Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Bảo Thắng Như Lai 🏵️🌻🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼

27/01/202116:14(Xem: 11500)
Đức Bảo Thắng Như Lai 🏵️🌻🌼💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼



Nam Mô A Đi Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay Sư Phụ giảng bài kệ thứ 27 trong Nghi Đảnh Lễ Tam Bảo của Hòa Thượng Thích Trí Thủ:

 

Mâu ni tịch tịnh quán

Thị tắc viễn ly sanh

Thị danh vi bất thủ

Kim thế hậu thế tịnh.

Nhất tâm đảnh lễ Bảo Thắng Như Lai. 


Dịch nghĩa:

Quán tịch tịnh Mâu-ni
Làm cho viễn ly sanh khởi.
Quán ấy gọi là bất thủ (không nắm chấp)
Đời này, đời sau đều tịnh.

Một lòng kính lạy đức Bảo Thắng Như Lai. 

(Bản dịch của HT Thích Chơn Thiện)

 

Đức Bảo Thắng Như Lai, tiếng Phạn gọi là: Ratnaketu, là một trong bảy vị cổ Phật, ngài có công hạnh hay bố thí cho ngạ quỷ, Ngài trụ tại Phương nam cùng Đức Bảo Sanh Phật ( Phương Đông có Đức A Súc Phật, Phương Tây có Phật A Di Đà; Phương Bắc có ĐứcThành Tựu Phật; Trung ương có Đức Tỳ Lô Giá Na Phật).

Trong Nghi Mông Sơn Thí Thực có ghi danh hiệu của Phật Bảo Thắng, có năng lực giúp cho loài ngạ quỷ dứt trừ được lửa nghiệp phiền não sanh tử và sau đó được thác sanh vào cõi lành.

Sư phụ giải chữ Quán Mâu Ni tịch tịnh quá hay. Lần đầu tiên con nghe thấy:

Thích Ca thị Phật chi tánh
Mâu Ni thị Phật chi danh

Thích Ca dịch là Năng Nhơn
Mâu Ni dịch là Tịch Mặc

Năng là năng lực
Nhơn là từ bi

Tịch là không bị sự khổ sự vui làm động
Mặc là không bị phiền não quấy nhiễu.

Quán Mâu Ni là giữ tâm an bình tĩnh lặng, không bị khổ vui, phiền não nhiễm ô quấy động.


Muốn được yên tĩnh tâm hồn phải biết “viễn ly”, phải biết “ly sanh hỷ”, biết buông bỏ lập tức sẽ có niềm vui.

 

Muốn được tịch tĩnh yên ắng trong tâm phải biết buông xuống, không “chấp thủ”, là bám víu, là dính mắc, là cố chấp.

Chấp thủ là kiến hoặc, loại phiền não sai khiến và trói buộc con người trong đau khổ, đó là: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến.

Chấp thủ  là nguồn gốc của bất hạnh & khổ đau.

Người chấp thủ là người cố chấp, cứng đầu, ra rời Tam Bảo và luôn có suy nghĩ một chiều, không bao giờ biết lắng nghe. Sư Phụ trưng dẫn lời Phật dạy trong Tăng chi bộ kinh, chương VI, phẩm IV, kinh số 36: “Người chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ. Vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp” 


Và Vua Trần Thái Tông (1218-1277) cũng nói về người chấp thủ là  Mắc mứu tình trần, Lấp tâm chấp tướng. Như tằm kéo kén, Càng buộc càng bền.

 

Sư Phụ cũng có giải thích về tác phẩm “Vô Môn Quan” của Thiền Sư Huệ Khai (1183-1260) Thiền Sư Tông Lâm Tế đời Tống,

một tác phẩm nói về 43 công án, yêu cầu hành giả phải buông bỏ mọi phiền não chấp thủ để có thể vượt qua “quan ải không có cửa”. Nếu không qua được thì tự hạ thấp mình và tự cô phụ đời tu của mình. (Nhược bất thấu đắc vô môn quan, diệc nãi cô phụ tự kỷ)

Kính Bạch Sư Phụ, bài kệ pháp hôm nay tuy đơn giản, nhưng  ý nghĩa thâm sâu, khó đạt được. Nhờ SP chỉ rõ nguyên nhân  của cái khổ  là từ sự bám víu” cái Tôi đáng sợ” của mình ,  tự dùng năng lực quán chiếu và buông xả “cái tôi” thì mới đạt được thảnh thơi tự tại.

