Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quan Điểm Của Đạo Phật Về Sát Sanh Và Chiến Tranh

13/10/201021:18(Xem: 5138)
Quan Điểm Của Đạo Phật Về Sát Sanh Và Chiến Tranh
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠO PHẬT VỀ SÁT SANH VÀ CHIẾN TRANH
ĐĐ.TS Thích Giác Hoàng

Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại!

Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.

I. Các yếu tố cần và đủ để đánh giá một hành động sát sanh

Theo quan điểm của Ngài Buddhaghosa (Phật Âm hoặc Phật Minh), nhà sớ giải lớn nhất của Phật giáo Thượng Tọa Bộ, muốn đánh giá mức độ bất thiện của hành động sát sanh cần dựa vào năm yếu tố:

1. Đối tượng: Con người, phi nhân, động vật bậc thấp hay động vật bậc cao.
2. Tác ý: hành động được đi kèm với nhận thức, ý thức, có suy nghĩ thận trọng và có mục đích.
3. Nhận thức: Nhận rõ đối tượng mình giết là loài gì.
4. Nỗ lực: Bất cứ hình thức nào dẫn đến cái chết
5. Kết quả: Con người chết là do hành động của mình.

Tiêu chí trên được áp dụng cho cách phán đoán mức độ phạm tội của các hàng Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni, đặc biệt là bốn trọng giới: dâm, đạo, sát, vọng. Tuy nhiên, chúng ta có thể áp dụng rộng rãi để đánh giá mọi hành động thiện hoặc bất thiện trong xã hội ngày nay. Cũng cần nói ở đây, theo ý của người viết chỉ cần bốn yếu tố là đủ rồi, không cần yếu tố thứ ba, vì yếu tố này đã thuộc vào yếu tố thứ hai. Đại Đức Thanissaro trong tác phẩm The Buddhist Monastic Code[i] cũng đồng ý quan điểm này. Vì nếu không nhận rõ đối tượng mình giết là ai, làm sao gọi là “tác ý” được? Do đó, chúng tôi chỉ trình bày 4 yếu tố thôi.

1. Đối tượng

Vì đối tượng bị giết khác nhau, nên dẫn đến tội khác nhau: Ví dụ, một vị Tỳ-kheo giết một một chúng sanh không phải là con người như một Dạ-xoa (Yakkha), một Naga, một loại quỷ (peta), thậm chí là một chư thiên (davata) thì phạm tội Thâu-lan-giá, chứ không phạm tội Ba-la-di (Pàràjika).

Một vị Tỳ-kheo cố ý giết một động vật thì bị xem như là phạm tội Ba-dật đề (Pacittiya) (giới 61) chứ không bị phạm Ba-la-di.

Trong Kinh có ghi một trường hợp: một vị Tỳ-kheo đào hố để sập bẫy người hay thú, nhưng nếu dã thú bị sập bẫy mà chết, ông chỉ phạm tội Ba-dật-đề (Pacittiya), ngược lại nếu người rơi vào đó mà chết, ông phạm tội Ba-la-di.

Nếu một vị Tỳ-kheo cố ý tước đoạt mạng sống của con người dù là “phá thai” như bằng cách sắp xếp chỗ mổ, cung cấp thuốc thang, khuyến khích hướng dẫn phá thai đều phạm tội Ba-la-di.

Nếu đối tượng bị giết hại là cha mẹ, là các bậc A-la-hán hoặc các bậc Thánh khác thì chịu tội cực nặng, nặng hơn ba-la-di, sau khi thân hoại mạng chung, do nghiệp ác chiêu cảm liền đi vào các cảnh giới đau khổ như các địa ngục Vô Gián.

2. Tác ý

Đây là điểm quan trọng nhất trong 5 yếu tố. Vì “tác ý” (cetanà) là quyết định có dụng tâm, có ý thức và có mục đích”. Đức Phật nói, “Này các Tỳ-kheo, chính tác ý là nghiệp” (Cetanaaha"m bhikkhave kamma"m vadaami).

Do đó, cũng cùng một hành động, kết quả giống nhau, nhưng tác ý khác nhau, dẫn đến nghiệp quả khác nhau. Ví dụ, một người làm nhà ở trên vô tình làm rớt đồ xuống người phía dưới, có thể dẫn đến tử vong. Trường hợp như vậy, không kết tội người ấy là kẻ giết người được. Một người tài xế, xe bị đứt thắng, vô tình làm chết cả mấy chục người. Kết cục là vậy, nhưng không thể kết tội tài xế ấy là giết người được!

Trong Luật tạng ghi lại câu chuyện một vị vì thương đồng học của mình mà giới thiệu thuốc để uống, nhưng rất tiếc cả hai đều không biết dược tính của thuốc ấy và bệnh trạng, thế là sau khi uống xong, người bệnh chết. Điều này cũng không thể kết tội vị kia là kẻ sát nhân được.

Trường hợp không cố ý giết, chỉ muốn làm bị thương hoặc đau đớn, nhưng không ngờ kết quả dẫn đến cái chết, thì chỉ phạm tội Ba-dật-đề (Pacittiya).

