thư trình này, ĐLHT Thích Hộ Giác phải vui mừng, hoan hỷ chứ sao lại “quyết định không dễ dàng”?

Còn nếu cho rằng tính theo thời điểm tổ chức Ngày Về Nguồn đầu tiên (21, 22 và 23/9/2007) tại Chùa Pháp Vân, Canada, thì cũng không đúng, vì Giáo Chỉ số 9 ban hành ngày 08/9/2007 trước Ngày Về Nguồn 2 tuần lễ. Vậy thì khi ĐLHT Thích Hộ Giác đã chọn lựa “tuân thủ sự chỉ định của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trong việc duy trì Văn phòng II Viện Hóa Đạo” vào ngày 8/9/2007 thì lúc ấy Ngày Về Nguồn đầu tiên chưa xảy ra, có gì gọi là khó xử, khó quyết định!

 

Thiết nghĩ, cuộc đời của ĐLHT Thích Hộ Giác có nhiều điểm và nhiều giai đoạn rất đẹp, rất sáng, rất thành tựu; nhưng kể từ năm 2005 đến cuối cuộc đời, thật đúng là có những điều “không dễ dàng”quyết định đối với Ngài. Khi Ngài nằm xuống, chỉ một lần cuối trong tang lễ là cơ hội để người đệ tử thân cận thay Thầy mình nói lên những điều khó hoặc không thể nói. Cơ hội ấy, TT. Giác Đẳng là người duy nhất có thể nắm lấy, lại không nói cho Thầy, mà chỉ nói cho mình và vài người tại vị “vô thời hạn” trong VPII VHĐ. Đạo nghĩa và đạo tình Thầy-trò qua sự việc này, dường như nhẹ hơn những chiếc ghế rất nhiều.

Cơ hội cuối cùng không nói được thì đành chờ lịch sử nói thay. Đáng tiếc!

 

