Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tăng đoàn là gì và một tập hợp cư sĩ có thể là một tăng đoàn không?

27/08/201020:03(Xem: 3941)
Tăng đoàn là gì và một tập hợp cư sĩ có thể là một tăng đoàn không?
phat-va-tang-doanTôi được biết hiện nay có ít nhất là hai đoàn thể cư sĩ Phật giáo tại Hoa Kỳ người Việt và người bản xứ, tự xưng là Tăng đoàn Phật giáo mặc dầu không có một vị Tăng hay Ni nào trong tổ chức. Họ tự gọi là “Tăng thân” gì đó (không liên hệ gì đến giáo hội Làng Mai), hoạt động độc lập, tự tổ chức các khoá tu học, giảng đạo lý, hành thiền. Họ không thuộc bất kỳ một tổ chức giáo hội hay tự viện nào. Vậy xin hỏi quý ban biên tập tăng đoàn là gì và một tập hợp cư sĩ có thể là một tăng đoàn không?

Tăng đoàn(Sangha) là những người từ bỏ mái gia đình, sống đời sống độc thân, phát nguyện sống trong tinh thần hoà hợp và thanh tịnh, để hỗ trợ cho nhau thực hiện đời sống giải thoát và lý tưởng giác ngộ. Một tăng đoàn tối thiểu phải gồm bốn vị tỳ kheo, dưới bốn vị không thể gọi là tăng đoàn hoặc ba vị tỳ kheo và một vị sa di cũng không thể gọi là tăng đoàn được. Tăng đoànhay còn gọi là Tăng giàlà một trong Tam Bảo tức ba ngôi báu biểu hiện sự có mặt của Phật giáo và là những người trực tiếp thay đức Phật truyền giới pháp cho cả tăng lẫn cư sĩ Phật tử tại gia. Năm vị tôn giả, dược biết đến là năm anh em Kiều Trần Như là tăng đoàn đầu tiên của Phật giáo.

Ngày nay đạo Phật ở Hoa Kỳ, tuy cũng có những người xuất gia, thọ giới Tỳ kheo, lập thành tăng đoàn nhưng số này không nhiều so với thành phần Phật tử tại gia. Do khuynh hướng thế tục hóa tâm linh và ý tưởng đem đạo Phật vào đời, đạo Phật ở Hoa Kỳ cho đến nay chủ yếu là của những người cư sĩ tại gia. Phần lớn họ chọn lựa cuộc sống có vợ chồng con cái, sinh hoạt trong môi trường gia đình và ngoài xã hội. Họ thường không gia nhập hay phụ thuộc vào một ngôi chùa hay một tổ chức giáo hội do một hay nhiều vị Sư lãnh đạo vì lý do nào đó, mà chỉ gắn kết với nhau, cùng nhau tu tập qua một tổ chức, nhóm tu học hay hiệp hội không vụ lợi do chính họ (các cư sĩ) tổ chức lấy. Họ quan niệm tất cả những đệ tử của Đức Phật đều có Phật tánh và bình đẳng như nhau trên phương diện tâm linh. Một số cư sĩ còn đi xa hơn nữa là không quy y Tam bảo mà chỉ quy y Nhị Bảo. Do vậy nên mới có hiện tượng “Tăng đoàn” cư sĩ hay “Tăng thân” cư sĩ như hiện nay tại Hoa Kỳ.

Tưởng cũng cần nói thêm ở đây, từ “tăng thân” là một thuật ngữ Phật học mới do Thiền sư Làng Mai sáng tạo cũng đồng nghĩa với danh từ “tăng đoàn”. Thiền sư Làng Mai chủ trương phải có một cộng đồng xuất gia (tức tăng thân hay tăng đoàn) vững mạnh và cho rằng “để cho giới cư sĩ Phật Tử lớn mạnh thì cần phải có một truyền thống người xuất gia vững mạnh đi song song”.

Để trả lời câu hỏi thứ hai của độc giả là một tập hợp cư sĩ có thể là một tăng đoàn được không, chúng tôi xin nhường phần trả lời này cho một vị giáo sư đại học tại San Francisco State University: Cư sĩ Ron Epstein, như bài viết dưới đây:

Điều Gọi Là Tăng Đoàn Cư Sĩ tại Hoa Kỳ
Ron Epstein

Nhiều Phật tử mới tại Hoa Kỳ đang phổ biến tư tưởng cho rằng họ là một tăng đoàn và phong trào tăng đoàn cư sĩ là sự thích ứng đúng đắn của Phật Giáo vào hoàn cảnh Hoa Kỳ. Tư tưởng kỳ lạ và nguy hiểm này từ đâu đến?