3. Nỗ lực

“Nỗ lực” ở đây không chỉ cho ý chí muốn giết, mà chỉ cho ý chí đó được thể hiện bằng hành động, ngôn ngữ. Bộ Samantapàsàdikà liệt kê 6 cách sau có thể dẫn đến chấm dứt đời sống của một chúng sanh. Đó là: (i) Chính tay người ấy hạ sát, (ii) xúi giục kẻ khác hạ sát, (iii) các loại vũ khí như tên, đạn, (iv) dùng thủ đoạn (như sập bẫy hoặc thuốc độc), (v) ma thuật hoặc bằng năng lực huyền bí[ii]. Nói chung, dù gián tiếp hoặc trực tiếp sát hại một con người đều phạm tội sát cả. Trường hợp giả như kẻ kia đáng lẽ bị tự tay mình giết, nhưng chưa kịp thực hiện được ý định của mình, kẻ kia lại tự vẫn, hoặc bị chết do ai giết, v.v… thì cũng không buộc người có ý định giết người kia là phạm giới sát “ba-la-di” .

Bộ Samanta Pàsàdika cho rằng một vị Tỳ-kheo xúi giục mọi người rằng: tại một địa điểm nào đó có một tướng cướp đang trú ẩn, nếu ai cắt đầu được tên tướng cướp kia thì được vinh dự, được nhiều vàng bạc, v.v… Nếu tên tướng cướp kia bị giết do lời xúi giục của vị Tỳ-kheo này thì vị Tỳ-kheo ấy cũng phạm tội Ba-la-di. Nói chung, khi thọ mạng của con người chưa hết, mà bằng cách hiểm độc nào đó khiến cho người kia chết, đều phạm tội Ba-la-di. Trong Vinita Vatthu[iii] ghi lại câu chuyện một tội phạm bị chính quyền chặt tay, chặt chân, sống trong sự đau khổ. Một vị Tỳ-kheo bảo với thân nhân của anh chàng kia rằng: các ngươi có muốn hắn chết sớm không? Nếu muốn thì cho hắn uống thuốc độc, thế là họ làm theo. Nếu vậy, vị Tỳ-kheo kia phạm Ba-la-di.

Nói về các nguyên nhân dẫn đến người tử vong thì vô số, nhất là trong chiến tranh, vô số thủ đoạn được thực hiện để đạt được mục tiêu “chiến thắng” của mình. Do đó, bất cứ phương tiện nào được sử dụng có chủ ý giết người thì người thực hiện đều phạm tội sát sanh cả.

4. Kết quả

Một khi đã có tác ý cố sát, biết rõ đối tượng mình sát là con người, dùng nhiều thủ đoạn, mưu mẹo để giết, nhưng kết quả khác nhau, thì luận tội cũng khác nhau.

Nếu có một Tỳ-kheo phạm tội giết người có chủ ý, như vậy vị ấy phạm Ba-la-di rồi, nhưng nếu đối tượng kia không chết liền, mà đau đớn, chết từ từ có phạm không? Chắc chắn là phạm ! Tuy nhiên, nếu người kia không chết, mà chỉ bị tổn thương đến sức khỏe, đến thể hình thì người kia không phạm Ba-la-di mà chỉ phạm Thâu-lan-giá (Thullaccaya). Nếu đã cố tâm, nhưng không làm cho người kia chết hoặc đau đớn gì thì phạm tội đột-kiết-la (dukkata).

Bốn yếu tố này là điều kiện không thể thiếu để nhận định mức độ tội lỗi “sát sanh”. Các nguyên tắc này đã được Ngài Buddhaghosa và Đại Đức Thanissaro triển khai rộng, đặc biệt về các giới trọng của hàng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.

II. Các cấp độ sát sanh

Sát sanh nói riêng hoặc làm một việc bất thiện khác nói chung, có mối liên hệ mật thiết với tác ý và và mức độ hiểu biết của đương sự. Do đó, để đánh giá một hành động sát sanh ở mức độ nào, cần phải chia thành nhiều cấp độ để dễ đánh giá. Theo Tiến sĩ Peter Harvey, giới sát có thể chia thành 5 cấp độ, đại lược như sau: (1) hành động không có tác ý, làm tổn hại đến côn trùng; (2) Biết rõ hành động ấy là ác, nhưng không kềm chế được vì các tâm bất thiện đang khống chế; (3) Một hành động bất thiện, nhưng không biết rõ đối tượng mình giết là ai; (4) Một hành động bất thiện khi có tác ý, biết rõ những gì đang làm và biết rõ hành động ấy là bất thiện; (5) Một hành động bất thiện có chủ ý, biết rõ những gì đang làm, nhưng không nhận ra đó là hành động sai lầm.[iv]

Theo người viết, thứ tự từ nhẹ đến nặng phải được sắp xếp lại sau: (1) hành động không có tác ý, làm tổn hại đến côn trùng; (2) Một hành động bất thiện, nhưng không biết rõ đối tượng mình giết là ai; (3) Biết rõ hành động ấy là ác, nhưng không kềm chế được, vì các tâm bất thiện đang khống chế; (4) Một hành động bất thiện khi có tác ý, biết rõ những gì đang làm và biết rõ hành động ấy là bất thiện; (5) Một hành động bất thiện có chủ ý, biết rõ những gì đang làm, nhưng không nhận ra đó là hành động sai lầm. Trong cách sắp xếp của người viết, trật tự chỉ thay đổi số 2 thành số 3 và số 3 thành số hai.