Hoa Kỳ, ngày 01/01/2013
Thích Viên Giáo

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2020(Xem: 5933)
Đạo Phật do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập tại Ấn Độ cách đây hơn 25 thế kỷ, đã đứng vững và tiếp tục lớn mạnh như một ngọn đuốc quang minh để soi đường dẫn bước cho nhân loại trên hành trình giải thoát giác ngô. Đạo Phật đã đem đến cho con người một đời sống tâm linh hoàn hảo. Theo thống kê mới đây, số lượng Phật tử hiện nay trên thế giới là khoảng từ 1.2 tỉ đến 1.6 tỉ, gần bằng số lượng tín đồ của hai tôn giáo lớn nhất thế giới là Hồi giáo và Thiên Chúa giáo (gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo và Chính thống giáo), các học giả xem Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Thực tế của nó đã có lịch sử nổi bật nhất ở Đông và Đông Nam Á, hiện nay hương từ bi trí tuệ đạo Phật đã tỏa sáng khắp các quốc gia Âu, Mỹ và châu Phi. Nhiều tư tưởng và triết lý Phật giáo có những điểm tương đồng với các tôn giáo khác.
13/02/2020(Xem: 12615)
Ngày 14 tháng 8, năm 1992 Cố Lão Hòa Thượng khai thị tại Vạn Phật Thánh Thành về hai chứng bệnh vô phương cứu chữa, bịnh AIDS, một loại bịnh chỉ nghe tiếng đã khiến người ta kinh khiếp, và một chứng bịnh mới càng kinh kiếp hơn, đó là bịnh Tân Viêm Phế, chứng sưng phổi loại mới. Hai ngày sau tại Kim Luân Thánh Tự ở Los Angeles; Ngài, một lần nữa, lớn tiếng kêu gọi nhân dân thế giới hãy mau thức tỉnh về đại họa đang đe dọa toàn nhân loại mà cùng phát đại bi tâm trì tụng Chú Đại Bi và Chú Lăng Nghiêm để tránh tai họa này và giữ gìn hòa bình thế giới.)
07/02/2020(Xem: 4048)
Chuyện cúng "Dương Sao Giải Hạn" vào thời đại văn minh này, ở Việt Nam và ngay cả người Việt ở một số các ngôi Chùa ở hải ngoại nữa, trong khi các nước Tây Phương đang có kế hoạch chuẩn bị di dân lên Hoả Tinh để sinh sống vào khoảng độ năm 2030-2050 tới đây, thì, đối với các nước chậm tiến như Việt Nam, Trung Quốc, chuyện cúng kiến đó vẫn còn khá hấp dẫn. Có thể nói là hấp dẫn tương tự như chuyện của "Ngàn Lẻ Một Đêm", tuy nhiên, có khác chăng thì một chuyện từ Trung Đông, xứ Babylon và một chuyện xuất phát từ một nước chuyên chế tác những điều mê tín và chế tác hàng giả, nhại theo nguyên tác từ sự phát minh của các nước văn minh, để miễn xin phép, nói nôm na là 'ăn cắp' bản quyền, đó là Trung Quốc. Và cái khác quan trọng hơn nữa là câu chuyện Ngàn Lẻ Một Đêm chỉ tạo cảm giác hấp dẫn cho người nghe về trí tưởng tượng thôi, còn cái hấp dẫn của cái gọi là 'cúng dương sao giải hạn' của Trung Quốc (gốc của Lão Giáo) thì, đã không có ích lợi gì mà còn tốn hao tiền của, ô nhiễm môi trường,
05/02/2020(Xem: 3709)
Theo đó, vào chừng nửa đêm ngày 1-2, sư cô Tuệ Đức nghe tiếng khóc của trẻ, sau đó cùng người trong chùa đi kiểm tra thì phát hiện một cháu bé sơ sinh duới chân tượng Bồ-tát. Bên cạnh cháu bé có tã lót, hộp sữa bột, bình bú, chăn ấm và một bức thư có nội dung: “Tôi không có khả năng nuôi con, xin nhờ chùa nuôi giúp. Con tôi được 3 ngày tuổi”. Ngay sau đó sư cô Tuệ Đức đã bế cháu vào chùa và nhanh chóng báo sự việc cho sư cô trụ trì chùa, chăm sóc cháu bé, đồng thời thông báo cho chính quyền địa phương.
04/02/2020(Xem: 3078)
Đất nước đang cố gắng vượt qua nhiều khó khăn do sự ỳ ạch gỡ rối với phong cách sai đâu sửa đó, chính vì vừa làm vừa học để rút kinh nghiệm mà làm chậm bước tiến, thay vì dẹp tính tự ái chủ nghĩa, học kinh nghiệm của đất nước tiên tiến không cùng ý thức hệ để thu ngắn thời gian. Mãi đến khi Liên Sô sụp đỗ, bắt đầu xét lại phương thức điều hành kinh tế xã hội dưới danh nghĩa “kinh tế thị trường theo định hướng xã hộichủ nghĩa”, trong khi Trung Quốc mạnh dạng bắt tay vào kinh tế thị trường với thế giới tư bản, Trung Quốc trở thành nền kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới, thì VN từ đó, phương cách điều hành có phần thông thoáng; các ban ngành đưa cán bộ xuất ngoại tiếp thu cái hay xứ người về bổ sung cho hệ thống điều hành chuyên môn, trong đó, việc giao lưu tôn giáo cũng được phát triển nhanh nhạy. Ki tô giáo thắt chặt quan hệ với tòa thánh Vatican để hợp thức hóa nhân sự theo hệ thống dọc.Riêng Phật giáo, thập niên 60 đã là thành viên của “Hội Phật giáo Liên hữu Thế giới” do cố
01/02/2020(Xem: 3833)
Xin một nén hương hướng về những người chết thảm bởi tay hung tàn ác nghiệp gây ra. Ông là ai mà giết người hàng loạt Ông là ai mà trốn chạy được đâu Cuộc đời ông sẽ dẫn đến khổ sầu Lưới nhân quả không bao giờ sai cả.
30/01/2020(Xem: 4399)
Hôm thứ Tư, ngày 29/01/2021, Cục Điều tra Liên bang (Federal Bureau of Investigation, FBI) đã đột kích một nhà thờ Los Angeles có trụ sở tại Philippines, bắt giữ ba vị lãnh đạo cơ sở tôn giáo này (Guia Cabactulan, 59 tuổi, Marissa Duenas, 41 tuổi và Amanda Estopare, 48 tuổi, là thành viên của Vương quốc Jesus Christ, KOJC) trong cuộc điều tra chống tội phạm buôn người. Các công tố viên cho biết trong suốt mấy thập kỷ qua, các nhà lãnh đạo nhà thờ Kingdom of Jesus Christ đã lừa gạt biến tín đồ thành những người vận động gây quỹ và sắp xếp cho những người này kết hôn giả để có thể ở lại Hoa Kỳ. Theo Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ cho biết, trong vụ triệt phá gian lận di trú này, vào buổi sáng sớm ngày nêu trên, lãnh đạo nhà thờ bị bắt cùng với một người phụ trách tài chính và một người đảm trách việc tịch thu Hộ chiếu của các nạn nhân.
22/12/2019(Xem: 3987)
Phật Giáo có mặt ở Việt Nam trên 2000 năm, gắn liền với vận mạng thăng trầm của dân tộc, suốt từ thời Hùng Vương, Chữ Đồng Tử - Tiên Dung, Hai Bà Trưng khởi nghĩa cho đến hôm nay. Câu tục ngữ : “đất Vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, cứ mỗi làng, thôn có một cái miếu và một ngôi chùa và nhà thơ Hồ Dzếnh đã viết: “Trang sử Phật, Đồng thời trang sử Việt, Trải bao độ hưng suy, Tuy có nguy mà chẳng mất”. Đặc biệt qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,... Phật Giáo phát triển đến đỉnh cao và nhiều tu sỹ đã trở thành Quốc Sư cho Vua, cố vấn và hoạch định các chương trình phát triển nước nhà như Khuông Việt, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,...Tình hình Phật Giáo hiện nay tại Việt Nam thì sao? Các báo cáo tổng kết cuối năm từ Trung Ương đến địa phương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đều ghi những nét son : Phật Giáo đang phát triển, có nhiều thành tịch vượt bậc hơn các năm trước, có nhiều đóng góp khởi sắcvà ảnh hưởng rất lớn đến xã hội....Chúng ta
05/12/2019(Xem: 4071)
Báo Tuổi Trẻ, thứ 7, 30/11/2019, đã có phản ứng với quy mô chưa từng có trong lịch sử hoạt động tờ báo về một vụ việc. Tựa bài chạy tít trên trang nhất lớn một cách kỷ lục “Đặt tên đường: cần thoáng!”, với việc thể hiện bảng tên đường Alexandre de Rhodes khéo léo và cũng lớn hiếm thấy trong một bức ảnh.
28/11/2019(Xem: 8413)
Tự do dân chủ nhân quyền song hành cùng với mậu dịch đầu tư kinh tế của xứ sở để duy trì trật tự và ổn định xã hội, như ánh sáng và không khí, không thể thiếu đối với mọi người sống trong không gian rộng mở của thế giới đang phát triển mọi mặt. Hồng Kông là cựu thuộc địa của Anh được trao trả cho Trung quốc năm 1997 mà người dân được bảo đảm các quyền tự do như:“một quốc gia, hai hệ thống” điều hành hầu duy trì và phát triển xứ sở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567