Theo truyền thống, Tăng đoàn được xem là ngôi báu thứ ba trong Tam bảo – Phật, Pháp và Tăng – là nền tảng của Phật Giáo. Tăng đoàn nói lên cộng đồng những tu sĩ tăng ni thọ cụ túc giới (toàn giới) cống hiến cuộc đời, dành toàn thời gian, cho con đường Phật Đạo. Trong cả hai truyền thống Phật giáo Bắc tông (Đại thừa) và Nam tông (Nguyên thủy), những giới luật liên hệ điều hành đời sống của công đồng Tăng đoàn hầu như đều giống nhau. Những giới luật nầy bảo đảm cuộc sống trong sạch, tuyệt dục, và xa rời những dục vọng thế gian. Trong Phật giáo Nam tông và Bắc tông, những vị Thầy vĩ đại và những Đại sư giác ngộ hầu như đều chỉ từ Tăng đoàn mà ra. Đã từng có một ít nam nữ cư sĩ Phật giáo giác ngộ trong quá khứ, nhưng họ không người nào là không hết lòng hộ trì Tăng đoàn như là nền tảng của một công đồng Phật giáo rộng lớn hơn.

Làm thế nào những cư sĩ lại có thể tạo thành Tăng đoàn? Đây là trường hợp vì chỉ có một ít hiểu biết nên là điều nguy hiểm. Họ nghe rằng trong Phạn ngữ Sanksrit chữ tăng đoàn (sangha) có nghĩa là cộng đồng và tự bảo nhau là chúng ta là cộng đồng, do đó chúng ta nên gọi chúng ta là Tăng đoàn.
Tại sao họ lại bỏ qua ý nghĩa truyền thống của Tăng đoàn trong Phật giáo? Tại sao họ tìm cách giành lấy vai trò của tăng ni mà không cần gánh vác những quyết tâm, thệ nguyện và trách nhiệm? Đây là trường hợp của một cái thấy ban đầu đúng lại đưa đến kết luận sai vì thiếu những thông tin chính xác.

Hầu hết những người trong phong trào tăng đoàn cư sĩ được giới thiệu về Phật giáo qua các Trung tâm Thiền Hoa kỳ (Zen Centers) tự xem là truyền thống Thiền tông Nhật bản, thuộc Phật giáo Đại thừa Bắc tông. Họ thấy rằng những người thầy trong tông này, cả người Nhật và người Hoa kỳ, đều kết hôn và trong nhiều trường hợp có lối sống cách xa sự mộc mạc và thanh tịnh.

Điều đó đánh thức họ rằng không có lý do gì để họ ủng hộ những người được gọi là tu sĩ hay tăng sĩ mà lối sống của những người này không thật sự cao thượng hơn hay đáng tán dương hơn lối sống của họ. Điều này thật hợp lý.

Nhưng như vậy, thay vì ủng hộ một Tăng đoàn đích thật, họ lại tự dựng họ lên thành tăng đoàn. Họ không nhận thức được rằng truyền thống Thiền Nhật bản (Japanese Zen) của họ là xuất xứ từ Thiền Trung hoa (Chinese Chan) (Zen - Thiền - là lối phát âm của Nhật bản) và các dòng Thiền Trung hoa có thể truy ra gốc rễ từ Ấn độ và cuối cùng đến đức Phật.

Họ không biết rằng tất cả các Đại Thiền sư Nhật bản đều ủng hộ mạnh mẽ truyền thống tu viện từng hiện hữu tại Ấn độ và Trung hoa như là điều tuyệt đối thiết yếu cho sự sống còn của truyền thống Thiền Nhật bản. Họ không nhận thức được rằng chỉ đến năm 1868, chỉ cách nay hơn một trăm năm, chính phủ Nhật bản đã đóng cửa tất cả các Tu viện Phật giáo và đẩy các tăng ni hoàn tục. Lý do xóa bỏ Tăng đoàn đích thật tại Nhật bản là lý do chính trị, và không người nào tại Nhật cố gắng lý giải trên cơ sở tôn giáo. Tăng đoàn chỉ đơn giản không bao giờ được tái lập tại đó.