1. Hành động không có tác ý, làm tổn hại đến côn trùng

Trong cuộc sống tương đối này, chúng ta đi lại, làm việc làm sao tránh khỏi giẫm đạp, giết hại những côn trùng, hoặc sâu bọ. Mặc dầu chư Tỳ-kheo được cảnh tỉnh là phải chú tâm đến từng bước chân của mình để khỏi đạp phải côn trùng, sâu bọ, nhưng không thể nào khỏi một cách tuyệt đối. Ví dụ: khi sử dụng đèn, đặc biệt các loại đèn dầu trong một số chùa quê thì con thiêu thân cứ đâm đầu vào lửa. Cuốc đất trồng cây, chăm sóc hoa kiểng, khai khẩn nương rẫy, ép mía làm đường,v.v… như ở các chùa miền quê Việt Nam, làm sao không sát hại côn trùng!

Các trường hợp bị bắt buộc như trên hoặc trong trường hợp tâm trí của can phạm bất thường, bị điên, bị khùng thì vị ấy không bị kết tội là “Ba-la-di” (Trong nhiều bộ Luật).

2. Một hành động bất thiện, nhưng không biết rõ đối tượng mình giết hại

Ví dụ, có người đi săn chỉ giương cung bắn chơi, không ngờ lại giết người, hoặc khi đi săn, chủ ý giết thú chứ không giết người, nhưng kết quả là “giết người”. Trong trường hợp như vậy, người giết nhầm kia không thể bị kết tội là kẻ “sát nhân” được. Cũng tương tự cho các vị xuất gia, tùy theo trường hợp mà xử trị.

3. Biết rõ hành động ấy là ác, nhưng không kềm chế được, vì các tâm bất thiện khống chế

Trường hợp này khi người sát hại biết việc làm của mình là tổn thương đến người khác, là vi phạm đạo đức xã hội,v.v… nhưng không thể làm chủ được các bản năng xung động như tham lam, sân hận đang phác tác dữ dội trong tâm. Có người làm xong rồi đi tù cũng chịu, còn thề độc là chết đọa địa ngục cũng cam lòng, v.v… Các hạng người này nóng nảy nhất thời, không kịp suy nghĩ chín chắn, cho nên tội nhẹ hơn người làm một việc mà biết rất rõ hành động đó là ác độc, nhưng vẫn cứ thực hiện để trả thù cho một chuyện gì đó. Hạng người này tuy bên ngoài có vẻ hơi ác, nhưng thật ra họ không có tâm ác độc sâu hiểm như hai cấp độ sau.

4. Một hành động bất thiện khi có tác ý, biết rõ những gì đang làm và biết rõ hành động ấy là bất thiện

Trường hợp này cũng có thể đi theo chiều hướng tốt hoặc chiều hướng xấu. Nếu đã biết rõ đó là hành động xấu, đem lại kết quả xấu mà vẫn làm, chứng tỏ con người có lập trường, có quan điểm độc lập, có bản lĩnh, nhưng khó tiến bộ về phương diện đạo đức và tâm linh vô cùng. Tuy nhiên, họ cũng có thể tiến bộ, vì đã nhận ra đó là hành động xấu, có thể đem đến nghiệp quả xấu cho mình, cho nên các tâm niệm hối hận có thể xuất hiện. Chính nhờ các tâm niệm hối hận xuất hiện mà họ có thể quay đầu hướng thiện một cách dễ dàng.

5. Một hành động bất thiện có chủ ý, biết rõ những gì đang làm, nhưng không nhận ra đó là hành động sai lầm

Trường hợp này được cho là tệ hại nhất vì nó kết hợp với vô minh. Mặc dầu thông thường chúng ta dễ đi đến kết luận là hành động này vô tội, vì họ làm nhưng không biết đó là một hành động bất thiện, cứ tưởng rằng đó là đúng. Giống như một người gây tội giết người mà họ không biết hành động đó sẽ dẫn đến tù chung thân hoặc bị xử tử, vì họ không biết được luật pháp !

Kinh Na-tiên Tỳ-kheo [v]cho rằng kẻ trí làm điều dữ ít bị tai vạ hơn người ngu. Ngài Na-tiên đưa ra ví như hai người cầm một khúc củi cháy đỏ, người không biết nó nóng sẽ bị phỏng nhiều hơn người biết rõ nó nóng như thế nào. Vì người trí, khi phạm một lỗi lầm, có thể khởi lên tâm ân hận, ăn năn hối lỗi, hoặc làm các việc phước thiện để bù lại, còn người ngu thì không biết đó là tội, thế là làm hoài, các nghiệp ác làm nhân làm duyên cho nhau, thế là mãi miết làm ác và chịu quả báo đau khổ triền miên!

