Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

NI GIỚI ĐÀI LOAN VẬN ĐỘNG HUỶ BỎ BÁT KỈNH PHÁP - Thích Giải Hiền - Du học tăng tại Đài Loan

06/09/201013:22(Xem: 4463)
NI GIỚI ĐÀI LOAN VẬN ĐỘNG HUỶ BỎ BÁT KỈNH PHÁP - Thích Giải Hiền - Du học tăng tại Đài Loan

Thich Giai Hien6
NI GIỚI ĐÀI LOAN

VẬN ĐỘNG HUỶ BỎ BÁT KỈNH PHÁP

Thích Giải Hiền
Du học tăng tại Đài Loan
Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ "Bát Kỉnh Pháp".

Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.

1) Xã hội phát triển theo xu hướng nam nữ bình quyền.

Đài Loan đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng phát triển từ phương tây, do đó trong xã hội ngày nay quyền bình đẳng luôn được phụ nữ Đài Loan vận động và tranh đấu. Phong trào nữ quyền ở Đài Loan đã đạt được những thành tựu nhất định. Nữ giới dần có địa vị cao trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan điểm "nam nữ bình quyền" đã được tuyệt đại đa số quần chúng ủng hộ và nó cũng tác động vào sau cánh cổng chùa đến tầng lớp ni giới của Đài Loan.

2) Chế độ quân bị ảnh hưởng đến sự phát triển về nhiều mặt của chư tăng.

Đài Loan luôn ở trong tư thế sẵn sàng có chiến tranh nên Luật nghĩa vụ quân sự (quân dịch) được áp dụng chặt chẽ đến tất cả nam giới. Nam công dân Đài Loan đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự (đi lính hai năm) và nghĩa vụ này không từ khước bất kỳ ai kể cả tu sĩ. Do vậy tăng sĩ Đài Loan phải đi lính và trong hai năm đi lính ấy tăng sĩ phải rời chùa (xem như hoàn tục) nên đã ảnh hưởng đến việc tu tập lẫn nghiên cứu. Trong thời gian tăng sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự thì ni chúng vẫn tiếp tục được đào tạo hoặc tu tập ở các chùa và Phật học viện. Điều này làm cho ni chúng có tâm lý cho rằng mình giỏi hơn, vượt trội hơn chư tăng về mọi mặt.

3) Tông phái độc lập phát triển – vai trò của giáo hội không có.

Các tu sĩ ở Đài Loan đa phần lớn tuổi rồi mới xuất gia (ni giới cũng vậy) cho nên khi chưa xuất gia họ có trình độ thế học và tiếp thu những tư tưởng của xã hội rất sâu (đương nhiên là cả tư tưởng "nam nữ bình quyền"). Lại nữa, khi vào xuất gia vì tổ chức Phật giáo Đài Loan là tổ chức theo tông phái mà không phải là tổ chức theo Giáo hội. Nên các tông phái độc lập phát triển có qui luật riêng, các tu sĩ sau khi thế phát (cạo tóc) họ nhanh chóng được thọ giới tỳ kheo, tỳ kheo ni (thậm chí chỉ cần sau mấy ngày cạo tóc thôi). Những vị này vận dụng tư tưởng thế học vào trong thiền môn rất lớn, và họ cũng cảm thấy rằng họ không cần, không nhất thiết phải tuân thủ "Bát Kỉnh Pháp" nên đã ủng hộ mạnh mẽ phong trào này.

Phật giáo Đài Loan kế thừa truyền thống tông phái của Phật giáo Trung Quốc và phát triển theo xu hướng độc lập, riêng biệt. Trong khi đó vai trò của Giáo hội Phật giáo Đài Loan không phải là tổ chức duy nhất mà chỉ là tổ chức trên danh nghĩa không có thực lực đối với cả cơ cấu tổ chức của bản thân Phật giáo Đài Loan vì mỗi tông phái có qui tắc thanh qui riêng, tổ chức tăng đoàn, giáo dục và hoằng pháp riêng. Trong tổ chức tăng đoàn của mỗi tông phái những chức vụ quan trọng như hoằng pháp, ngoại giao, thư ký, thị giả của các tông chủ đều do ni giới nắm giữ. Thậm chí trong các đại giới đàn của các tông phái có một vài tông phái trực tiếp hay gián tiếp phủ nhận "Bát Kỉnh Pháp" nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển tăng đoàn mà đa phần là ni giới của các tông phái.