Hầu hết mọi người trong phong trào tăng đoàn đều có ý định tốt, nghĩ rằng họ đang xây dựng Phật giáo Hoa kỳ thật sự. Không may là họ không biết rằng, trong suốt quá trình lịch sử, bất cứ nơi nào có tăng đoàn vững mạnh và thanh tịnh thì Phật giáo thịnh hành, và bất cứ nơi nào tăng đoàn yếu kém và băng hoại, thì Phật giáo suy đồi. Bằng cách tự dựng mình lên thành tăng đoàn, thay vì khuyến khích, giúp đỡ, và ủng hộ Tăng đoàn đích thật, họ không những đã không giúp xây dựng Phật giáo Hoa kỳ, mà còn trực tiếp đối nghịch và phá hoại nó nữa. Những người có thiện ý này cần tìm hiểu thêm về các truyền thống của mình, để họ có thể hiểu về những nguy hại họ đang gây ra, để thay đổi lại, và đi vào con đường Chánh đạo.

The So-Called Lay "Sangha" in America
by Ronald Epstein (Upasaka I Guorong)
Originally published in Vajra Bodhi Sea, v. 16, ser. 38, no. 188, Jan. 1986, p. 18.
(Chinese translation published in Wan-fo Ch'eng, Sept. 1985, p. 18.)


Many of America's new Buddhists are spreading the idea that they are a "sangha" and that their lay "sangha" movement is the correct adaptation of Buddhism to the American scene. Where does this peculiar and dangerous idea come from?
Traditionally the Sangha is considered the third of the Three Jewels---Buddha, Dharma, and Sangha--which are the foundation of Buddhism. Sangha refers to the community of fully ordained monks (Bhikshus) and nuns (Bhikshunis) who de-vote their lives, full-time, to the Buddhist Path. In both Northern (Mahayana) and Southern (Theravada) Buddhism, the moral relations governing the life of the Sangha community are practically identical. They insure a lifestyle that is pure, celibate, and free from worldly desires. In both Northern and Southern Buddhism, the great teachers and enlight-ened masters have come almost exclusively from the Sangha. There have been a few enlightened Buddhist laymen and laywomen in the past, but not one of them failed to wholeheartedly support the Sangha as the foundation of the larger Buddhist community.

How can laypeople constitute a "sangha"? This is a case of a little knowledge being a dangerous thing. They hear that the Sanskrit word sangha means community and say to themselves: we are a community, so we should call ourselves "sangha."
Why do they ignore the traditional meaning of Sangha within Buddhism? Why do they try to usurp the roles of the monks and nuns without taking on their commitment, vows, and responsibilities? This is a case of an initially valid insight leading to wrong conclusions because of lack of correct information.

Most of those in the lay "sangha" movement were introduced to Buddhism through American Zen Centers that see themselves in the tradition of the Japanese Zen schools, which belong to Northern, Mahayana, Buddhism. They see that the teachers in those schools, both Japanese and American, are married and in many cases lead lives that are far from being austere and pure. It strikes them that there is no reason for them to support these so-called "priests" or "monks" whose way of life is not really superior or more laudable than their own. That makes sense. But then, instead of supporting a real Sangha, they set them-selves up as "sangha."

They don't realize that their own Japanese Zen tradition was derived from Chinese Ch'an (Zen being the Japanese pronunciation) and that the lineages of Chinese Ch'an are traced back to India and ultimately to the Buddha. They don't know that all the great Japanese Zen masters strongly supported the monastic traditions as they existed in India and China as being absolutely essential to the survival of the Japanese Zen tradition. They don't realize that it was only in 1868, a little over a hundred years ago, that the Japanese government closed all Buddhist monasteries and sent all the monks and nuns back to lay life. The reason for abolishing the real Sangha in Japan was political, and no one in Japan has ever tried to justify it on religious grounds. The Sangha was simply never reestablished there.