III. Phật giáo và Chiến tranh

1. Quan điểm của Phật giáo về chiến tranh

Nói một cách tổng quát, Phật giáo không chấp nhận chiến tranh dưới bất cứ hình thức nào, dù đó là chiến tranh dưới danh nghĩa gì. Vì chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, là gieo rắt sự nghèo nàn, tật bệnh, đói khát cho cả hai: chủ chiến và bị chiến. Chưa từng thấy có một đoạn nào Kinh điển nào trong Phật giáo tán thưởng đánh phá lẫn nhau, dù đó là đánh với danh nghĩa “cứu khốn phò nguy” hay danh nghĩa “bảo vệ quốc gia”. Như chúng ta thấy, chính dòng họ của đức Phật gần như gặp phải nạn diệt chủng, thế mà đức Phật không dùng thần thông để đánh bại kẻ thù, cứu lấy giòng tộc! Khi vua Tỳ-lưu-ly đem quân đánh phá thành Ca-tỳ-la-vệ để trả thù cái nợ xỉ nhục của ông khi trước, đức Phật đã ba lần trưa nắng ra tận biên ải để khuyến hóa vua Tỳ-lưu-ly cũng như để cản bước tiến của đoàn quân thiện chiến của Tỳ-lưu-ly. Nhưng kết quả ra sao? Bất thành! Vua Tỳ-lưu-ly đã làm cỏ dòng họ Thích-ca. Đặt trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta đã nghĩ rằng chúng ta phải có nhiệm vụ bảo vệ giang san, xã tắc, đánh bật kẻ thù, v.v…. và viện dẫn bao nhiêu là lý do để bào chữa hành động của mình. Nhưng đức Phật thì khác, với Phật nhãn Ngài biết rõ đâu là nhân, đâu là duyên của chiến tranh đó. Ngài còn chỉ trích các Bà-la-môn đã thọ nhận tín thí cúng dường mà còn bàn đến chiến sự (Kinh Phạm Võng, số 1, thuộc Trường Bộ Kinh). Lại nữa, trong Giới của hàng Tỳ-khưu (số 48 thuộc Ba-dật-đề) không được xem diễn binh tập trận. Qua đó, chúng ta thấy thái độ của đức Phật, không giống như các vị giáo chủ khác, Ngài không hề quan tâm đến chính sự. Nói như vậy, không có nghĩa là cả cuộc đời đức Phật không có đối mặt đến những vấn đề chính trị, tội phạm, chiến tranh. Xin đưa ra hai dẫn chứng. Một lần dòng họ Sakya (Thích-ca) và dòng họ Koliya chuẩn bị đánh nhau vì tranh chiếm dòng nước. Ngài nhận thấy nhân duyên Ngài có thể hóa độ được, nên Ngài đã đích thân đến phân giải, cuối cùng hai bên đều hòa thuận và sử dụng chung dòng nước[vi]. Trường hợp thứ hai, khi vua A-xà-thế (Ajàtasattu) muốn cất binh đánh nước Vajjì, liền sai đại thần Vassakàra (Vũ-xá) đến thỉnh vấn đức Thế Tôn, đức Phật không trả lời trực tiếp, mà chỉ hỏi tôn giả A-nan (Ànanda) về truyền thống tốt đẹp của dân Vajjì có được gìn giữ không? Qua đó, đại thần Vassakàra đã hiểu được yếu chỉ của đức Thế Tôn muốn nói. (Kinh Đại-bát Niết-bàn, số 16, thuộc Trường Bộ)

Trở lại vấn đề mà nhiều người thường đặt câu hỏi: Trường hợp các cuộc thánh chiến của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo thời Trung cổ và cận đại, các cuộc thánh chiến xâm lăng thuộc địa của Hồi giáo ở vùng Trung Á và Tây Á, hoặc các cuộc xâm lăng của các Đế quốc thuộc Thiên Chúa giáo để mở mang nước chúa, họ có tội không? Vì họ nghĩ rằng họ làm vì chúa, họ đâu làm vì bản thân họ, cho nên sẵn sàng hy sinh thân mình. Theo lời Phật dạy, gieo ác nhân thì gặt ác quả. Do đó, họ mãi bị cộng nghiệp chiến tranh, giết hại lẫn nhau, oan oan tương báo, không biết khi nào mới chấm dứt được.