 

Cuối bài giảng Sư Phụ ngâm bài thơ “Cái Tôi” của Thầy Tánh Tuệ rất tuyệt vời diễn tả mọi hình tướng cái tôi đầy phiền não thường tình của chúng sanh, xin mời đại chúng đọc lại theo lời của Sư phụ:

 

Cái Tôi là cái chi chi

Mà hoài quanh quẩn chưa khi nào rời

Thuở còn bé dại nằm nôi

Đã cao giọng khóc cho... đời biết tên.

Điều gì cũng dễ lãng quên

Cái tôi - sâu đậm nhớ bền chẳng phai.

 

- Sớm mai đã ngắm hình hài

Thế gian kia hỏi mấy ai hơn mình.

Điểm tô, trau chuốt dáng hình

Thèm thuồng thiên hạ cái nhìn, xuýt xoa! 

 

Cái tôi theo tháng ngày qua

Măng non thành cụm tre già dặn hơn.

Trong nhà, cuối xóm, đầu thôn

Tôi là số một, tôi “ngon" hơn người.

Tôi khóc, không muốn ai cười

Thấy ai thành đạt tôi thời chẳng vui

Tôi nói ngược, chớ nói xuôi

Một khi tôi muốn có Trời mới can!

 

Tôi thành cái rốn không gian

Bên ngoài nảy nở, bất an trong lòng.

Truy tìm hai chữ thành công

Nên đường Danh, Lợi đèo bồng ngược xuôi.

Chiều cao chỉ một mét thôi

Nhưng muốn đời phải ngước đôi mắt nhìn,

Muốn nhân tâm hướng về mình

Dành bao thiện cảm, tâm tình cho tôi.

Tôi đi, tôi đứng, tôi ngồi

Là trung tâm điểm cho người ước mơ...

 

- Chiều nay, bỗng thật tình cờ

Vào chùa Sư cụ ngó lơ, tôi buồn!

Sư rằng: “Vạn sự vô thường,

Thân, tâm chiếc bóng trên tường, huyễn hư!

Con người khổ bởi khư khư

Ôm cái huyễn ngã, Chân như đoạn lìa.”

 

Ôi! Thanh âm chốn Bồ Đề

Nghe như vụn vỡ u mê nghìn đời.

- Còn “tôi”, còn nặng luân hồi

Buông tôi - nghe nhẹ đất trời thênh thang.

- Có “tôi”, trăm mối lo toan

Vắng “tôi”, đời sống bình an mọi bề.

Lời Sư, trăng rọi lối về

Xưa nay nằm mộng, chưa hề có tôi!

Ngước hư không, bẽn lẽn cười 

Thương “cái tôi” của một thời trẻ con!

 

Con xin thay mặt quý Phật tử gần xa thành kính tri ơn Sư Phụ đã từ bi ban cho chúng đệ tử mỗi ngày một bài pháp thật ý nghĩa để hàng đệ tử chúng con tinh tấn tu trì để có niềm an lạc cho bản thân, gia đình và xã hội.


Nam Mô Bảo Thắng Như Lai.
Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)




27_TT Thich Nguyen Tang_Duc Bao Thang Nhu Lai

Bất Thủ và Viễn Ly triền phược, nhiễm ô
 ... đời đời tịch mặc ! 


Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Bảo Thắng Như Lai . Kính đa tạ và tri ân Thầy đã tạo cơ hội cho con học lại Bộ Kinh Lăng Già đã bỏ quên vài năm sau này vì còn chấp thủ Mà quên rằng đây là một trân bảo ...nay được Thầy truyền trao lại đã giúp con ...thấy được sự nhiệm mầu ...để đoạn trừ phiền não khổ đau . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, HH



Nghi thức tụng niệm Bảo Thắng Như Lai được trích : 
Từ kệ tán thán Phật trong LĂNG GIÀ KINH
Bồ Tát Đại Huệ Thương thủ ..cơ, linh 
Kính quy ngưỡng trì tụng và suy nghiệm :

“ Mâu Ni tịch tịnh quán 
Thị tắc viễn ly sanh 
Thị danh vi Bất Thủ 
Kim thế hầu thể  tịnh” 
Dịch 
Quán Mâu  Ni tịch tịnh 
Làm cho viễn ly sanh khởi 
Quán ấy gọi là Bất thủ 
Đời này đời sau đều tịnh
( HT Thích Chơn Thiện ) 
 

Công phu chiều “ Mông Sơn thí thực “...
Hồng danh Ngài thường được niệm 


Vì công hạnh bố thí cho ngạ quỷ  thác sanh 
Ngự trị Phương  Nam cùng Phật Bảo  Sanh 
Vị trí Mạn đà La trong Liên Hoa Tạng Giới ! 

Hàng thứ hai trong  Thất Bảo Như Lai được nhắc tới 
Phiền não cấu nhiễm không muốn khởi sinh 
Lìa bỏ tất cả vọng tưởng, tri kiến nơi mình 
Đừng chấp giữ là năng lực từ bi hoàn mỹ !

Đa tạ Giảng Sư ... 
“ Ngắm Trăng Lăng già “ đề cập LY SANH HỶ 
Căn bản phiền não và chi mạc gây tạo khổ đau 
Nguyện đoạn trừ... dù tập khí đã ăn sâu 
Không cô phụ tâm huyết Thày truyền trao ban phát 
 Pháp thoại vừa nghe xong... chuyển bao vọng tác ! 

Nhất Tâm đảnh lễ "Nam Mô  Bảo Thắng  Như Lai " 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/06/2011(Xem: 26554)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Giọng niệm: HT Thích Hạnh Hòa, TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng www.quangduc.com
13/06/2011(Xem: 11206)
Audio: Thiền Tập, bài giảng của TT Tâm Thành
23/04/2011(Xem: 4250)
Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.
01/04/2011(Xem: 3897)
Mấy ngày trước, có một đồng tu đến kể với tôi rằng ông gặp một câu hỏi khó như sau: “Các vị là người học Phật, vậy chân thật có Phật hay không? Anh đã bao giờ thấy Phật chưa?” Ông không thể trả lời, liền trở về hiệp hội hỏi tôi, để về sau nếu gặp câu hỏi này thì nên trả lời như thế nào? Tôi nói với ông ấy, giả như về sau lại có người hỏi như thế thì ông nên nói với họ: “Thật có Phật, tôi đã thấy qua rất nhiều”. Họ sẽ hỏi ở đâu.
24/02/2011(Xem: 26335)
8 Điểm Gặp Gỡ Kinh Nam và Bắc Tạng - HT Thích Chơn Thiện giảng
24/02/2011(Xem: 8007)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
22/02/2011(Xem: 4140)
I. GIỚI THIỆU: Kỳ-na giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo phi Phệ-đà và có những đặc điểm của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một phong trào chống lại chủ trương tế lễ của Bà-la-môn giáo và tính thẩm quyền của Phệ-đà.
18/02/2011(Xem: 5384)
Bà La Môn là phiên âm của từ Brahman, sau nầy biến cải thành đạo Hindu, một tôn giáo chính của Ấn độ ngày nay, nên ngày nay gọi là Ấn Độ giáo. Đặc biệt Bà La Môn hay Ấn Độ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ.
08/02/2011(Xem: 3792)
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinhI, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức,Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hương cầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v..., nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo vạn sự cát tường như ý.
05/01/2011(Xem: 13355)
Lễ Thù Ân Giọng tụng: HT Thích Quảng Bình (HT Thích Quảng Bình lễ Thù Ân tại Tu Viện Quảng Đức ngày 5/11/2011)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]