Most of the people in the lay "sangha" movement are well-meaning, thinking that they are building a truly American Buddhism. Unfortunately, they are unaware that, throughout history, wherever the Sangha has been strong and pure, Buddhism has flourished, and wherever the Sangha is weakened and corrupt, Buddhism decays. By setting themselves up as "sangha," instead of encouraging, aiding, and supporting the real Sangha, they are not only failing to help build American Buddhism, but are directly opposing and undermining it. These well-meaning people should educate themselves about their own traditions, so that they can understand the harm they are doing, change their ways, and enter the right Path.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 4270)
"Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.
15/10/2010(Xem: 4641)
Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.
13/10/2010(Xem: 5141)
Chiến tranh đi liền với sát sanh. Chiến tranh đồng nghĩa với tội ác. Sát sanh là nhân, chiến tranh là quả và ngược lại. Hai yếu tố này hỗ trợ cho nhau để tạo nên chia lìa, đau đớn, khủng hoảng, tan tóc, đau thương cho cuộc đời. Khi nào còn chiến tranh, nghĩa là con người còn phải gánh chịu đau khổ, giết hại, thù hằn, đấu tố. Chiến tranh sẽ không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tâm địa giết hại thú vật không thương tiếc, giẫm lên mạng sống của muôn vật, không biết quý trọng mạng sống của đồng loại! Nhân trả lời một nghi vấn của một Phật tử: “Tổng thống Bush có phạm tội sát sanh hay không khi đem quân đi đánh Afghanistan hay không?” Người viết xin trình bày sơ bộ các cách phán đoán tội của một người phạm tội sát sanh cũng như các cấp độ của sát sanh và vài vấn đề liên hệ đến chiến tranh để bổ sung cho câu trả lời trên.
02/10/2010(Xem: 4694)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ CHÚA GIÊSU Nguyên tác: LE DALAI LAMA PARLE DE JÉSUS Éditions Brepols, Paris. 1996 Người dịch : VĨNH AN nhà XUẤT BẢN: THIỆN TRI THỨC, 2003 Một Viễn Cảnh Phật Giáo Về Những Lời Dạy của Đức Giêsu
02/10/2010(Xem: 5123)
Trong bài tham luận ngắn này, người viết giới thiệu khái quát về truyền thống khất thực như một pháp tu trong Phật giáo, thông qua đó phân tích hiện tượng khất thực phi pháp của những kẻ ăn xin giả dạng người tu, làm hoen ố truyền thống tâm linh của Phật giáo. Bên cạnh đó, người viết xin đề xuất phương án ngăn chận tệ nạn này. Đồng thời, đề nghị giải pháp ngăn chận tình trạng “khách không mời mà đến” làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của các ngày kỷ niệm tổ sư khai sáng các chùa và các lễ cúng dường trai tăng nói chung.
30/09/2010(Xem: 5998)
Hân hạnh gửi đến quý vị một vài ý nghĩa phiến diện về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với sự cộng tác của quốc tế, đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử hình dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền xét xử tôi và phán xét những người đã hành động theo lương tâm.
08/09/2010(Xem: 4402)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc...
06/09/2010(Xem: 3911)
Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan. 1) Xã hội phát triển theo xu hướng nam nữ bình quyền. Đài Loan đã trở thành một trong bốn con rồng Châu Á và đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của những tư tưởng phát triển từ phương tây, do đó trong xã hội ngày nay quyền bình đẳng luôn được phụ nữ Đài Loan vận động và tranh đấu. Phong trào nữ quyền ở Đài Loan đã đạt được những thành tựu nhất định. Nữ giới dần có địa vị cao trong mọi lĩnh vực của xã hội. Quan điểm "nam nữ bình quyền" đã được tuyệt đại đa số quần chúng ủng hộ và nó cũng tác động vào sau cánh cổng chùa đến tầng lớp ni giới của Đài Loan.
04/09/2010(Xem: 9846)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 3819)
Vì họ nghĩ rằng, Bát kỉnh pháp là điều khoản bất công với Ni giới, nếu chấp nhận sự có mặt của Bát kỉnh pháp trong hệ thống kinh luật, tức là chấp nhận đức Phật không có từ bi, thiếu tuệ giác và chúng ta tự đào thải mình. Rồi qua một số lý luận không có cơ sở khoa học vững chắc, họ suy đoán rằng các điều khoản trong Bát kỉnh pháp được hình thành là do sự mâu thuẫn giữa Tăng Ni trong một giai đoạn lịch sử nào đó, nên các bậc tiền nhân đã áp đặt ra để đè đầu cỡi cổ mấy cô Ni, chứ điều đó không phải do Phật nói. Cho nên, để thích hợp với xã hội toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta phải mạnh dạng xóa bỏ điều này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567