2. Quan điểm của Phật giáo về “lòng yêu nước”

Có một số trường hợp buộc phải giết người, họ gọi là “tội ác cần thiết” (necessary evil), như giết kẻ thù để bảo tồn quốc gia, hành động đó được xếp vào loại nào? Họ vì yêu nước mà sẵn sàng hy sinh thân mình, lại bảo đó là một hành động bất thiện sao? Họ có thể là những con người lương thiện, đạo đức, yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc, họ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, lại gán cho họ là những kẻ ác nhân thì có lẽ là không công bằng! Họ giết giặc nhiều chừng nào thì chính thể đó trao huân chương nhiều chừng ấy, vậy theo quan điểm của đạo Phật thì sao? Theo đạo Phật, có rất nhiều cấp độ để chúng ta đánh giá hành động đó là thiện hay ác. Chứ chưa hẳn giết được nhiều giặc là hành động đáng khen ngợi, hoặc chưa hẳn trốn tránh nhiệm vụ của mình là hành động đáng tán thưởng. Tất cả phải tùy thuộc tâm của người ấy để đánh giá. Vì cùng ra trận để đánh kẻ thù, để bảo tồn quốc gia, nhưng tâm niệm khác nhau dẫn đến kết quả nghiệp báo khác nhau. Một người thực hiện một hành động vì mọi người thì kết quả khác xa so với một người làm để thỏa mãn tính hiếu sát của mình. Biết bao nhiêu người không nỡ hạ sát kẻ thù khi thấy kẻ thù đang thất thế, đớn đau. Cũng biết bao nhiêu người thỏa mãn, khoái trá khi thấy kẻ thù đang bị khổ sở, hành hạ!. Chính những tâm niệm này là nền tảng để chúng ta đánh giá cùng một hành động mà kết quả khác hay giống nhau.

Lại nữa, giết người thì phải đền mạng, đó là luật pháp của hầu hết mọi quốc gia. Còn trường hợp giết người lại được thưởng, đó là giết mấy tên trùm mafia, những tên tướng cuớp khét tiếng, đây cũng là điều khuyến khích của mọi quốc gia. Nếu chúng ta chỉ xét trên hành động, mà không xét về mục đích, động cơ thì mấy ông quan Tư Khấu thời xưa, nay là ban Tư Pháp sẽ là những người giết người nhiều nhất. Vì gần như ngày nào họ cũng phải dùng đến nhiều biện pháp để tra khảo, như đánh đập, tra tấn các tội nhân. Thậm chí phải giết bỏ, như vậy họ đều phạm tội sát sanh hay sao ? Không phải vậy, mỗi người có mỗi nhiệm vụ riêng, người làm quan phán xét theo luật pháp phân minh, góp phần tạo dựng xã hội được an bình, được thái hoà, thì rất có phước. Người làm lính, hết lòng bảo vệ biên cương lãnh thổ quốc gia cũng có phước. Đây là đạo đức nhiệm vụ của một người mà buộc phải chu toàn.

Nói như vậy, không có nghĩa là chúng tôi khuyến khích chiến tranh để tiêu diệt các tên khủng bố, hay tiêu diệt các tên trùm mafia. Như trên đã nói chiến tranh là đồng nghĩa với tội ác, mặc dù chúng ta thực hiện chiến tranh với một mục đích tốt đẹp cho mấy, nhưng không làm sao tránh khỏi tổn thương đến những đứa trẻ vô tội, con phải xa cha, vợ phải xa chồng, các bà mẹ sẽ vĩnh viễn không còn được trông thấy mặt con. Sau khói lửa chiến tranh, lưu lại bao tàn tích của tật nguyền, đói khát, bệnh hoạn v.v… nói không thể hết ! Chính vì vậy, các chính sách hoà giải, hiệp ước là chính sách tốt nhất mà đạo Phật hằng kêu gọi.

3. Vài trường hợp sát sanh khi đức Phật còn đang tu hạnh Bồ-tát

Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh (số 156) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có trình bày câu chuyện tiền thân của đức Phật. Câu chuyện này có thể là một trong những dẫn chứng phù hợp cho trường hợp này. Thuở xưa lúc đức Phật Thích-ca còn đang trong quá trình tu tập, lúc bấy giờ Ngài buộc phải giết một kẻ làm trinh thám cho 500 tên cướp để ngăn chặn cuộc tấn công của 500 tên cướp này, mặc dầu người do thám đó đã từng là bạn của Ngài.

Một câu chuyện khác được đề cập trong Huệ Thượng Bồ-Tát Vấn Đại Thiện Quyền Kinh (số 345), lúc bấy giờ đức Phật còn đang tu hạnh Bồ-tát, Ngài là thuyền trưởng của đoàn thương buôn 500 người đã giết một tên tướng cướp để cứu lấy 500 thương nhân đó. Ngài nghĩ rằng nếu vì giết một tên cướp này mà Ngài phải vào địa ngục, Ngài cũng sẵn lòng, vì điều đó còn tốt hơn để chúng giết hại biết bao nhiêu người! Trên thực tế, sau khi thân hoại mạng chung, Ngài được tái sanh lên cảnh giới chư thiên. Sau này Ngài thành Phật cũng chịu quả báo, nhưng không phải quả báo mất mạng mà chỉ giẫm gai trên đường !