Mặt khác, trong quá trình phát triển các tông phái ở Đài Loan, có tông phái do ni giới sáng lập và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành công nhất định trong xã hội. Điều này đã ảnh hưởng đến ni giới và là nguyên nhân thúc đẩy họ đòi quyền bình đẳng với chư tăng về mọi mặt, dần dần họ dùng mọi biện pháp phương cách để vận động xã hội lẫn nội bộ giới Phật giáo chính thức tuyên bố hủy bỏ "Bát Kỉnh Pháp".

4) Vài nhận định đối với phong trào vận động huỷ bỏ "Bát Kỉnh Pháp" của ni giới Đài Loan.

Không phải tất cả giới Phật giáo đều ủng hộ phong trào này nhưng Đài Loan là xã hội tự do và đa nguyên nên mọi tiếng nói đều có được không gian tồn tại nhất định của nó trong xã hội. Hơn nữa, Phật giáo Đài Loan phát triển theo hình thức tông phái, Giáo hội chỉ là tổ chức tượng trưng về danh nghĩa, do vậy sự ủng hộ hay phản đối của một vài tông phái nào đó không có được sự thống nhất hoàn toàn của cả giới Phật giáo Đài Loan.

Việc vận động hủy bỏ "Bát Kỉnh Pháp" của ni giới Phật giáo Đài Loan phần nào đó đã phản ảnh một thực tế trong nội bộ Phật giáo Đài Loan, đó là : thế lực của ni giới Đài Loan đang dần lớn mạnh và nắm thế chủ đạo trong mọi mặt của Phật giáo Đài Loan; Phật giáo Đài Loan phần nào đang bị thế tục hóa bằng những tư tưởng thế học của tăng đoàn (ni giới lẫn chư tăng).

Phong trào này sẽ ảnh hưởng thế nào đến ni giới Việt Nam khi mà hiện tượng ni giới Việt Nam đang du học ở Đài Loan với số lượng không ít, các vị này tương lai có thể là hạt nhân vận động hủy bỏ "Bát Kỉnh Pháp" ở Việt Nam hay không ? Cũng là điều mà Giáo hội và ni bộ cần suy tư ngay từ bây giờ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 4671)
"Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.
15/10/2010(Xem: 5230)
Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.
13/10/2010(Xem: 6044)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
02/10/2010(Xem: 5284)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS Éditions Brepols, Paris. 1996 Người dịch : VĨNH AN nhà XUẤT BẢN: THIỆN TRI THỨC, 2003 Một Viễn Cảnh Phật Giáo Về Những Lời Dạy của Đức Giêsu
02/10/2010(Xem: 5668)
Trong bài tham luận ngắn này, người viết giới thiệu khái quát về truyền thống khất thực như một pháp tu trong Phật giáo, thông qua đó phân tích hiện tượng khất thực phi pháp của những kẻ ăn xin giả dạng người tu, làm hoen ố truyền thống tâm linh của Phật giáo. Bên cạnh đó, người viết xin đề xuất phương án ngăn chận tệ nạn này. Đồng thời, đề nghị giải pháp ngăn chận tình trạng “khách không mời mà đến” làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của các ngày kỷ niệm tổ sư khai sáng các chùa và các lễ cúng dường trai tăng nói chung.
30/09/2010(Xem: 6471)
Hân hạnh gửi đến quý vị một vài ý nghĩa phiến diện về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với sự cộng tác của quốc tế, đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử hình dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền xét xử tôi và phán xét những người đã hành động theo lương tâm.
08/09/2010(Xem: 4962)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc...
04/09/2010(Xem: 12360)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 4353)
Vì họ nghĩ rằng, Bát kỉnh pháp là điều khoản bất công với Ni giới, nếu chấp nhận sự có mặt của Bát kỉnh pháp trong hệ thống kinh luật, tức là chấp nhận đức Phật không có từ bi, thiếu tuệ giác và chúng ta tự đào thải mình. Rồi qua một số lý luận không có cơ sở khoa học vững chắc, họ suy đoán rằng các điều khoản trong Bát kỉnh pháp được hình thành là do sự mâu thuẫn giữa Tăng Ni trong một giai đoạn lịch sử nào đó, nên các bậc tiền nhân đã áp đặt ra để đè đầu cỡi cổ mấy cô Ni, chứ điều đó không phải do Phật nói. Cho nên, để thích hợp với xã hội toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta phải mạnh dạng xóa bỏ điều này.
30/08/2010(Xem: 3760)
Đất nước hiện nay cần phải phát triển kinh tế để dân giàu nước mạnh. Muốn vậy, người dân Việt phải tăng gia sản xuất tất cả các ngành nghề, cần phải cạnh tranh trong tất cả các lãnh vực kinh tế. Chăn nuôi gia súc, nuôi cá, nuôi tôm là các ngành không thể thiếu để cung ứng thị trường nội địa và xuất khẩu để thu ngoại tệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]