4. Lịch sử một vài nước Phật giáo với chiến tranh

Trường hợp vì sự tồn vong của quốc gia mà giới sát có thể được xem là nhẹ. Trường hợp này có thể lấy điển hình ở Việt Nam vào thế kỷ XII, nhà Trần ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông lừng lẫy, oai hùng dưới sự lãnh đạo tài tình của những người vừa là Phật tử vừa là những người cầm vận mệnh quốc gia. Nếu chúng ta cứ khư khư chấp chặt thì nhân dân Việt Nam có lẽ đã bị vó ngựa Mông Cổ giẫm nát rồi, chưa hẳn có một đất nước độc lập như ngày nay. Trường hợp như vậy, người cầm vận mệnh quốc gia phải đặt đại thể dân tộc lên hàng đầu, lấy nhiệm vụ lãnh đạo quốc gian đặt lên trên đạo đức bản thân. Do đó, cứu lấy nhân dân thoát khỏi ách xâm lược, đô hộ là phước đức, chứ không phải tội lỗi. Nếu chúng ta so sánh trận đánh của người Việt Nam xưa kia với trận đánh của Mỹ với Afghanistan vừa rồi, chắc chắn số người thiệt mạng cả Trung Hoa và Việt Nam hồi đó hơn không biết bao nhiêu lần số người thiệt mạng vừa rồi. Phật giáo không kết án những trận đánh như vậy, cũng không tán thán, mà tin tưởng có nghiệp báo vay trả nhiều đời nhiều kiếp.

Thế kỷ thứ XI dưới triều vua Langdarma, Phật giáo Tây Tạng bị pháp nạn. Nhà vua này vì nghe lời dèm pha của đạo Bön, ra lệnh tiêu diệt Phật giáo, phá chùa, giết Tăng. Hơn hai năm sau, có một vị Lạt-ma tên là Palgyi Dorjé lẻn vào cung ám sát vua rồi trốn đi. Nhờ đó Phật giáo không bị tiêu diệt hoàn toàn. Như vậy, người giết nhà vua đã hủy Phật, phá Tăng đó có phạm tội sát hay không? Theo nhân quả thông thường thì dễ đi đến kết luận là có, nhưng chưa hẳn, vì động cơ của người vị Tăng kia đâu phải giết người vì các tâm sở bất thiện như tham lam mà giết, sân hận mà giết, không thỏa mãn mà giết, mà giết chỉ vì động cơ bảo vệ chân lý, bảo vệ đời sống tâm linh cho mọi người. Nhân quả phức tạp trùng trùng, chứ không đơn giản là “gieo nhân nào gặt quả nấy”, do đó chưa hẳn vị Tăng ấy bị đọa vào các cảnh giới khổ đau như thông thường chúng ta nói. Chúng ta có thể tin được câu chuyện đức Phật trong thời quá khứ đã từng giết một tên cướp để cứu lấy 500 thương nhân, không phải vì thế mà đọa vào cõi xấu, ngược lại được sanh lên chư thiên, nhưng dư nghiệp cũng không tránh khỏi, đến khi thành bậc Chánh Đẳng Giác rồi mà còn giậm phải gai nhọn. Trường hợp vị Tăng kia cũng vậy, nếu vì Chánh pháp trường tồn ở nhân gian hoặc vì an ninh của quốc gia mà buộc phải hạ sát một số người nào quá ác độc, theo thiển ý của người viết thì phước đức nhiều hơn tội.

Lại nữa, câu chuyện của Ngài Gunavarman (Cầu-na-bạt-ma), khoảng thế kỷ thứ V khi đến truyền giáo ở vùng Java, nay là Indonesia cũng là một dẫn chứng tốt để chúng ta học hỏi. Lúc bấy giờ Java bị vua lân bang đánh phá, nhà vua hỏi tôn giả Gunavarman có nên đánh trả không, vì sợ rằng điều đó trái với giới luật nhà Phật ? Tôn giả Gunavarman đã trả lời là nhà vua nên thực hiện nhiệm vụ của mình, nhưng khởi tâm đại bi thương xót mọi loài, bất đắc dĩ mới dùng hạ sách này[vii].

***


Tóm lại, Phật giáo không chủ trương sát sanh để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân cũng như quyền lợi cho một nhóm hoặc cho dân tộc mình. Tuy nhiên, trong trường hợp cần phải bảo vệ dân tộc, bảo vệ chân lý thì các hình thức bạo động với thiện ý được cho phép, nhưng chỉ là giải pháp nhất thời, chứ không phải là giải pháp tối ưu. Đạo Phật là một đạo tôn trọng sự sống của mọi chúng sanh, không riêng gì con người. Do đó, bất cứ hình thức nào như tự mình giết, hoặc bảo người khác giết, hoặc thấy giết mà đem lòng vui đều không được chấp nhận đối với một Phật tử.

Trái đất này được xanh tươi hay không, nhân loại được hạnh phúc không, tuỳ thuộc rất lớn vào mỗi người. Trong vòng sinh tử vô tận, vô số những người thân của ta, nay trở thành thân hoặc sơ, thậm chí đứng ở thế hai chiến tuyến đối lập. Chiến tranh là đỉnh cao của thù hận, mâu thuẫn, sát sanh, tranh giành tài sản, v.v…. Đây là một nghiệp tích luỹ của tội ác và bạo tàn. Do đó, mỗi Phật tử chúng ta nên ăn chay, hoà thuận, biết sống san sẻ, thương yêu kẻ khác là gieo nhân hoà bình, đem lại nguồn an vui và thịnh lạc cho mỗi người và cho toàn thể xã hội. Được như vậy thì quý biết bao!

“Hận thù diệt hận thù
Đời này không có được
Từ bi diệt hận thù
Là định luật ngàn thu”
(Kinh Pháp Cú, số 5)

ĐĐ.TS Thích Giác Hoàng
(Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay)

 

Chú thích

[i] Tác phẩm này được in tại Mỹ, do nhà xuất bản Library of Congress Cataloguing-in-Publication Data Pending tái bản lần thứ hai, năm 1996), trang 69. Một vài ý, chúng tôi có tham khảo cuốn sách này.

[ii] Trong cuốn The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu (in tại Mỹ, do nhà xuất bản Library of Congress Cataloguing-in-Publication Data Pending tái bản lần thứ hai, năm 1996), trang 69 ghi là có 6 trường hợp: Một là chính người đó giết bằng tay, chân, hoặc các loại vũ khí như dao, gậy, dùi cui, v.v…Hai là các hình thức ném, bắn như ném đá, bắn tên, hoặc là bắn súng. Ba là vận dụng quỷ kế, như sập bẫy, bỏ độc, v.v… Bốn là tà thuật như kêu gọi ác quỷ giết người, v.v…Năm là dùng năng lực tâm linh của mình để giết. Sáu là khuyến khích người khác giết người. Một số ý khác, chúng tôi cũng có tham khảo cuốn sách này.

[iii] Tác phẩm này chưa được dịch sang tiếng Việt và tiếng Anh, tài liệu này được rút ra từ cuốn The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu đã được giới thiệu ở trên.

[iv] Dựa theo cuốn An Introduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues. Cambridge: Cambridge University Press, 2000, trang 53-55.

[v] Xem ấn bản Internet có đăng trên trang nhà Buddhasasana do Binh Anson biên tập.

[vi] Câu chuyện này có thể coi trong nhiều nơi, đặc biệt bản sớ giải Kinh Pháp Cú bằng tiếng Anh Dhammapada Commentary (tr. E. W. Burlingame) Buddhist Legends, 3 vols., Harvard Orientation Series, Cambridge, Mass., Harvard University Press, 1921; repr. London, PTS, 1979.

[vii] Câu chuyện trên được P.V. Bapat ghi trong cuốn 2500 Years of Buddhism (Phật Giáo 2500 Năm) in tại Delhi, Ministry of Information and Broadcasting, Government of India, 1st Ed. 1959, trang 83. Câu chuyện trên có thể xem trong Thần Tăng Thiên Trúc do Đại Đức Thích Hằng Đạt biên soạn (phần IV) có đăng trên trang nhà Đạo Phật Ngày Nay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/05/2017(Xem: 5875)
Nếu những ai yêu thích thể loại nghệ thuật dân tộc Hát Bội thì hẳn biết có bốn thể loại được chia ra theo các cụm chủ đề; đó là Tuồng Đồ, Tuồng Pho, Tuồng Truyện và Tuồng hài dân gian. Ngoài Tuồng Hài Dân Gian còn lại ba thể lọai trên ai cũng đều biết tích truyện lẫn kết cuộc vở diễn, thậm chí biết luôn từng tính cách nhân vật khi họ vửa xuất hiện bên phải cánh gà sân khấu qua gương mặt hóa trang và bộ y phục đang mặc trên người. Ấy vậy mà vẫn làm say đắm biết bao nhiêu khán giả nhiều thế hệ qua chưa hề biết nhàm chán. Bộ môn nghệ thuật Hát Bội là viên ngọc quý của dân tộc bởi nó đã đi trước mọi thời đại do tính chất đặc thù mà phương Tây gọi là "Sân Khấu Ước Lệ", một sân khấu chọn cái tiêu biểu để nói cái bao quát, vượt ra xa mấy chục mét vuông của sàn diễn.
31/05/2017(Xem: 3902)
"Hiến chương" là các luật lệ, quy định mang tính cơ bản của một tổ chức . Quy định những nguyên tắc và thể lệ chung trong một tổ chức... 1.- Hiến chương của Phật giáo là cương lĩnh của một Giáo hội, quy định quyền hạn, trách nhiệm cho các ban ngành từ Trung ương xuống đến cấp hạ tầng. Quốc gia có Hiến pháp, Tôn giáo có Hiến chương, tổ chức có nội quy, Tăng đoàn có thanh quy giới luật...Tất cả các thành viên nằm trong khuôn khổ của tổ chức đều phải tuân thủ chấp hành nghiêm túc. Giáo hội trang nghiêm - thanh tịnh -ổn định và phát triển đều nhờ vào việc thực thi nghiêm túc, đúng, trong khuôn khổ của Hiến chương và Quy chế hoạt động.
28/05/2017(Xem: 6530)
Bà hiện sống trong một căn phòng sáng sủa và thoáng mát, nơi bà có thể đọc, lướt mạng và vẽ lên những điều trái tim bà nói. Bà tự hào rằng cậu con trai duy nhất và ba cháu đều đã hoặc đang theo học sau đại học. Bà Lê Thi hiện đã hoàn thành hơn 2.000 bức tranh (mà bà thích giữ lại hơn là bán) và viết khoảng 50 cuốn sách cũng như hồi ký. Nhưng bà vẫn không có ý định dừng lại. Dự án lớn tiếp theo của bà là phần tiếp theo của cuốn sách Vòng xoáy cuộc đời.
17/05/2017(Xem: 11232)
Người tu cần sự minh triết và cẩn trọng trong khi tiếp nhận Phật pháp, để phân biệt đúng sai và lệch lạc. Hãy xem đoạn văn sau đây của người sáng lập Cư xá Phật giáo và Hội Phật giáo Luân-đôn (Christmas Humphreys, The Buddhist Way of Life, p. 100):
20/04/2017(Xem: 4982)
Tinh hoa văn hóa dân tộc đất nước Việt nam chính là truyền thống đạo đức là nét đẹp tinh thần của cha ông ta ngày xưa. Nay đã biến dạng quá nhiều bởi do thiếu hiểu biết và trình độ nhận thức về văn hóa đạo đức lành mạnh. Di sản tinh thần của một dân tộc thể hiện rõ nhất qua các lễ hội văn hóa được thông qua các vị anh hùng xen lẫn tín ngưỡng dân gian. Các anh hùng dân tộc là thuốc thử màu bộc lộ tâm lý của một dân tộc. Qua cách chọn lựa và tôn vinh các anh hùng, các dân tộc tiết lộ những giá trị mà mình ôm ấp. Nếu chúng ta thay đổi cách nhận định anh hùng dân tộc thì đồng thời chúng ta cũng thay đổi các giá trị nền tảng của xã hội ta, chúng ta sẽ thay đổi cách suy nghĩ và hành động và do đó thay đổi số phận của chúng ta ngày càng sống tốt hơn.
16/04/2017(Xem: 4786)
Đạo Phật không phải là ngẫu nhiên luận rồi vô trách nhiệm đối với những hành vi của mình, hay cho rằng mọi chuyện rủi ro, may mắn, bất ngờ đều do bổng dưng, khi không, tự nhiên mà có. Khái niệm về số mệnh hay số phận là quan niệm của các trường phái triết học như Thần ý luận, Đa thần giáo, Túc mệnh luận, Định mệnh luận và Thiên mệnh. Sự sống trên thế gian này với thiên hình vạn trạng, phức tạp, đa năng, đa dạng, muôn hình muôn vẻ, khi thế này lúc thế khác và vô cùng mầu nhiệm.
26/03/2017(Xem: 4027)
Quý vị và các bạn đang theo dõi bài viết của Thầy Nguyễn Xuân Thu, Giáo sư giảng dạy ở Úc, một tác giả quen thuộc của Báo điện tử Giáo dục Việt am. Ở bài viết này, với kinh nghiệm của mình, ông có quan điểm về khung cơ cấu giáo dục quốc dân trong bối cảnh chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục. Tòa soạn trân trọng gửi tới bạn đọc bài viết này. Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân (Khung cơ cấu) được ban hành bằng Quyết định số 1981/QĐ-TTg, ngày 18/10/2016 [1]. Đây là một cái khung hy vọng sẽ là nền tảng cho nỗ lực cải tổ giáo dục Việt Nam nhằm đưa đất nước đến một trình độ phát triển ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
26/03/2017(Xem: 4215)
Chả ai lạ gì, trong cuộc sống, xã hội ngày càng tiến bộ thì thế giới hoang tưởng ngày càng rộ nở.Hoang tưởng thuộc dạng tâm thần phân liệt. Có những hoang tưởng đưa đến điên loạn, cũng có những hoang tưởng biến kẻ đó thành người kiệt xuất, thiên tài, đóng góp cho xã hội nhiều công trình tuyệt trác.
25/03/2017(Xem: 6680)
Còn nhớ nửa đầu thập niên 90 thế kỷ trước, mỗi khi có tác phẩm nào nội dung liên quan đến Phật giáo thì phía bộ phận quản lý đều yêu cầu tác giả hoặc nhà xuất bản phải trình qua phía văn hóa, hoằng pháp Phật giáo để có phê duyệt rõ ràng, thì mới được cấp giấy phép thực hiện và phát hành rộng rãi. Quy định chặt chẽ ấy đã giúp và hỗ trợ Phật giáo rất nhiều trong việc hạn chế được những sai phạm vô tình hay hữu ý hiểu sai về Phật giáo. Việc làm tích cực này hiện nay đã không còn thấy nữa. Vì vậy từ khi thấy có xuất hiện quyển sách "Tranh Nhân Quả" do Sư Thầy Thích Chân Quang biên soạn
08/02/2017(Xem: 11456)
Xưa nay KINH DỊCH thường được xem là sáng tác của Trung Hoa. ngộ nhận này kéo dài hơn 2500, nay phải được thay đổi cách nhìn để phù hợp với sự thực của lịch sử. KINH DỊCH LÀ SÁNG TÁC CỦA VIỆT NAM, TRUNG QUỐC CHỈ CÓ CÔNG QUẢNG DIỄN VÀ PHỔ BIẾN.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567